“Ở hai đầu nỗi nhớ”
Tác giả: Kim Dung
Có một điều rất hiển nhiên, đôi khi trong cuộc sống, người ta rất dễ bị đánh lừa bởi cái vẻ hào nhoáng, mã thượng. Nhưng ngược lại, đôi khi, người ta cũng dễ bị đánh lừa bởi cái vẻ xù xì, lầm lũi, mà không biết rằng, dưới cái vẻ khô xác ấy, có “chất ngọc” của tâm hồn.
Lần ấy, nhân kết thúc một kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, cánh nhà báo nữ chúng tôi được các quan chức giáo dục cơ sở mời đi ăn (có cả hát karaoke). Nói thực, trong mối quan hệ giữa báo chí với các quan chức giáo dục, nhất là phái nữ, lại là một người như tôi, luôn giữ khoảng cách vừa đủ gần, vừa đủ xa, lịch lãm và tôn trọng.
Giữa cuộc vui, một giọng hát cất lên: “Có một không gian nào. Đo chiều dài nỗi nhớ. Có khoảng mênh mông nào. Sâu thẳm hơn tình thương. Ở đầu này nỗi nhớ. Anh mơ về bên em. Ngôi sao như xuống thấp. Cho ta gần nhau hơn. Đêm nghe tiếng mưa rơi. Đếm mấy triệu hạt rồi. Mà không vơi nỗi nhớ. Ở hai đầu nỗi nhớ. Yêu và thương sâu hơn. Ở hai đầu nỗi nhớ. Nghĩa tình đằm thắm hơn”.
Tất cả như lặng đi. Tôi cũng lặng đi. Giọng hát của một vị quan chức. Da diết, sâu lắng, chân thành. Ông dường như đang sống những giây phút thật nhất của con người mình. Không có vẻ mặt đạo mạo, thậm chí cau có cáu kỉnh. Không có cái động tác bút phê, vừa nghiêm cẩn, vừa lạnh lùng. Chỉ có giọng hát ngọt ngào, ấm áp, đầy sức truyền cảm như của một nghệ sĩ, như của một chàng trai trẻ đang yêu. Nghe giọng ông hát, bỗng thấy cảm thông với ông hơn, và thấy ông “dễ thương” hơn. (Sau này, ông gọi điện cho tôi, cảm động vì trong bài viết, đã nhắc tới ông. Ông cũng là người rất quý tôi, và ngược lại, tôi trân trọng ông).
Thế rồi, bài hát “Ở hai đầu nỗi nhớ” được giới thiệu là của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, tôi được nghe nhiều lần từ các ca sĩ tài danh Thu Hiền, Bảo Yến, trở thành nỗi ám ảnh. Nhất là những đêm mưa cuối đông. Tiếng mưa lắc rắc trên mái hiên lành lạnh, trên lá cây buồn buồn, nhè nhẹ, như âm thầm… Không ngủ được, tôi cũng nằm nghe tiếng mưa rơi, bỗng nhớ những giai điệu đẹp của ca từ: “Đêm nghe tiếng mưa rơi. Đếm mấy triệu hạt rồi. Mà không vơi nỗi nhớ…“, cảm nhận con tim yêu da diết, thanh tân đến không ngờ của người nhạc sĩ già nổi tiếng. Làm sao mà đếm được mấy triệu hạt mưa, mà đếm được cái vô cùng, vô hạn…?
Bất ngờ, tôi biết được bài hát ấy chỉ có nhạc là của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, lời là thơ của Trần Hoài Thu. Bất ngờ nữa, Trần Hoài Thu chính là Trần Đình Chính, một nhà báo, đồng nghiệp với tôi ở Báo Nhân Dân. Trong mắt tôi, Trần Đình Chính là một người hướng nội, hơi lặng lẽ, khắc khổ, một “tuýp” người không dễ chia sẻ. Cùng cơ quan đấy, nhưng chúng tôi ít gặp nhau vì ai cũng bận rộn với mảng công việc của mình.
Hóa ra, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng quê gốc Chính là Ngọc Lũ (Hà Nam), mảnh đất của trống đồng Ngọc Lũ, thấm đẫm hồn cốt nước Việt thuở khai thiên lập địa. Trong ký ức Chính, cha của Chính, một người thợ may từng có cửa hàng may ở phố Huế, là người hiền lắm, dễ tính lắm, đến nỗi có lần bà nội của Chính bảo: “Bố mày mà là con gái thì chửa hoang không biết bao lần”.
Chính cười khục khục khi kể tôi nghe vậy, đôi mắt hơi xếch nghịch ngợm, tinh quái, khác hẳn lúc bình thường trầm tư, khi nào cũng như đang nghĩ ngợi một việc gì. Những vần vũ của cuộc đời đã xô đẩy cha của Chính, một con người, từng có lúc làm Chủ tịch UBND xã Ngọc Lũ, những năm Cách mạng Tháng Tám, trôi dạt lên Hà Nội mưu sinh, đẻ một lũ sáu đứa con mà Chính là đứa con thứ hai, nhưng là con trai trưởng. Những ngày tháng của tuổi thơ trèo me, trèo sấu, bắt chim, bắt cá vụng dại, lêu lổng mọi ngóc ngách Hà Nội, ăn roi, ăn vọt của cha, rồi cũng qua. Chính trở thành anh lính Hà Nội vào tháng 9/1973, khi mới học lớp 10 (cũ) của Trường cấp 3 (nay gọi trung học phổ thông) Trần Phú được mấy hôm. Bắt đầu cuộc đời mới.
Huấn luyện được sáu tháng ở miền Bắc, tháng 3/1974, Chính cùng đồng đội vào chiến trường… Cái khắc nghiệt và khốc liệt của chiến tranh, trước Chính chỉ đọc, chỉ cảm nhận trong trang sách học trò, trong các tác phẩm văn học, giờ nếm trải đến gan ruột trong trang đời…
Hỏi, kỷ niệm Chính nhớ nhất những năm tháng đời lính là gì? Chính bảo, đó là cái thời khắc gần cái chết nhất, trước Ngày 30-4-1975. Buổi chiều 27/4 ấy, được cấp trên thông báo có một đoàn xe đối phương đang chuẩn bị chạy qua đoạn Vĩnh Long và Cần Thơ. Chính và đồng đội phải chốt chặn tại quốc lộ 4, nằm trong đơn vị cối, đơn vị hỏa lực C12. Loạt cối đầu tiên vừa bắn ra, lính đối phương nháo nhào nhảy xuống hai bên đường.
Vừa nhìn thấy nhau, bỗng Chính nghe thấy “cộc” một tiếng, tiếng nổ đầu nòng của một loại súng cối. Linh cảm và kinh nghiệm trận mạc cho biết nó sẽ nổ rất gần mình, Chính chỉ kịp nhào vào phía trong công sự thì đạn nổ. Đất đá mù mịt, anh em ai cũng tưởng Chính “dính” rồi. Chiến tranh là vậy, cái sống, cái chết mong manh cách nhau chỉ một sợi tóc. Giờ, Chính vẫn nhớ rõ như in cái tiếng “cộc” khô khốc, lạnh tanh, lạnh gáy ấy.
Hai năm sau thống nhất đất nước, chàng lính trẻ người Hà Nội xuất ngũ, trở về với 36 phố phường. Số phận may mắn và run rủi, Chính được vào làm việc ở Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận lớn nhất. Làm nhân viên giao thông, rồi làm chân sửa bài của Ban Thư ký Tòa soạn báo, Chính vừa học tiếp và tốt nghiệp bổ túc văn hóa (lớp 10) để chuẩn bị thi đại học và được cơ quan cử trong đoàn cán bộ, nhân viên sang giúp báo bạn Campuchia. Chính ở nơi này, tại thủ đô Phnôm Pênh của nước bạn, anh gặp tình yêu đầu tiên của mình, gặp người con gái, nhân vật chính của bài thơ.
Cô gái ấy có cái tên rất lạ, M.Đ., cái tên là sự kết hợp của hai loài hoa tiêu biểu nhất của Sài Gòn và Hà Nội mỗi khi xuân về. M.Đ. rất xinh đẹp, rực rỡ và phúc hậu. Cô cũng ở trong một đoàn cán bộ của TP Hồ Chí Minh sang giúp bạn. Đang là sinh viên Văn khoa Sài Gòn, cách mạng về, bị cuốn vào luồng gió mới, M.Đ. rời trường đại học, tham gia hoạt động, thuộc thế hệ thanh niên “Cách mạng 30-4″.
Thủ đô Phnôm Pênh ngày đó hoang vắng lắm nhưng vẫn giữ được vẻ kiêu sa. Thành phố có những đường phố lớn, quyến rũ bởi những ngôi biệt thự kiến trúc cổ Âu-Á đặc sắc, có thần rắn Naga hai đầu, có những hồ nước, những rặng cây bằng lăng tím trầm tư, hay những rặng cây trâm anh vàng rực rỡ. Sự sống của Phnôm Pênh trở lại, bắt đầu từ những cọng hành xanh mướt được bán ở các chợ tại Phnôm Pênh. Giữa vẻ mỹ lệ của thủ đô cổ kính, Chính đã gặp M.Đ. Thanh xuân gặp thanh xuân. Lúc đó, Chính mới 22 tuổi, còn M.Đ 20. Trai Hà Nội, gái Sài Gòn. Cái gì phải đến đã đến. Tình yêu dù kín đáo đến dường nào cũng khó giấu được.
Ngoài thời gian bận rộn, làm đủ các việc theo yêu cầu cơ quan, hầu như ngày nghỉ, chủ nhật nào, Chính cũng lái chiếc xe ôtô Peugeđ 304 đưa M.Đ. đi chơi khắp thành phố. Vào chợ, các bà, các má Campuchia cứ tấm tắc khen đôi trai gái trẻ, đẹp quá. Tình yêu đầu ngọt ngào, êm đềm và say đắm. Cơ quan biết chuyện, ai cũng vun vào cho chàng lính trẻ và cô sinh viên Văn khoa.
Thế nhưng, giống như những câu chuyện tình buồn, trong quấn quýt đã có mầm chia xa.
Cản ngại lớn lại từ phía gia đình M.Đ. Sau Ngày 30-4, cả gia đình cô bỏ Sài Gòn về Sông Bé sinh sống. Tình yêu đầu non nớt của đôi trẻ, mãnh liệt đấy, nhưng lại quá mong manh, đã không vượt qua nổi núi cao, sông rộng của sự mặc cảm, định kiến. Tháng 4/1980, sau một năm rưỡi công tác ở nước bạn, Chính được lệnh trở về Hà Nội.
Những gì đẹp đẽ nhất, êm ái nhất, với Chính, đã để lại ở Phnôm Pênh. Những buổi chiều Hà Nội, Chính bảo, ngắm nhìn phố xá, con người Hà Nội thấy đẹp quá, nhưng ai ai cũng có đôi, chỉ riêng Chính có một mình. Những đêm mưa Hà Nội sao dài thế. Không sao ngủ được, Chính nằm co, đếm tiếng mưa rơi, nhớ khắc khoải, nhớ miên man những kỷ niệm…
Rồi một buổi chiều, tình cờ, Chính nghe tin bộ đội tình nguyện Việt Nam từ Campuchia rút về nước, trong đó có Binh đoàn Cửu Long. Lúc đó, Chính đang công tác ở Ban An ninh – Quốc phòng của Báo Nhân Dân, bắt đầu học và được viết báo. Nỗi nhớ những kỷ niệm chiến tranh, nhớ đồng đội, nhớ M.Đ. ập đến, da diết.
Trái tim đau bỗng nở hoa.
Chính viết liền một mạch. Bài thơ “Ở hai đầu nỗi nhớ” ra đời như thế: “Có một không gian nào/ Đo chiều dài nỗi nhớ/ Có khoảng mênh mông nào/ Sâu thẳm hơn tình thương?/ Anh đang ở Pai Lin/ Rừng khộp khô trong nắng/ Thương em ngoài ấy lạnh/ Muốn gửi chút nắng rừng/ Chào Nông Pênh mến yêu/ Sức vươn chàng dũng sĩ/ Tạm biệt dòng Bốn Mặt/ Sóng đang hát đôi bờ/ Ở đầu này nỗi nhớ/ Anh mơ về bên em/ Ngôi sao như xuống thấp/ Cho ta gần nhau hơn/ Ở đầu kia nỗi nhớ/ Nằm đếm tiếng mưa rơi/ Được mấy triệu hạt rồi/ Mà chưa vơi nỗi nhớ/ Ở hai đầu nỗi nhớ/ Yêu và thương sâu hơn/ Ở hai đầu nỗi nhớ/ Nghĩa tình đằm thắm hơn“. Bài thơ ấy, Chính ký tên Trần Hoài Thu.
Chính nhớ quá những mùa thu. Mùa thu Phnôm Pênh. Mùa thu Hà Nội. Sau này, Trần Hoài Thu cũng là tên đứa con gái đầu của Chính. Nộp bài thơ cho vị phụ trách ban xong mà Chính hồi hộp không thể tả được, hệt như cậu học trò đi thi ấy. Khỏi phải nói, nỗi sung sướng, hạnh phúc đến thế nào khi bài thơ “Ở hai đầu nỗi nhớ” mấy ngày sau đăng trang trọng trên trang bốn Báo Nhân Dân (lúc đó, Báo Nhân Dân in bốn trang). Cũng phải công bằng mà nói, bài thơ đăng lên, được nhiều người biết, nhất là khi được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc.
Năm ấy, 1988, đi công tác TP Hồ Chí Minh, vào chợ Bến Thành, qua cửa hàng bán băng đĩa, Chính bỗng sững người khi nghe giọng Bảo Yến, ca sĩ nổi tiếng một thời, trầm ấm: “Có một không gian nào. Đo chiều dài nỗi nhớ…”. Hóa ra, bài thơ của mình đã được phổ nhạc. Phải một lúc mới trấn tĩnh được, Chính vào cửa hàng hỏi mua băng nhạc đó, tập hợp toàn bài hát của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu với tiêu đề “Ở hai đầu nỗi nhớ”. Rồi sau này, sau này nữa, Chính được nghe nhiều lần bài hát “Ở hai đầu nỗi nhớ” trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
Trong đội ngũ đông đảo những nhà báo ở Báo Nhân Dân, có nhiều nhà báo nhưng với tôi, Chính luôn là một đồng nghiệp sống với nghề, vì nghề, tâm huyết, cẩn trọng với nghề, một phẩm cách hết sức đáng trọng của nghiệp cầm bút, giữa thời buổi nhiều chen lấn này…. Nhưng thú thật, tôi cũng không dám hỏi sâu hơn về đời riêng của Chính, cũng không muốn hỏi kỹ hơn về M.Đ., người con gái năm xưa.
Phận đàn bà, mười hai bến nước, biết bến nào đục, bến nào trong…
Chỉ biết Chính từng có chuyện buồn về gia đình riêng, mà theo Chính, do quá khác nhau về những quan niệm giá trị. Nhưng Chính rất ngay thẳng khi bảo rằng: “Trong chuyện chia tay, thì chắc chắn cả hai người cùng có lỗi”. Chính đã ra khỏi ngôi nhà xây đẹp đẽ ấy, một cách rất đàn ông. Giờ đây, cuộc đời như đang mỉm cười với Chính. Anh đang có một hạnh phúc mới, một căn hộ chung cư còn đi thuê, một mụn con gái nhỏ xíu với người vợ trẻ cùng nghề báo mà Chính bảo: “Chẳng bao giờ dám nghĩ tới vì cô ấy còn trẻ quá”. Nhưng tình yêu là chuyện con tim, đâu phải chuyện tuổi tác?
Thơ “xưa viết cho một người, giờ hát cho mọi người“. Một nhạc sĩ tài danh nào đó đã viết như vậy. Điều kỳ diệu và tuyệt vời của cuộc đời, là có những cái tưởng là mất, nhưng mãi mãi là còn, là được, phải không Chính?
————
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét