Menu ngang

Thứ Năm, 11 tháng 5, 2017

TRƯỜNG SA - CHA ĐÃ ĐI & CON ĐANG ĐI

Từ ngày 10/5 đến nay, Thùy Vinh - con gái tôi công tác ở Trung tâm Phát thanh Truyền hình Quân đội - đang cùng đoàn cán bộ ra thăm Trường Sa. Dẫu con đã 37 tuổi, lại trong điều kiện rất an toàn, nhưng chúng tôi vẫn không khỏi lo lắng, nhất là những chuyến đi xa. Ắt hẳn cha mẹ nào cũng vậy. Ông mụ chúng tôi và hai cháu ngoại dõi theo hành trình trong mấy hôm nay của con gái. Tôi qua, cháu ngoại Thùy Anh hỏi, ông ơi, mẹ con bao giờ về? Mẹ con ra Trường Sa để làm gì hở ông?... Trả lời cháu, trong tôi hình dung lại cung đường trên biển tôi đã đi và hiện nay mẹ cháu đang đi. Thực ra chỉ có mấy ngày thôi, ấy vậy mà, thỉnh thoảng, khi có sóng từ trên con tầuu hoặc trên đảo, Thùy Vinh tranh thủ gọi điện về, chúng tôi mừng lắm. Tôi dặn Thùy Vinh, trên tay con thường xuyên phải có cuốn sổ để ghi chép. Nếu không mọi việc sẽ trôi tuột đi theo ngày tháng mà chẳng có kỷ niệm gì đọng lại. Ở đâu và bao giờ cũng vây : Đi, nghe, nhìn, hỏi, nghĩ, viết là yêu cầu bắt buộc của người làm báo.
Nhân chuyến con gái đang đi Trường Sa, tôi kể lại chuyện của 25 năm trước. Có thể, dẫu cách xa hàng ngàn cây số, Thùy Vinh sẽ đọc trên Facebook. Thời đại thông tin mạng xã hội thật tiện lợi vô cùng.
Dẫu đã qua 1/4 thế kỷ, với bao điều thay đổi trong cuộc sống, nhưng chắc rằng tâm trạng, cảm xúc của Cha và Con khi ra Trường Sa là giống nhau.

Giữa tháng 4 năm 1992, tôi tham gia Đoàn cán bộ của Tổng cục Chính trị do anh Lê Khả Phiêu dẫn đầu đi thăm Trường Sa. Đây là chuyến công tác đầu tiên của tôi trên cương vị Cục phó Cục Chính sách. ( Tháng 7/1992, Thủ trưởng Tổng cục Chính trị giao tôi đảm nhiệm Quyền Cục trưởng Cục Chính sách. Sau đó đến tháng 12/1993, tôi được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết đinh bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng ).
Đã thành thói quen, trước khi bắt đầu thực thi một nhiệm vụ, tôi có một phương pháp là dành thời gian nghiên cứu tìm hiểu trước tình hình đặc điểm nơi sẽ tới, những việc phải làm và những điều cần chuẩn bị.
Trường Sa - đây là một quần đảo lớn, gồm trên 100 đảo, bãi đá ngầm, bãi san hô,…nằm rải rác trên một vùng biển rộng cách Cam Ranh- Khánh Hòa khoảng gần 500 cây số về hướng đông nam. Từ tây sang đông dài khoảng 650 km, từ bắc xuống nam khoảng 620 km. Tổng diện tích phần nổi của các đảo là 10 km2. Độ cao trung bình các đảo là 3- 5 m. Bao quanh các đảo là một vành đai san hô. Đây là một vùng đánh cá trù phú và giàu có về tài nguyên dầu mỏ và khí đốt. Do lịch sử để lại, quần đảo Trường Sa là một vùng chồng lấn của nhiều quốc gia: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Bru-nei, Malaysia, Philippines. Mỗi nước tuyên bố chủ quyền một khu vực. Từ năm 1968, khi phát hiện dầu mỏ với một trữ lượng rất lớn, đồng thời nhận ra vị trí chiến lược có ý nghĩa về chính trị, kinh tế, quân sự, dẫn đến tình hình tranh chấp chủ quyền ở khu vực quần đảo Trường Sa càng thêm căng thẳng, quyết liệt.
Việt Nam đã khẳng định chủ quyền ở Trường Sa từ rất sớm. Từ xa xưa ông cha chúng ta bằng những con thuyền nhỏ vượt trùng dương bão tố ra đây, đã hiện diện và tuyên bố chủ quyền ở khu vực này. Đầu thế kỷ thứ 17, nhà bác học Lê Quí Đôn (1726-1784) đã viết về Trường Sa và Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi trong cuốn Phủ biên tạp lục.
Từ ngày 14 tháng 4 năm 1975 đến 29 tháng 4 năm 1975, đồng thời với việc giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong đất liền, lực lượng vũ trang ta đã tấn công giải phóng từ tay quân ngụy Sài Gòn 6 hòn đảo trong quần đảo Trường Sa . Bao gồm : giải phóng Song Tử Tây (ngày 14 ngày 4 tháng 4 năm 1975), Sơn Ca (25 tháng 4 năm 1975), Nam Yết, Sinh Tồn , An Bang (28 tháng 4 năm 1975), Trường Sa (29 tháng 4 năm 1975). Sau đó chúng ta đã chiếm giữ 21 đảo lớn nhỏ. Trong đó Trường Sa là đảo lớn nhất với chiều dài là 750 mét, chiều rộng là 400 mét, cao 2 mét, khi triều lên. Đến năm 1982, Nhà nước ta quyết định thành lập đơn vị hành chính huyện Trường Sa thuộc tỉnh Phú Khánh ( nay thuộc tỉnh Khánh Hòa ).
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là : Kiên quyết khẳng định chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa. Đây là nhiệm vụ lâu dài, toàn diện, phức tạp, đấu tranh trên nhiều lĩnh vực: pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quân sự, nhằm giữ vững hòa bình để phát triển kinh tế.
Hàng năm, Bộ Quốc phòng thường tổ chức các đoàn cán bộ ra thăm Trường Sa. Nhằm góp phần chăm sóc động viên cán bộ, chiến sĩ thuộc các đơn vị hải quân đang ngày đêm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, từ nhiều năm, các ngành các cấp và các địa phương đã có phong trào “Cả nước hướng về Trường Sa thân yêu”. Phong trào đó có ý nghĩa rất lớn cả về tinh thần và vật chất, tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ nơi đầu sóng, ngọn gió.
Thành phần Đoàn cán bộ Tổng cục Chính trị đi thăm và làm việc ở Trường Sa hồi đó còn có : Anh Nguyễn Xuân Hòe, Cục trưởng Cục Tổ chức; anh Trần Danh Bích, Cục phó Cục Cán bộ; anh Đào Ngô Minh, Cục phó Cục Tuyên huấn; anh Phan Khắc Hải, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân; anh Nguyễn Ngọc Cầm, Phó Văn phòng Tổng cục Chính trị, cùng mấy anh cán bộ Văn phòng Tổng cục Chính trị. Cùng đi với Đoàn, có anh Nguyễn Văn Khoái, Chủ nhiệm chính trị Quân chủng Hải quân; anh Trần Văn Cảnh, Phó chỉ trưởng về chính trị Vùng 4 Hải quân; anh Bạ , Phó lữ đoàn trưởng về chính trị Lữ đoàn 146. Cùng đi với Đoàn, còn có Đoàn Văn công Quân khu 4 do anh Trúc Ẩm, Đoàn trưởng dẫn đầu ra biểu diễn cho bộ đội ở các đảo.
Mục đích chuyến đi là thăm và làm việc với lãnh đạo, chỉ huy cùng cán bộ, chiến sĩ đang công tác trên một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Qua đó, nắm tình hình đời sống sinh hoạt, tình hình triển khai và kết quả hoàn thành nhiệm vụ, tình hình và kết quả công tác đảng, công tác chính trị. Theo phạm vi chức năng, các cơ quan có trách nhệm chỉ đạo, hướng dẫn đơn vị giải quyết một số vấn đề vướng mắc nổi cộm, đồng thời tổng hợp các ý kiến đề đạt. Ý kiến gì thuộc phạm vi quyền hạn của mình thì trực tiếp có ý kiến giải quyết tại chỗ. Những vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của cấp trên thì tổng hợp nghiên cứu đề đạt.
Đúng 6 giờ 30 phút ngày 12 tháng 4 năm 1992, tầu Titan mang số hiệu HQ 957 kéo một hồi còi dài tạm biệt Quân cảng thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu hành trình ra Trường Sa. Kế hoạch đặt ra là, với tốc độ bình quân 10 hải lý /giờ, điểm đến đầu tiên của Đoàn chúng tôi là đảo Phúc Nguyên. Từ Phúc Nguyên lần lượt đi Quế Đường, Huyền Trân, Đá Lát, Trường Sa Đông, Đá Tây, Trường Sa. Tổng số là 7 đảo. Từ Trường Sa tầu sẽ trở về đất liền, cập quân cảng Cam Ranh vào ngày 22-4-1992.
Những nơi chúng tôi đặt chân đến, cán bộ chiến sĩ thuộc các đơn vị canh giữ đảo tay bắt mặt mừng đón tiếp trong niềm hân hoan phấn khởi. Chúng tôi gặp gỡ những người lính tóc đỏ quạch, da đen cháy, người chắc nịch rắn rỏi, với giọng nói, tiếng cười hồn nhiên sảng khoái. Anh em cho chúng tôi biết cụ thể về tình hình đơn vị, nhiệm vụ được giao, đời sống vật chất, tinh thần trên đảo, chế độ tiêu chuẩn được hưởng, hoàn cảnh gia đình và  những đề đạt nguyện vọng. Những lời nói mộc mạc chân thành thẳng thắn được phát ra từ những cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm sát cánh bên nhau, vượt qua mọi thử thách, sẵn sàng hy sinh, kiên cường, kiên quyết, kiên trì phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc nơi quần đảo bão tố. Dù đã ở Trường Sơn ngót 10 năm trong chiến tranh chống Mỹ nếm trải nhiều khó khăn gian khổ, nhưng khi ra đây tôi nhận thấy rằng, anh em hoạt động ở Trường Sa còn có những điều vất vả hơn.
13 giờ 45 phút ngày 19 tháng 4 năm 1992, Đoàn cán bộ làm việc với Ban chỉ huy đảo Trường Sa. Sau khi nghe ý kiến phát biểu của đơn vị và các cơ quan, anh Lê Khả Phiêu kết luận. Mở đầu, anh Phiêu nhận xét : Đơn vị có nhiều cố gắng trong thực hiện nhiệm vụ, tạo được cơ sở vật chất nhất định, cơ sở hạ tầng,…từ đó tạo điều kiện để tiếp tục hoàn chỉnh thêm từng bước. Cán bộ, chiến sĩ có  trách nhiệm cao trong lao động, cường độ vất vả trong điều kiện khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Đơn vị đã chủ động tích cực thực hiện các kế hoạch do trên xác định. Từng bước xây dựng được nền nếp trên nhiều mặt. Đã có nhiều cố gắng trong việc tăng gia góp phần cải thiện đời sống bộ đội. Có cố gắng trong việc bảo quản vũ khí, trang bị kỹ thuật. Tư tưởng bộ đội ổn định, thể hiện rõ trong việc quán triệt nhiệm vụ, xác định chủ quyền, xác định đối tượng tác chiến. Sinh hoạt Đảng, Đoàn được giữ vững. Làm tốt công tác phát triển đảng, chú ý đến chất lượng. Có phong trào thi đua sôi nổi. Biết khai thác các phương tiện công tác chính trị. Đoàn kết nội bộ và các đơn vị phối thuộc tốt. Tóm lại, đã tạo được sức mạnh để giữ vững chủ quyền, tạo được lực lượng chiến đấu tại chỗ. Tuy nhiên, đó mới chỉ là kết quả bước đầu. Bước đầu của tất cả các cấp. Với cả nước cũng là bước đầu. Yêu cầu nhận thức nhiệm vụ phải sâu hơn. Giữ vững độc lập chủ quyền ở Trường Sa có ý nghĩa chính trị, quân sự, kinh tế, cả trước mắt và lâu dài. Sự hiện diện của lực lượng vũ trang ở đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Phải giữ vững về quân sự để từ đó phát triển kinh tế. Kinh tế, quân sự, đối ngoại phối hợp chặt chẽ với nhau vì một mục tiêu chung là giữ vững chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Sứ mệnh lịch sử này, Tổ quốc và nhân dân giao phó lực lượng vũ trang chúng ta.

Khi về đến quân cảng Cam Ranh, 14 giờ ngày 21 tháng 4 năm  1992, Đoàn tổ chưc họp đánh giá tình hình chung ở những nơi đã đến thăm và rút kinh nghiệm cho chuyến đi thăm Trường Sa. Chuyến công tác Trường Sa đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Sau khi nghe phản ánh của đơn vị, kết hợp với việc thâm nhập trực tiếp nắm tình hình ở đảo, Đoàn đã có những ý kiến chỉ đạo hướng dẫn kịp thời về công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng, về tổ chức cán bộ, về bảo đảm đời sống vật chất tinh thần, nghiên cứu tiếp tục hoàn chỉnh nội dung và phương thức thực hiện chế độ, chính sách đối với bộ đội Trường Sa. Nội dung chính sách đối với bộ đội Trường Sa qua nhiều lần bổ sung sửa đổi đã từng bước hoàn thiện theo hướng thực hiện chế độ luân lưu cán bộ, thời gian phục vụ có hạn định; thực hiện các chế độ ưu đãi về tiền lương,  phụ cấp, bảo hiểm xã hội,…Các chính sách đó có ý nghĩa tích cực bảo đảm công bằng, góp phần cùng với công tác tư tưởng và công tác tổ chức, động viên khuyến khích cán bộ yên tâm phấn khởi hoàn thành nhiệm vụ.
NHỚ LẠI VÀI MẨU KỈ NIỆM VỚI MỸ

                                                                     

       Sau khi hai Nhà nước bình thường hóa quan hệ, Hội Cựu Chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam (VVA) đã tổ chức nhiều đoàn sang thăm nước ta. Nhằm khai thác thêm các kênh thông tin góp phần giải quyết những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh chống Mỹ, lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị đã giao cho tôi với cương vị Cục trưởng Cục Chính sách nhiều lần gặp gỡ tiếp xúc với các đoàn Đại biểu Cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam (VVA) để tiếp nhận các tài liệu, hiện vật có liên quan đến bộ đội ta hy sinh mà các cựu chiến binh Mỹ tham chiến Việt Nam nắm được.
       Trong các lần tiếp xúc với phía Mỹ (VVA), cùng với việc trao đổi cung cấp thông tin, có lúc giữa hai bên cũng tranh luận với nhau trên một số điểm trong cách nhìn nhận các vấn đề thuộc về quan điểm, nhận thức. Đó cũng là điều dễ hiểu.
       Tôi nhớ, ngày 18 tháng 5 năm 1994, lần tiếp xúc làm việc đầu tiên giữa Cục Chính sách với Đoàn VVA tại nhà khách Bộ Quốc phòng, 33- Phạm Ngũ Lão- Hà Nội. Phía VVA có ông Jimbradi trưởng đoàn và 14 thành viên khác. Về phía ta, cùng phối hợp với Cục Chính sách, còn có anh Vũ Xuân Hồng, Phó Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị của Việt Nam, cán bộ Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng và cán bộ một số cơ quan khác có liên quan.
      Bước vào buổi tiếp xúc, sau lời chào mừng có tính chất xã giao của cả hai bên, ông Jimbradi trưởng đoàn VVA của Mỹ trịnh trọng tuyên bố:
      - Thưa ông Nguyễn Mạnh Đẩu, Cục trưởng Cục Chính sách - Bộ Quốc phòng Việt Nam! Trong chiến tranh, chúng ta là kẻ thù của nhau. Còn bây giờ, khi hai bên đã bình thường hóa quan hệ, mong các ông đừng coi chúng tôi là kẻ thù nữa. Trước đây, khi là người lính trên chiến trường, tôi nghĩ, chúng ta chỉ là tay sai làm bia đỡ đạn của các thế lực chính trị từ hai phía.
       Tôi đứng dậy nghiêm giọng trả lời:
       - Thưa ông Jimbradi ! Thưa các ông trong đoàn! Từ ngàn xưa, bao đời nay, dân tộc chúng tôi không bao giờ tự nhận mình là kẻ thù của ai cả. Một thế lực nào đó, khi họ xâm lược, can thiệp và reo rắc đau thương lên đất nước Việt Nam, thì họ là kẻ thù của chúng tôi. Nhưng khi họ đã thất bại, đầu hàng, không còn là mối nguy hại trực tiếp đến chúng tôi nữa, thì nhân dân chúng tôi không còn coi họ là kẻ thù nữa. Lịch sử của dân tộc chúng tôi đã chứng minh điều đó.
Ông nói đúng. Quân nhân Mỹ trong chiến tranh là vật hy sinh cho bộ máy chiến tranh xâm lược. Còn chúng tôi, người lính đi chiến đấu là tự nguyện. Mục tiêu chiến đấu rất rõ ràng là chống xâm lược, giải phóng quê hương đất nước, giành và giữ độc lập cho Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Họ không phải là tay sai của bất cứ thế lực chính trị nào cả.
        Tôi vừa dứt lời, Jimbradi nói:
         - Thưa ông Nguyễn Mạnh Đẩu, chúng ta không luận bàn về nguyên nhân, tiến trình và kết cục của chiến tranh nữa. Giờ đây hai nước đã bình thường hóa quan hệ. Chúng ta hãy cùng nhau khép lại quá khứ, hướng tới tương lai.
        Tôi trả lời:
        - Chiến tranh kết thúc, bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hướng tới tương lai là nhu cầu tất yếu, khách quan. Nhưng cũng phải hiểu đúng vấn đề khép lại quá khứ. Với dân tộc Việt Nam chúng tôi, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm, có một quá khứ hào hùng luôn luôn tỏa sáng. Quá khứ đó được đắp bồi bằng xương máu, công tích qua bao thế hệ người Việt Nam. Đó là truyền thống oanh liệt, niềm tự hào, là bài học vô giá, là điểm tựa muôn đời cho con cháu, bây giờ và mai sau. Với ý nghĩa đó, chúng tôi không bao giờ khép lại quá khứ. Nhưng đó là chuyện đại sự. Còn bây giờ, gặp nhau ở đây, trên cương vị mới, trong khung cảnh khác, chúng ta cần trao đổi cung cấp thông tin cho nhau từ hai phía để tìm hài cốt đã mất trong chiến tranh của đồng đội các ông, đồng đội chúng tôi. Tôi cho rằng, đây không chỉ là vấn đề chính trị, mà còn là vấn đề nhân đạo, nhân văn.
          Tôi nói xong, cả hai bên chuyển sang bàn bạc, trao đổi các vấn đề cụ thể.
          Trong nhiều lần tiếp xúc, phía Mỹ (VVA) đã cung cấp cho Cục Chính sách một khối lượng lớn hồ sơ mà họ nắm được có liên quan đến sự hy sinh của bộ đội ta trong chiến tranh trên các chiến trường. Cục Chính sách đã triển khai khai nghiên cứu khai thác và đạt được một số kết quả nhất định trong công tác tìm kiếm cất bốc qui tập mộ liệt sĩ.

          Nhận lời mời của Phó Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert Jones (trong quân đội Mỹ, Trợ lý Bộ trưởng là Thứ trưởng); chấp hành Chỉ thị của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Đoàn công tác nghiên cứu hồ sơ liên quan đến việc tìm kiếm chiến sĩ ta hy sinh, mất tích trong chiến tranh đã sang làm việc tại Mỹ từ ngày 20 tháng 8 năm 1999 đến ngày 29 tháng 8 năm 1999. Đoàn có các thành viên: Tôi; Huỳnh Trọng Tuấn, Thiếu tá, cán bộ Cục Bảo vệ An ninh- Tổng cục Chính trị; Nguyễn Thế Công, Trung tá, Trưởng phòng, Cục A35 - Bộ Công an ( sau này anh Công là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục A35 - Bộ Công an ); Vũ Việt Dũng, cán bộ Vụ Châu Mỹ - Bộ Ngoại giao. Thủ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ định tôi làm Đoàn trưởng.
         Từ khi bình thường quan hệ giữa hai nước đến lúc đó, Bộ Quốc phòng nước ta đã cử hai đoàn sang Mỹ công tác: Đoàn của Trung tướng Trần Hanh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và của Đại tá Vũ Tần, Cục trưởng Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng. Như vậy, chúng tôi là đoàn thứ ba.
          Chiều 18 tháng 8 năm 1999, chúng tôi gặp Trung tá Miller, Tùy viên Quân sự Mỹ thuộc Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam ở 33A Phạm Ngũ Lão- Hà Nội để xác định chương trình nội dung công tác ở Mỹ.
          11giờ 45 phút ngày 20 tháng 8 năm 1999, Đoàn rời Hà Nội đi Mỹ. Sau các chặng dừng ở Băng Cốc - Thái Lan; Tokyo-Nhật Bản; Chicago-Mỹ, 21 giờ ngày 21 tháng 8 năm 1999, Đoàn tới sân bay Washington / Reagan. Ra đón chúng tôi có anh Đỗ Văn Nghị, Trung tá, Phó phòng tùy viên quân sự Việt Nam tại Mỹ ( sau này anh Nghị là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục 25, TC2 ). Tôi đã quen biết anh Nghị từ năm 1993, khi tôi sang công tác ở Ấn Độ. Anh Nghị giới thiệu với tôi, phía Mỹ ra đón có ông DesTas đại diện cho Văn phòng người Mỹ mất tích (DPMO) và Huy Tuấn, Đại úy, là Việt kiều phục vụ trong quân đội Mỹ. Chúng tôi về nghỉ tại khách sạn Embassy Suite.
         Khi vừa đặt chân tới khách sạn, ông DesTas thông báo với tôi:
        - Đề nghị bổ sung vào chương trình là bố trí 9 giờ sáng 22 tháng 8, việc đầu tiên là Đoàn sẽ đến viếng Bia Tưởng niệm ghi tên những quân nhân Mỹ tử trận trong chiến tranh Việt Nam; việc này phía Mỹ đã thông báo cho các hãng thông tin của Mỹ và quốc tế sẽ tiến hành ghi hình, viết bài để đưa tin.
         Tôi nghĩ rằng, đây là một vấn đề nhạy cảm và tế nhị, lại nằm ngoài kế hoạch đã thống nhất giữa hai bên từ Hà Nội. Vì vậy, tôi nói rằng:
        - Trong thời gian công tác tại Mỹ, chúng tôi nhất định sẽ đến tham quan Bia Tưởng niệm. Nhưng căn cứ vào mục đích chuyến công tác, thì đó không phải là việc đầu tiên sang Mỹ.
         Sau một lúc ý kiến qua lại, phía Mỹ chấp thuận.
         Mặc dù trải qua một chặng hành trình dài khá mệt mỏi, được bố trí nghỉ trong một khách sạn đầy đủ tiện nghi, rất yên tĩnh, nhưng đêm đầu tiên ở nước Mỹ, tôi khó ngủ, lòng ngổn ngang nhiều cảm xúc. Vì trách nhiệm với công việc, trước anh linh của những đồng đội đã khuất, chúng tôi được cử đến tận nơi đây, một thời là trung tâm phát động cuộc chiến tranh xâm lược; sẽ tiếp xúc làm việc với những tổ chức, những con người vốn là đối địch trong chiến tranh, để tìm hiểu thông tin về các trường hợp cán bộ, chiến sĩ ta đã hy sinh trong các nhà tù, trong các trận chiến đấu trên chiến trường.
6 giờ sáng ngày 22 tháng 8 năm 1999, tôi bách bộ ra ngoài khách sạn. Ban mai trời dịu mát, nhìn ra xung quanh tôi thấy những đường phố thoáng rộng, những hàng cây cao to và những thảm cỏ bao quanh những tòa nhà đồ sộ, chọc trời. Nhìn chếch sang phía bên kia, một tòa nhà sừng sững, đó Lầu Năm Góc - trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ - trung tâm đầu não của bộ máy chiến tranh. Chính từ nơi đây, suốt mấy chục năm trời, các chiến lược gia quân sự Mỹ đã hoạch định và chỉ đạo cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, gây ra bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta trên cả hai miền Nam Bắc.
         Chiều ngày 22 tháng 8 năm 1999, theo thông lệ ngoại giao, ông Robert Jones, Phó Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ đặc trách người Mỹ mất tích trong chiến tranh (DPMO) đã tổ chức mời cơm Đoàn. Cùng dự còn có Đại sứ Lê Văn Bàng và Đại tá Võ Đình Quang, Trưởng phòng tùy viên quân sự Việt Nam tại Mỹ.
          Trong suốt thời gian Đoàn chúng tôi công tác ở Wasington, các anh ở Phòng Tùy viên quân sự Việt Nam đều tham gia các hoạt động và tạo điều kiện giúp đỡ. Phía Mỹ bố trí hai người thạo tiếng Việt thường xuyên đi cùng để tiện việc trao đổi đó là DesTas chuyên viên cao cấp của Văn phòng tìm kiếm người Mỹ mất tích và Huy Tuấn, Đại úy, Việt kiều trong quân đội Mỹ. DesTas từng ở Việt Nam lâu, có vợ tên là Nguyệt, quê ở Bến Tre. Huy Tuấn quê ở Huế, di tản theo gia đình sang định cư ở Mỹ sau tháng 4 năm 1975.
          Sáng 23 tháng 8 năm 1999, chúng tôi vào Bộ Quốc phòng Mỹ. Để đảm bảo an ninh, mọi người ra vào ở đây đều phải qua kiểm tra rất kỹ trên nhiều đoạn. Trước khi vào đây, chúng tôi đã chuẩn bị máy ảnh, camêra, máy ghi âm để ghi lại các thông tin trong buổi làm việc. Nhưng đều phải bỏ lại ở ngoài, mỗi người chỉ được cầm theo một quyển sổ tay.
         Tại Văn phòng tìm kiếm người mất tích của Mỹ (DPMO), chúng tôi đã nghe thuyết trình về việc tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích trong các cuộc chiến tranh. Sau đó, gặp và làm việc với ông Robert Jones, Phó Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ. Robert Jones nói rằng, trên cương vị đương nhiệm, ông sẽ đề nghị Bộ Quốc phòng Mỹ hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam trong việc cung cấp thông tin và cung cấp trang, thiết bị tìm kiếm chiến sĩ ta mất tích, hy sinh trong chiến tranh. Tham gia buổi làm việc cùng chúng tôi có anh Đỗ Văn Nghị, Trung tá, Phó phòng Tùy viên quân sự Việt Nam tại Mỹ.
         Chiều ngày 23 tháng 8 năm 1999, Đoàn làm việc với Trung tâm lưu trữ Quốc gia của Mỹ (NA RA). Trung tâm này ở trên một khu đồi, được bao quanh những cánh rừng cây cối rậm rạp, cách Lầu Năm Góc khá xa. Đường tốt xe chạy nhanh cũng mất vài tiếng đồng hồ. Khi đến, ông Thống đốc Trung tâm J.Carlin đã tiếp và thông báo chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm và những vấn đề mà Trung tâm có thể cung cấp cho phía Việt Nam trong khai thác hồ sơ lưu trữ. Ngày 24, 25 và sáng 27 tháng 8 năm 1999, Đoàn nghiên cứu hồ sơ tại Trung tâm lưu trữ hồ sơ NARA.
        Hồ sơ về chiến tranh ở Việt Nam được lưu trữ ở Trung tâm NARA dưới nhiều dạng : Dạng nguyên bản như nhật ký tác chiến, hồ sơ tù binh chết ở bệnh viện,…Dạng phim ảnh tư liệu chiến trường; dạng đưa vào phần mềm vi tính,…Tất cả hồ sơ mà Đoàn đã tiếp xúc đều bằng tiếng Anh. Số lượng hồ sơ ở NARA là rất lớn, bao gồm:
        Dạng nhật ký chiến trường, báo cáo tổng kết, bài học kinh nghiệm sau từng trận đánh, ghi lại đầy đủ chi tiết hoạt động của quân đội Mỹ từ cấp tiểu đoàn trở lên tới Bộ Chỉ huy (MACV). Với tổng số khoảng 32 triệu đến 40 triệu trang. Các thông tin liên quan đến bộ đội ta hy sinh trong chiến tranh nằm rải rác trong các loại hồ sơ với tỷ lệ không nhiều lai không có tên tuổi cụ thể. Đây thuộc loại tài liệu tác chiến. Đoàn đã sao chụp một tài liệu về trận ABia Tây Thừa Thiên trong hai ngày 21 và 22 tháng 5 năm 1969 để làm ví dụ cụ thể và hiểu rõ cách truy cập hồ sơ tài liệu ở dạng này.
         Dạng hồ sơ nguyên bản về báo cáo tử vong các trường hợp tù binh (cán bộ, chiến sĩ ta bị địch bắt) ở các bệnh viện quân đội Mỹ (chủ yếu là Tổng y viện Cộng hòa cũ). Hồ sơ ở dạng này có danh sách tên tuổi cụ thể cán bộ, chiến sĩ ta bị chết bao gồm các thông tin về: tên, tuổi, quê quán, ngày vào viện, ngày chết, nguyên nhân chết. Một số danh sách có đề cập đơn vị Mỹ, ngụy bắt, cấp bậc hoặc chức vụ của bộ đội ta và đặc biệt có một số đề cập tới vị trí chôn cất như Tân Sơn Nhất, Biên Hòa,…Đoàn đã sao chụp được 578 trang để tiếp tục nghiên cứu sử dụng.
       Hồ sơ ở dạng phim tư liệu, ảnh chụp đề cập tới hoạt động của bộ đội ta ở chiến trường; ảnh chụp hoạt động ở các trại tù binh chiến tranh của Mỹ, ngụy.
       Những trang hồ sơ tài liệu, những thước phim tư liệu của Trung tâm NARA đã đưa chúng tôi trở về những hình ảnh chiến đấu trên chiến trường Miền Nam; đồng thời cho chúng tôi hiểu thêm qui mô, tính chất quyết liệt của cuộc chiến và những hy sinh to lớn của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh quyết liệt lâu dài.
Đoàn đã nhận và chuyển về Văn phòng DPMO 10 hộp thư mục hồ sơ để thông qua con đường ngoại giao chuyển về Việt Nam tiếp tục nghiên cứu sau. Số hồ sơ sao chụp được 578 trang, Đoàn mang trực tiếp về Việt Nam.
         Chiều ngày 25 tháng 8 năm 1999, Đoàn nghe Bà tiến sĩ Susan Mather đại diện cho Bộ Cựu binh Mỹ giới thiệu về chất độc màu da cam. Cùng dự có Đại tá Võ Đình Quang, Trưởng phòng Tùy viên quân sự Việt Nam tại Mỹ. Buổi làm việc xoay quanh chủ đề những căn bệnh do tác hại của Điôxin gây ra đối với binh lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
        Sau khi nghe tôi nêu lên mấy câu hỏi: Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ đã sử dụng chất độc Điôsin từ bao giờ? Số lượng bao nhiêu? Khi dùng chất độc này, người Mỹ đã lường đến tính chất cực kỳ nguy hiểm của nó? Quân nhân Mỹ tham chiến ở Việt Nam bị nhiễm độc Điôsin khoảng bao nhiêu người, thường bị những căn bệnh gì? Chính sách của Chính phủ Mỹ đối với những quân nhân Mỹ bị nhiễm chất độc?,…Bà Sunan Mather đã thông báo với chúng tôi: Từ năm 1961 đến năm 1971, Mỹ đã dùng chất độc hủy diệt cây cỏ ở chiến trường Việt Nam. Sau khi tham gia chiến tranh Việt Nam, nhiều quân nhân Mỹ đã nhiễm chất độc Điôxin, gây ra nhiều căn bệnh như chứng phát ban Clo, bệnh hodgkins (một dạng ung thư hạch ác tính), đau tủy, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư đường hô hấp, đái tháo đường,…Thời kỳ đầu, Bộ Cựu Chiến binh Mỹ kiện các nhà sản xuất hóa chất. Sau đó, Quốc hội Mỹ thông qua Luật trợ cấp cho những người tham gia chiến tranh Việt Nam bị bệnh do nhiễm chất độc Điôxin. Đã tiến hành tổ chức khám cho 300.000 người, thì có đến 10% quân nhân bị nhiễm, trong đó có 7.000 nữ quân nhân bị các bệnh về sinh đẻ (sảy thai, đẻ non, chết lưu), 800 quái thai. Mức trợ cấp cho mỗi người tùy theo mức độ ảnh hưởng, cao nhất là 25.000 USD/năm.
        Nghe xong, tôi nói với bà Sunan Mather và những người Mỹ có mặt hôm đó rằng: Trước khi sang Mỹ, tôi đã nghiên cứu tìm hiểu về tình hình và hậu quả về chất độc Điôsin do Mỹ gây ra đối với Việt Nam. Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã huy động và sử dụng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, những loại vũ khí tối tân có sức công phá và sát thương lớn, gây đau thương tang tóc cho hàng triệu con người. Đồng thời, Mỹ còn sử dụng nhiều loại chất độc hóa học hủy diệt môi trường sinh thái làm cho hàng triệu héc ta rừng bị tàn lụi khó phục hồi, nhiều vùng đất đai bị nhiễm độc. Trong mười năm (1961 – 1971), Mỹ đã rải xuống Việt Nam 72 triệu lít chất độc hóa học gồm 15 loại khác nhau, trong đó có 42 triệu lít chất độc màu da cam chứa khoảng 170 kg Điôsin, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái và con người. Đến tháng 9 năm 1999, ước tính ở Việt Nam có khoảng 4 vạn người tham gia chiến tranh bị nhiễm độc, gây ra các bệnh tất rất nặng nề cho bản thân. Và hơn thế, còn gây biến đổi gien di truyền qua con cái. Ước tính trong cả nước có khoảng 76.000 cháu sinh ra bị ảnh hưởng do chất độc da cam. Đến thời điểm đó, qua báo cáo chưa đầy đủ của 21 tỉnh đã có 16.445 người tham gia chiến tranh sinh ra 20.766 trẻ dị tật, dị dạng (trong đó có 3.562 cháu bị liệt hoàn toàn; 4.579 cháu bị tâm thần; 5.549 cháu bị dị dạng; 1.185 cháu bị mù, và cac dạng khác). Đây là nỗi đau nhức nhối lâu dài. Mặc dù Chính phủ Mỹ đã có chính sách đối với binh lính Mỹ và các nước chư hầu tham gia chiến tranh Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam do chính Mỹ gây ra, nhưng chưa có trách nhiệm đối với nạn nhân chất độc da cam là người Việt Nam. Cuộc đấu tranh vì công lý và lương tâm còn tiếp diễn.
         Ngày 26 tháng 8 năm 1999, Đoàn làm tại Viện Lịch sử Thủy quân lục chiến Mỹ (USMC) và Viện Lưu trữ hồ sơ Hải quân Mỹ. Tại Viện Lịch sử Thủy quân lục chiến, Đoàn đã xem xét cách thức lưu trữ và số lượng hồ sơ ; đã nhận 42 đĩa mềm vi tính sao chụp 65.000 trang tài liệu về hoạt động của lực lượng Thủy quân lục chiến Mỹ ở Việt Nam. Đây là dạng hồ sơ tác chiến, không có chi tiết cụ thể về bộ đội ta mất tích trong chiến tranh.
         Tại Viện lưu trữ hồ sơ Hải quân, Đoàn đã xem kho lưu trữ, nói chung cũng là dạng hồ sơ tác chiến, nhật ký tác chiến, điện báo cáo giữa các đơn vị Hải quân Mỹ, Ngụy. Đoàn không sao chụp hồ sơ vì xét thấy rất ít giá trị đối với mục đích của chuyến công tác.
         Ngày 27 tháng 8 năm 1999, Đoàn tới thăm và làm việc với Trung tâm nhận dạng gien ADN của Bộ Quốc phòng Mỹ. Ông James Canik, Giám đốc, tiếp đón chúng tôi rất nhiệt tình. Ông nói với tôi rằng, 30 năm trước, ông là phi công lái may bay trực thăng cấp cứu thương binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
        Đoàn đã tham quan quá trình kỹ thuật nhận dạng AND. Trong quân đội Mỹ, việc nhận dạng người chết đã được quan tâm từ rất sớm, ngay trong thời kỳ nội chiến ở Mỹ, năm 1868. Hiện, Trung tâm có trách nhiệm giám sát kiểm tra tất cả mọi trường hợp chết trong quân đội Mỹ (số lượng ước tính có 3.500 quân nhân chết/năm). Trung tâm lưu mẫu máu, tóc, vân tay, răng của mọi quân nhân trong quân đội Mỹ, kết hợp với thẻ môn bài của từng người, nên việc nhận dạng người chết rất hữu hiệu. Trong chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, số quân nhân Mỹ bị chết khoảng 15.000, trong đó nhận dạng bằng vân tay được 13%, răng được 18%, 63% cả răng và vân tay, còn 6% là không xác định được, phải dùng đến mẫu máu.
       Ông James Canik, Giám đốc Trung tâm nhận dạng gien AND gợi ý sẵn sàng giúp đỡ đào tạo về mặt kỹ thuật cho ta, nếu có yêu cầu.

       Trong những ngày công tác ở Oa-sinh-tơn, nhận lời mời của phía Mỹ, đoàn chúng tôi đã đến thăm Bia Tưởng niệm ghi tên 58.317 quân nhân Mỹ tử trận trong chiến tranh Việt Nam. Đó là mấy bức tường bằng đá đen khá dài trong Công viên Oa-sinh-tơn rộng lớn. Hàng ngày nhiều người Mỹ đến đây tưởng niệm những người ra đi không trở về. Những hàng tên nối dài như một bức thông điệp cho hậu thế với lời nhắn nhủ đừng bao giờ lặp lại việc này. Khi cùng xem với những người Mỹ cùng đi, tôi quay sang hỏi ông DesTas: “ Này ông, tại sao bức tường làm bằng đá cẩm thạch màu đen và lại thấp thế”. DesTas trả lời với tôi: “Ông Đẩu ơi, sở dĩ chúng tôi làm như thế là xuất phát từ ý tưởng: màu đen là màu tang để tưởng nhớ những người chết trận. Tường được làm thấp thôi, vì thực ra, có vẻ vang gì đâu mà phải cao”.
        Đọc những dòng tên lính Mỹ tử trận ở Việt Nam nối tiếp nhau phủ kín các bức tường vừa rộng vừa dài, từ người đầu tiên chết năm 1958 đến người sau cùng chết năm 1975. Tôi nghĩ rằng, tất cả họ cũng đều là nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam do Mỹ gây ra. Đau thương tang tóc đã ập đến ngần ấy gia đình Mỹ có con em sang tham chiến tại Việt Nam. Hơn thế, hội chứng Việt Nam sẽ còn kéo dài trong lòng xã hội Mỹ. Lịch sử các cuộc chiến tranh bao giờ cũng để lại hậu quả nặng nề về mọi mặt. Trong đó sự hy sinh, mất mát của người lính và gia đình họ là to lớn nhất, không có gì bù đắp được. Chiến tranh thế giới lần thứ hai làm mất tích hơn 40.000 lính Mỹ. Chiến tranh Triều Tiên (1951-1953) để lại gần 8.000 lính Mỹ mất tích. Mãi đến nay việc tìm kiếm vẫn chưa kết thúc. Vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam là hậu quả do cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra. Theo thông báo của phía Mỹ, số lính Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam là 1.774 người. Sau chiến tranh, chính quyền Mỹ phải đương đầu với sức ép rất lớn từ nhiều phía của nhân dân Mỹ. Công luận Mỹ cho rằng, chính quyền Mỹ đã mắc sai lầm to lớn khi đem quân xâm lược Việt Nam.
        Trong một thời gian dài, xuất phát từ tinh thần nhân đạo, thiện chí và thực hiện những cam kết trong Hiệp định Pa ri về Việt Nam, chúng ta hoặc đã nỗ lực đơn phương tìm kiếm, hoặc đã phối hợp với phía Mỹ tìm kiếm thu hồi và trao trả cho Mỹ nhiều đợt, với hàng trăm bộ hài cốt quân nhân Mỹ.

        Chiến tranh đã lùi xa nhưng còn để lại những hậu quả to lớn, phức tạp, khó khăn về giải quyết chính sách. Bằng nhiều cách, nhiều kênh thông tin, chúng ta phải tận dụng khai thác, xác minh kết luận các trường hợp quân nhân ta mất tích trong chiến tranh. Đây là chuyến đi đầu tiên sang Mỹ để tìm hiểu nghiên cứu hồ sơ chiến tranh mà phía Mỹ quản lý được. Đoàn chúng tôi đã thu được một số kết quả góp phần nhỏ vào việc giải quyết tồn đọng chính sách sau chiến tranh.


          Cuối năm 1999, là thành viên tham gia đoàn Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ sang thăm Việt Nam, Phó Trợ lý Bộ trưởng Robert Jones gặp lại khi tôi tham gia đoàn Bộ Quốc phòng ta tiếp đón tại 33 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội. Thấy tôi mang quân hàm Thiếu tướng, Robert Jones đến chào và nói : “ Tôi chúc mừng ông Nguyễn Mạnh Đẩu! Nhờ chuyến sang thăm Mỹ mấy tháng trước mà nay ông được thăng cấp Tướng “. Nghe xong, tôi mỉm cười và nói : “ Cám ơn ông Robert Jones đã chúc mừng tôi lên quân hàm. Nhưng tôi phải nói lại: Việc tôi lên quân hàm là do nhiều yếu tố. Trong đó có yếu tố tôi đã tham gia đánh Mỹ hồi chiến tranh”. Robert Jones xiết chặt tay tôi mà chẳng nói thêm gì ./.
50 NĂM TRƯỚC

Ngày 20 tháng 5 năm 1967 là một ngày trọng đại trong cuộc đời tôi. 19 tuổi đời, hơn 2 năm tuổi quân, trải qua rèn luyện thử thách ở chiến trường, tôi vinh dự được kết nạp vào Đảng. Ngày đó, được vào Đảng là điều thiêng liêng, niềm tự hào đối với thế hệ trẻ chúng tôi.
Lúc 17 giờ, toàn thể chi bộ tiểu đoàn bộ tập trung ở một khúc suối cạn dưới chân Bình độ 100 để tổ chức lễ kết nạp Đảng viên mới. Hôm đó kết nạp hai người: tôi và Trần Công Thuận bạn thân của tôi, quê ở xã Thanh Cát, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, tiểu đội phó trinh sát. Trước khi buổi lễ bắt đầu, anh Phan Hà tiểu đoàn phó thông báo việc chốt chặn địch ở các hướng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và xác định các phương án xử lý. Tiếp đến phần tuyên bố lý do của anh Trần Văn Thuyết trung đội trưởng thông tin, chi ủy viên, cả chi bộ đứng dậy chào cờ, không hát Quốc tế ca, Lễ kết nạp bắt đầu. Anh Ngô Đình Nựu chính trị viên phó tiểu đoàn, Bí thư chi bộ, đọc vắn tắt lý lịch cùng đơn xin vào Đảng của tôi. Mời anh Phan Hà là người giới thiệu tôi vào đảng đứng dậy phát biểu. Anh nói  rất nghiêm túc, ngắn gọn, chân thành:
- Tôi, Phan Hà, phó bí thư chi bộ, tiểu đoàn phó, quê xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, là người giới thiệu đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu vào Đảng. Tôi xin bảo đảm về mọi mặt, đồng thời có trách nhiệm sẽ tiếp tục bồi dưỡng đồng chí Đẩu trở thành người Đảng viên chính thức.
Tiếp theo là anh Trần Ngọc Lợi, Bí thư Chi đoàn thanh niên đọc biên bản giới thiệu của chi đoàn. Cuối cùng là lời tuyên thệ của tôi. Trong giờ phút thiêng liêng, trước cờ Đảng, trước chi bộ, tôi nắm chặt tay, xúc động ngẹn ngào nói lên lời hứa quyết tâm tự đáy lòng mình.
Tiếp sau phần kết nạp tôi, là kết nạp anh Trần Công Thuận. Thủ tục vẫn như trước. Người giới thiệu anh Thuận vào Đảng là Anh Ngô Đình Nựu. Với chất giọng mộc mạc chân quê, anh Nựu nói:
- Tôi, Ngô Đình Nựu, một vợ ba con, quê xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, Bí thư chi bộ tiểu đoàn bộ, chính trị viên phó tiểu đoàn, là người giới thiệu đồng chí Trần Công Thuận vào Đảng,….
Buổi lễ kết nạp Đảng tại trận địa diễn ra khoảng 30 phút nhưng rất trọng thị, nghiêm túc, thực hiện đầy đủ mọi nguyên tắc thủ tục. Tôi cảm thấy thiêng liêng.
Trên đường về hầm, tôi hỏi anh Nựu:
- Này anh, có phải hôm đánh địch ở Hồ Khê, các anh nghĩ rằng, khi dẫn trung đội 1 của anh Hải xuất kích, em có khả năng hy sinh. Nên trước khi em lên đường, anh Đào chính trị viên tiểu đoàn đã tuyên bố em chính thức trở thành Đảng viên phải không anh? Mà hôm nay sao lại phải kết nạp lại? 
- Đúng đấy, trong giờ phút hiểm nguy mà quang vinh đó, vào sinh ra tử là chuyện khó tránh khỏi, bọn mình thống nhất là, tuyên bố trước để nếu có hy sinh, cậu cũng đã là người đảng viên Cộng sản đích thực. Nhưng hôm nay có điều kiện vẫn cứ tiến hành việc kết nạp cho đúng với nguyên tắc thủ tục. Nếu không, sau này khi xác định Đảng tịch, ngộ nhỡ có người không hiểu thực tế chiến trường, gây nghi ngại phức tạp ra, không cần thiết.
Anh Nựu vui vẻ trả lời .
Tôi nói nửa đùa, nửa thật:
- Như thế là, nếu hy sinh, em được vào Đảng trước 5 ngày so với em còn sống.

          Cả hai chúng tôi cùng cười.

Chủ Nhật, 7 tháng 5, 2017


KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH 
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG

                                                    N M Đ

Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Văn Tiến Dũng ( 02/5/1917 - 02/5/2017 ), Bộ Quốc phòng đã tiến hành Hội thảo khoa học & đã tổ chức Lễ Kỷ niệm rất trọng thể, sâu sắc, ý nghĩa ( Fb Hồ Thủy đã có bài dưa tin rất hay ). Báo QĐND đã có loạt bài của các tướng lĩnh thể hiện trên từng góc độ tiếp cận, phản ánh. Hàng ngày, tôi đã đọc thấy rằng bài viết nào cũng hay.
Với bút pháp chấm phá hoạt kê, tôi đã có các bài viết phác thảo vài nét chân dung của một số tướng lĩnh Quân đội ta. Nhưng với Đại tướng Văn Tiến Dũng tôi chưa có bài viết nào. Bởi lẽ, trong cuộc đời quân ngũ, tôi ít có dịp tiếp xúc với Ông. Khi Ông làm Tổng Tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thì tôi còn là cán bộ cấp rất thấp. Thi thoảng trong một số dịp kỷ niệm, tôi chỉ nhìn thấy Ông từ xa. Tới khi tôi được bổ nhiệm cương vị công tác cao hơn, thì Ông đã nghỉ công tác. Tôi thuộc câu nói người xưa dạy : “ Tri vi tri, bất tri vi bất tri, vị tri giã” ( Biết thì báo là biết, không biết thì bảo là không biết, ấy là người có hiểu biết ).
Qua nghiên cứu các tài liệu nói về cuộc đời và sự nghiệp của Ông, mọi người đều nhận thấy: Đại tướng Văn Tiến Dũng là một người công sản kiên trung, một tướng lĩnh tài ba văn võ song toàn và là một con người đức độ nhân hậu.
Các tài liệu & các bài báo thì dài và rất phong phú. Theo cảm thụ của tôi, sự nghiệp của Đại tướng Văn Tiến Dũng trong 3 thời kỳ có những cống hiến xuất sắc cho Đất nước, Quân đội : 
- Thời kỳ hoạt động Cách mạng bí mật trước năm 1945, bị địch bắt tù đày, rồi vượt ngục, bị thực dân Pháp tuyên án tử hình vắng mặt, vẫn tiếp tục hoạt động Cách mạng. 
- Thời kỳ làm Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đại đoàn 320 chiến đấu ở đồng bằng Bắc bộ. Thực tế cho thấy, trong chiến tranh đưa một Đại đội vào hoạt động sâu trong hậu địch đã là khó. Đằng này, Ông chỉ huy một Đại đoàn ( Sư đoàn ) hoạt động chiến đấu giữa một vùng đồng bằng, chắc chắn có muôn vàn gian khó hy sinh.
- Thời kỳ làm Tổng Tham mưu trưởng ( 1953 - 1979 ). Ông là người đảm trách cương vị Tổng Tham mưu trường lâu nhất của Quân đội ta ( 25 năm ). Trên cương vị này, khi ở Tổng Hành Dinh chỉ huy, chỉ đạo toàn diện công tác tham mưu đối với toàn quân trên toàn chiến trường rộng lớn ( miền Bắc, miền Nam, giúp bạn Lào và Campuchia ) với biết bao tâm trí. Khi thì Ông đi chỉ đạo trực tiếp các chiến trường hoặc đảm trách Tư lệnh các Chiến dịch lớn. Và cuối cùng Ông được Đảng, Nhà nước cử giữ trọng trách Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thu giang sơn về một mối. 
Ngày 14 - 2 - 1997, mấy cán bộ Cục Chính sách TCCT, gồm : Tôi - Cục trưởng, Đỗ Quang Bích - Cục phó, Đinh Công Cử - Trưởng phòng Nghiên cứu, Trần Văn Minh - Trợ lý, đến thăm Đại tướng Văn Tiến Dũng để báo cáo công tác và mời Ông dự lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày Truyền thống ngành Chính sách Quân đội ( 26/2/1947 – 26/2/1997 ) sẽ long trọng tổ chức vào sau đó mấy ngày tại Hội trường Bảo tang Hồ Chí Minh. 
Ông đón tiếp chúng tôi ở Phòng khách tại Nhà riêng, 26 Hoàng Diệu, Hà Nôi. Đây là lần đầu tiên và là lần duy nhất, tôi được tiếp kiến Đại tướng Văn Tiến Dũng. Ngày đó Ông vừa tròn 80 tuổi, sức còn khỏe, trí tuệ còn rất minh mẫn. Ông có ánh mắt, gương mặt đẹp nam tính, thân hình tầm thước, đậm chắc, da trắng hồng. Tiếp chúng tôi bằng ánh nhìn thân thiện, nụ cười lành hiền và giọng nói từ tốn đôn hậu. Quả thật, ngay từ những giây phút đầu tiên, Ông đã trao cho chúng tôi một sự gần gũi thân tình ấm áp. 
Sau khi nghe tôi báo cáo, Ông đã dành nhiều thời gian nói chuyện gần như tâm sự về vai trò công tác chính sách, về hồi ức và kỷ niệm của Ông khi làm Cục trưởng Chính trị Cục - thời kỳ đầu thành lập Phòng Thương binh thuộc Chính trị Cục ( tiền thân của Cục Chính sách Tổng cục Chính trị ). Đồng thời, Ông có kể cho chúng tôi nghe về một số đoạn về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. 
Cuối cùng, trong không khí vui vẻ, tôi có nói với Ông : 
- Bây giờ đã tròn 80 tuổi mà bác đẹp thế này. Chắc hồi thanh niên, bác đẹp lắm ! 
Ông mỉm cười và nói rằng : 
- Kể cũng khổ cháu ạ. Hồi hoạt động bí mật, có thời kỳ bác đóng vai nhà sư ở chùa. Vậy mà có lúc, có người cứ tưởng bác là sư nữ. Có lần bác đi xe đạp trên đường, mặc áo nâu sòng, đầu đội nón quấn khăn chỉ để lộ ra khuôn mặt. Tại vì da bác trắng, có người tưởng là sư nữ, nên đã đem lời trêu chọc. Buồn cười lắm!
Tôi lại hỏi tiếp: 
- Cháu nghe có người nói, gốc tổ bác là người Nghệ An, phải không ạ? 
Đại tướng Văn Tiến Dũng nói : 
- Đúng đấy! Cụ tổ của bác là người Nghệ An. Nhà thờ tổ họ Văn ở huyện Quỳnh Lưu đấy. Như mấy cháu cầu thủ bóng đá Văn Sỹ Hùng, Văn Sỹ Thủy, … là người họ Văn đó mà.
Mới đó đã tròn 20 năm. Đã 15 năm Ông về cõi vĩnh hằng. Hình ảnh kính quý của ông đọng mãi trong tâm trí chúng tôi.



NHỚ LẠI VÀI MẨU KỈ NIỆM VỚI MỸ

                                                                   N M Đ
Sau khi hai Nhà nước bình thường hóa quan hệ, Hội Cựu Chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam (VVA) đã tổ chức nhiều đoàn sang thăm nước ta. Nhằm khai thác thêm các kênh thông tin góp phần giải quyết những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh chống Mỹ, lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị đã giao cho tôi với cương vị Cục trưởng Cục Chính sách nhiều lần gặp gỡ tiếp xúc với các đoàn Đại biểu Cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam (VVA) để tiếp nhận các tài liệu, hiện vật có liên quan đến bộ đội ta hy sinh mà các cựu chiến binh Mỹ tham chiến Việt Nam nắm được.
Trong các lần tiếp xúc với phía Mỹ (VVA), cùng với việc trao đổi cung cấp thông tin, có lúc giữa hai bên cũng tranh luận với nhau trên một số điểm trong cách nhìn nhận các vấn đề thuộc về quan điểm, nhận thức. Đó cũng là điều dễ hiểu.
Tôi nhớ, ngày 18 tháng 5 năm 1994, lần tiếp xúc làm việc đầu tiên giữa Cục Chính sách với Đoàn VVA tại nhà khách Bộ Quốc phòng, 33- Phạm Ngũ Lão- Hà Nội. Phía VVA có ông Jimbradi trưởng đoàn và 14 thành viên khác. Về phía ta, cùng phối hợp với Cục Chính sách, còn có anh Vũ Xuân Hồng, Phó Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị của Việt Nam, cán bộ Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng và cán bộ một số cơ quan khác có liên quan.
Bước vào buổi tiếp xúc, sau lời chào mừng có tính chất xã giao của cả hai bên, ông Jimbradi trưởng đoàn VVA của Mỹ trịnh trọng tuyên bố:
- Thưa ông Nguyễn Mạnh Đẩu, Cục trưởng Cục Chính sách - Bộ Quốc phòng Việt Nam! Trong chiến tranh, chúng ta là kẻ thù của nhau. Còn bây giờ, khi hai bên đã bình thường hóa quan hệ, mong các ông đừng coi chúng tôi là kẻ thù nữa. Trước đây, khi là người lính trên chiến trường, tôi nghĩ, chúng ta chỉ là tay sai làm bia đỡ đạn của các thế lực chính trị từ hai phía.
Tôi đứng dậy nghiêm giọng trả lời:
- Thưa ông Jimbradi ! Thưa các ông trong đoàn! Từ ngàn xưa, bao đời nay, dân tộc chúng tôi không bao giờ tự nhận mình là kẻ thù của ai cả. Một thế lực nào đó, khi họ xâm lược, can thiệp và reo rắc đau thương lên đất nước Việt Nam, thì họ là kẻ thù của chúng tôi. Nhưng khi họ đã thất bại, đầu hàng, không còn là mối nguy hại trực tiếp đến chúng tôi nữa, thì nhân dân chúng tôi không còn coi họ là kẻ thù nữa. Lịch sử của dân tộc chúng tôi đã chứng minh điều đó.
Ông nói đúng. Quân nhân Mỹ trong chiến tranh là vật hy sinh cho bộ máy chiến tranh xâm lược. Còn chúng tôi, người lính đi chiến đấu là tự nguyện. Mục tiêu chiến đấu rất rõ ràng là chống xâm lược, giải phóng quê hương đất nước, giành và giữ độc lập cho Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Họ không phải là tay sai của bất cứ thế lực chính trị nào cả.
Tôi vừa dứt lời, Jimbradi nói:
- Thưa ông Nguyễn Mạnh Đẩu, chúng ta không luận bàn về nguyên nhân, tiến trình và kết cục của chiến tranh nữa. Giờ đây hai nước đã bình thường hóa quan hệ. Chúng ta hãy cùng nhau khép lại quá khứ, hướng tới tương lai.
Tôi trả lời:
- Chiến tranh kết thúc, bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hướng tới tương lai là nhu cầu tất yếu, khách quan. Nhưng cũng phải hiểu đúng vấn đề khép lại quá khứ. Với dân tộc Việt Nam chúng tôi, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm, có một quá khứ hào hùng luôn luôn tỏa sáng. Quá khứ đó được đắp bồi bằng xương máu, công tích qua bao thế hệ người Việt Nam. Đó là truyền thống oanh liệt, niềm tự hào, là bài học vô giá, là điểm tựa muôn đời cho con cháu, bây giờ và mai sau. Với ý nghĩa đó, chúng tôi không bao giờ khép lại quá khứ. Nhưng đó là chuyện đại sự. Còn bây giờ, gặp nhau ở đây, trên cương vị mới, trong khung cảnh khác, chúng ta cần trao đổi cung cấp thông tin cho nhau từ hai phía để tìm hài cốt đã mất trong chiến tranh của đồng đội các ông, đồng đội chúng tôi. Tôi cho rằng, đây không chỉ là vấn đề chính trị, mà còn là vấn đề nhân đạo, nhân văn.
Tôi nói xong, cả hai bên chuyển sang bàn bạc, trao đổi các vấn đề cụ thể.
Trong nhiều lần tiếp xúc, phía Mỹ (VVA) đã cung cấp cho Cục Chính sách một khối lượng lớn hồ sơ mà họ nắm được có liên quan đến sự hy sinh của bộ đội ta trong chiến tranh trên các chiến trường. Cục Chính sách đã triển khai khai nghiên cứu khai thác và đạt được một số kết quả nhất định trong công tác tìm kiếm cất bốc qui tập mộ liệt sĩ.

Nhận lời mời của Phó Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert Jones (trong quân đội Mỹ, Trợ lý Bộ trưởng là Thứ trưởng); chấp hành Chỉ thị của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Đoàn công tác nghiên cứu hồ sơ liên quan đến việc tìm kiếm chiến sĩ ta hy sinh, mất tích trong chiến tranh đã sang làm việc tại Mỹ từ ngày 20 tháng 8 năm 1999 đến ngày 29 tháng 8 năm 1999. Đoàn có các thành viên: Tôi; Huỳnh Trọng Tuấn, Thiếu tá, cán bộ Cục Bảo vệ An ninh- Tổng cục Chính trị; Nguyễn Thế Công, Trung tá, Trưởng phòng, Cục A35 - Bộ Công an ( sau này anh Công là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục A35 - Bộ Công an ); Vũ Việt Dũng, cán bộ Vụ Châu Mỹ - Bộ Ngoại giao. Thủ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ định tôi làm Đoàn trưởng.
Từ khi bình thường quan hệ giữa hai nước đến lúc đó, Bộ Quốc phòng nước ta đã cử hai đoàn sang Mỹ công tác: Đoàn của Trung tướng Trần Hanh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và của Đại tá Vũ Tần, Cục trưởng Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng. Như vậy, chúng tôi là đoàn thứ ba.
Chiều 18 tháng 8 năm 1999, chúng tôi gặp Trung tá Miller, Tùy viên Quân sự Mỹ thuộc Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam ở 33A Phạm Ngũ Lão- Hà Nội để xác định chương trình nội dung công tác ở Mỹ.
11giờ 45 phút ngày 20 tháng 8 năm 1999, Đoàn rời Hà Nội đi Mỹ. Sau các chặng dừng ở Băng Cốc - Thái Lan; Tokyo-Nhật Bản; Chicago-Mỹ, 21 giờ ngày 21 tháng 8 năm 1999, Đoàn tới sân bay Washington / Reagan. Ra đón chúng tôi có anh Đỗ Văn Nghị, Trung tá, Phó phòng tùy viên quân sự Việt Nam tại Mỹ ( sau này anh Nghị là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục 25, TC2 ). Tôi đã quen biết anh Nghị từ năm 1993, khi tôi sang công tác ở Ấn Độ. Anh Nghị giới thiệu với tôi, phía Mỹ ra đón có ông DesTas đại diện cho Văn phòng người Mỹ mất tích (DPMO) và Huy Tuấn, Đại úy, là Việt kiều phục vụ trong quân đội Mỹ. Chúng tôi về nghỉ tại khách sạn Embassy Suite. 
Khi vừa đặt chân tới khách sạn, ông DesTas thông báo với tôi:
- Đề nghị bổ sung vào chương trình là bố trí 9 giờ sáng 22 tháng 8, việc đầu tiên là Đoàn sẽ đến viếng Bia Tưởng niệm ghi tên những quân nhân Mỹ tử trận trong chiến tranh Việt Nam; việc này phía Mỹ đã thông báo cho các hãng thông tin của Mỹ và quốc tế sẽ tiến hành ghi hình, viết bài để đưa tin. 
Tôi nghĩ rằng, đây là một vấn đề nhạy cảm và tế nhị, lại nằm ngoài kế hoạch đã thống nhất giữa hai bên từ Hà Nội. Vì vậy, tôi nói rằng:
- Trong thời gian công tác tại Mỹ, chúng tôi nhất định sẽ đến tham quan Bia Tưởng niệm. Nhưng căn cứ vào mục đích chuyến công tác, thì đó không phải là việc đầu tiên sang Mỹ.
Sau một lúc ý kiến qua lại, phía Mỹ chấp thuận.
Mặc dù trải qua một chặng hành trình dài khá mệt mỏi, được bố trí nghỉ trong một khách sạn đầy đủ tiện nghi, rất yên tĩnh, nhưng đêm đầu tiên ở nước Mỹ, tôi khó ngủ, lòng ngổn ngang nhiều cảm xúc. Vì trách nhiệm với công việc, trước anh linh của những đồng đội đã khuất, chúng tôi được cử đến tận nơi đây, một thời là trung tâm phát động cuộc chiến tranh xâm lược; sẽ tiếp xúc làm việc với những tổ chức, những con người vốn là đối địch trong chiến tranh, để tìm hiểu thông tin về các trường hợp cán bộ, chiến sĩ ta đã hy sinh trong các nhà tù, trong các trận chiến đấu trên chiến trường.
6 giờ sáng ngày 22 tháng 8 năm 1999, tôi bách bộ ra ngoài khách sạn. Ban mai trời dịu mát, nhìn ra xung quanh tôi thấy những đường phố thoáng rộng, những hàng cây cao to và những thảm cỏ bao quanh những tòa nhà đồ sộ, chọc trời. Nhìn chếch sang phía bên kia, một tòa nhà sừng sững, đó Lầu Năm Góc - trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ - trung tâm đầu não của bộ máy chiến tranh. Chính từ nơi đây, suốt mấy chục năm trời, các chiến lược gia quân sự Mỹ đã hoạch định và chỉ đạo cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, gây ra bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta trên cả hai miền Nam Bắc. 
Chiều ngày 22 tháng 8 năm 1999, theo thông lệ ngoại giao, ông Robert Jones, Phó Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ đặc trách người Mỹ mất tích trong chiến tranh (DPMO) đã tổ chức mời cơm Đoàn. Cùng dự còn có Đại sứ Lê Văn Bàng và Đại tá Võ Đình Quang, Trưởng phòng tùy viên quân sự Việt Nam tại Mỹ.
Trong suốt thời gian Đoàn chúng tôi công tác ở Wasington, các anh ở Phòng Tùy viên quân sự Việt Nam đều tham gia các hoạt động và tạo điều kiện giúp đỡ. Phía Mỹ bố trí hai người thạo tiếng Việt thường xuyên đi cùng để tiện việc trao đổi đó là DesTas chuyên viên cao cấp của Văn phòng tìm kiếm người Mỹ mất tích và Huy Tuấn, Đại úy, Việt kiều trong quân đội Mỹ. DesTas từng ở Việt Nam lâu, có vợ tên là Nguyệt, quê ở Bến Tre. Huy Tuấn quê ở Huế, di tản theo gia đình sang định cư ở Mỹ sau tháng 4 năm 1975.
Sáng 23 tháng 8 năm 1999, chúng tôi vào Bộ Quốc phòng Mỹ. Để đảm bảo an ninh, mọi người ra vào ở đây đều phải qua kiểm tra rất kỹ trên nhiều đoạn. Trước khi vào đây, chúng tôi đã chuẩn bị máy ảnh, camêra, máy ghi âm để ghi lại các thông tin trong buổi làm việc. Nhưng đều phải bỏ lại ở ngoài, mỗi người chỉ được cầm theo một quyển sổ tay.
Tại Văn phòng tìm kiếm người mất tích của Mỹ (DPMO), chúng tôi đã nghe thuyết trình về việc tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích trong các cuộc chiến tranh. Sau đó, gặp và làm việc với ông Robert Jones, Phó Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ. Robert Jones nói rằng, trên cương vị đương nhiệm, ông sẽ đề nghị Bộ Quốc phòng Mỹ hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam trong việc cung cấp thông tin và cung cấp trang, thiết bị tìm kiếm chiến sĩ ta mất tích, hy sinh trong chiến tranh. Tham gia buổi làm việc cùng chúng tôi có anh Đỗ Văn Nghị, Trung tá, Phó phòng Tùy viên quân sự Việt Nam tại Mỹ. 
Chiều ngày 23 tháng 8 năm 1999, Đoàn làm việc với Trung tâm lưu trữ Quốc gia của Mỹ (NA RA). Trung tâm này ở trên một khu đồi, được bao quanh những cánh rừng cây cối rậm rạp, cách Lầu Năm Góc khá xa. Đường tốt xe chạy nhanh cũng mất vài tiếng đồng hồ. Khi đến, ông Thống đốc Trung tâm J.Carlin đã tiếp và thông báo chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm và những vấn đề mà Trung tâm có thể cung cấp cho phía Việt Nam trong khai thác hồ sơ lưu trữ. Ngày 24, 25 và sáng 27 tháng 8 năm 1999, Đoàn nghiên cứu hồ sơ tại Trung tâm lưu trữ hồ sơ NARA.
Hồ sơ về chiến tranh ở Việt Nam được lưu trữ ở Trung tâm NARA dưới nhiều dạng : Dạng nguyên bản như nhật ký tác chiến, hồ sơ tù binh chết ở bệnh viện,…Dạng phim ảnh tư liệu chiến trường; dạng đưa vào phần mềm vi tính,…Tất cả hồ sơ mà Đoàn đã tiếp xúc đều bằng tiếng Anh. Số lượng hồ sơ ở NARA là rất lớn, bao gồm:
Dạng nhật ký chiến trường, báo cáo tổng kết, bài học kinh nghiệm sau từng trận đánh, ghi lại đầy đủ chi tiết hoạt động của quân đội Mỹ từ cấp tiểu đoàn trở lên tới Bộ Chỉ huy (MACV). Với tổng số khoảng 32 triệu đến 40 triệu trang. Các thông tin liên quan đến bộ đội ta hy sinh trong chiến tranh nằm rải rác trong các loại hồ sơ với tỷ lệ không nhiều lai không có tên tuổi cụ thể. Đây thuộc loại tài liệu tác chiến. Đoàn đã sao chụp một tài liệu về trận ABia Tây Thừa Thiên trong hai ngày 21 và 22 tháng 5 năm 1969 để làm ví dụ cụ thể và hiểu rõ cách truy cập hồ sơ tài liệu ở dạng này.
Dạng hồ sơ nguyên bản về báo cáo tử vong các trường hợp tù binh (cán bộ, chiến sĩ ta bị địch bắt) ở các bệnh viện quân đội Mỹ (chủ yếu là Tổng y viện Cộng hòa cũ). Hồ sơ ở dạng này có danh sách tên tuổi cụ thể cán bộ, chiến sĩ ta bị chết bao gồm các thông tin về: tên, tuổi, quê quán, ngày vào viện, ngày chết, nguyên nhân chết. Một số danh sách có đề cập đơn vị Mỹ, ngụy bắt, cấp bậc hoặc chức vụ của bộ đội ta và đặc biệt có một số đề cập tới vị trí chôn cất như Tân Sơn Nhất, Biên Hòa,…Đoàn đã sao chụp được 578 trang để tiếp tục nghiên cứu sử dụng.
Hồ sơ ở dạng phim tư liệu, ảnh chụp đề cập tới hoạt động của bộ đội ta ở chiến trường; ảnh chụp hoạt động ở các trại tù binh chiến tranh của Mỹ, ngụy.
Những trang hồ sơ tài liệu, những thước phim tư liệu của Trung tâm NARA đã đưa chúng tôi trở về những hình ảnh chiến đấu trên chiến trường Miền Nam; đồng thời cho chúng tôi hiểu thêm qui mô, tính chất quyết liệt của cuộc chiến và những hy sinh to lớn của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh quyết liệt lâu dài.
Đoàn đã nhận và chuyển về Văn phòng DPMO 10 hộp thư mục hồ sơ để thông qua con đường ngoại giao chuyển về Việt Nam tiếp tục nghiên cứu sau. Số hồ sơ sao chụp được 578 trang, Đoàn mang trực tiếp về Việt Nam.
Chiều ngày 25 tháng 8 năm 1999, Đoàn nghe Bà tiến sĩ Susan Mather đại diện cho Bộ Cựu binh Mỹ giới thiệu về chất độc màu da cam. Cùng dự có Đại tá Võ Đình Quang, Trưởng phòng Tùy viên quân sự Việt Nam tại Mỹ. Buổi làm việc xoay quanh chủ đề những căn bệnh do tác hại của Điôxin gây ra đối với binh lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Sau khi nghe tôi nêu lên mấy câu hỏi: Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ đã sử dụng chất độc Điôsin từ bao giờ? Số lượng bao nhiêu? Khi dùng chất độc này, người Mỹ đã lường đến tính chất cực kỳ nguy hiểm của nó? Quân nhân Mỹ tham chiến ở Việt Nam bị nhiễm độc Điôsin khoảng bao nhiêu người, thường bị những căn bệnh gì? Chính sách của Chính phủ Mỹ đối với những quân nhân Mỹ bị nhiễm chất độc?,…Bà Sunan Mather đã thông báo với chúng tôi: Từ năm 1961 đến năm 1971, Mỹ đã dùng chất độc hủy diệt cây cỏ ở chiến trường Việt Nam. Sau khi tham gia chiến tranh Việt Nam, nhiều quân nhân Mỹ đã nhiễm chất độc Điôxin, gây ra nhiều căn bệnh như chứng phát ban Clo, bệnh hodgkins (một dạng ung thư hạch ác tính), đau tủy, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư đường hô hấp, đái tháo đường,…Thời kỳ đầu, Bộ Cựu Chiến binh Mỹ kiện các nhà sản xuất hóa chất. Sau đó, Quốc hội Mỹ thông qua Luật trợ cấp cho những người tham gia chiến tranh Việt Nam bị bệnh do nhiễm chất độc Điôxin. Đã tiến hành tổ chức khám cho 300.000 người, thì có đến 10% quân nhân bị nhiễm, trong đó có 7.000 nữ quân nhân bị các bệnh về sinh đẻ (sảy thai, đẻ non, chết lưu), 800 quái thai. Mức trợ cấp cho mỗi người tùy theo mức độ ảnh hưởng, cao nhất là 25.000 USD/năm.
Nghe xong, tôi nói với bà Sunan Mather và những người Mỹ có mặt hôm đó rằng: Trước khi sang Mỹ, tôi đã nghiên cứu tìm hiểu về tình hình và hậu quả về chất độc Điôsin do Mỹ gây ra đối với Việt Nam. Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã huy động và sử dụng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, những loại vũ khí tối tân có sức công phá và sát thương lớn, gây đau thương tang tóc cho hàng triệu con người. Đồng thời, Mỹ còn sử dụng nhiều loại chất độc hóa học hủy diệt môi trường sinh thái làm cho hàng triệu héc ta rừng bị tàn lụi khó phục hồi, nhiều vùng đất đai bị nhiễm độc. Trong mười năm (1961 – 1971), Mỹ đã rải xuống Việt Nam 72 triệu lít chất độc hóa học gồm 15 loại khác nhau, trong đó có 42 triệu lít chất độc màu da cam chứa khoảng 170 kg Điôsin, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái và con người. Đến tháng 9 năm 1999, ước tính ở Việt Nam có khoảng 4 vạn người tham gia chiến tranh bị nhiễm độc, gây ra các bệnh tất rất nặng nề cho bản thân. Và hơn thế, còn gây biến đổi gien di truyền qua con cái. Ước tính trong cả nước có khoảng 76.000 cháu sinh ra bị ảnh hưởng do chất độc da cam. Đến thời điểm đó, qua báo cáo chưa đầy đủ của 21 tỉnh đã có 16.445 người tham gia chiến tranh sinh ra 20.766 trẻ dị tật, dị dạng (trong đó có 3.562 cháu bị liệt hoàn toàn; 4.579 cháu bị tâm thần; 5.549 cháu bị dị dạng; 1.185 cháu bị mù, và cac dạng khác). Đây là nỗi đau nhức nhối lâu dài. Mặc dù Chính phủ Mỹ đã có chính sách đối với binh lính Mỹ và các nước chư hầu tham gia chiến tranh Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam do chính Mỹ gây ra, nhưng chưa có trách nhiệm đối với nạn nhân chất độc da cam là người Việt Nam. Cuộc đấu tranh vì công lý và lương tâm còn tiếp diễn.
Ngày 26 tháng 8 năm 1999, Đoàn làm tại Viện Lịch sử Thủy quân lục chiến Mỹ (USMC) và Viện Lưu trữ hồ sơ Hải quân Mỹ. Tại Viện Lịch sử Thủy quân lục chiến, Đoàn đã xem xét cách thức lưu trữ và số lượng hồ sơ ; đã nhận 42 đĩa mềm vi tính sao chụp 65.000 trang tài liệu về hoạt động của lực lượng Thủy quân lục chiến Mỹ ở Việt Nam. Đây là dạng hồ sơ tác chiến, không có chi tiết cụ thể về bộ đội ta mất tích trong chiến tranh.
Tại Viện lưu trữ hồ sơ Hải quân, Đoàn đã xem kho lưu trữ, nói chung cũng là dạng hồ sơ tác chiến, nhật ký tác chiến, điện báo cáo giữa các đơn vị Hải quân Mỹ, Ngụy. Đoàn không sao chụp hồ sơ vì xét thấy rất ít giá trị đối với mục đích của chuyến công tác.
Ngày 27 tháng 8 năm 1999, Đoàn tới thăm và làm việc với Trung tâm nhận dạng gien ADN của Bộ Quốc phòng Mỹ. Ông James Canik, Giám đốc, tiếp đón chúng tôi rất nhiệt tình. Ông nói với tôi rằng, 30 năm trước, ông là phi công lái may bay trực thăng cấp cứu thương binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Đoàn đã tham quan quá trình kỹ thuật nhận dạng AND. Trong quân đội Mỹ, việc nhận dạng người chết đã được quan tâm từ rất sớm, ngay trong thời kỳ nội chiến ở Mỹ, năm 1868. Hiện, Trung tâm có trách nhiệm giám sát kiểm tra tất cả mọi trường hợp chết trong quân đội Mỹ (số lượng ước tính có 3.500 quân nhân chết/năm). Trung tâm lưu mẫu máu, tóc, vân tay, răng của mọi quân nhân trong quân đội Mỹ, kết hợp với thẻ môn bài của từng người, nên việc nhận dạng người chết rất hữu hiệu. Trong chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, số quân nhân Mỹ bị chết khoảng 15.000, trong đó nhận dạng bằng vân tay được 13%, răng được 18%, 63% cả răng và vân tay, còn 6% là không xác định được, phải dùng đến mẫu máu.
Ông James Canik, Giám đốc Trung tâm nhận dạng gien AND gợi ý sẵn sàng giúp đỡ đào tạo về mặt kỹ thuật cho ta, nếu có yêu cầu.

Trong mấy ngày công tác ở Oa-sinh-tơn, nhận lời mời của phía Mỹ, đoàn chúng tôi đã đến thăm Bia Tưởng niệm ghi tên 58.317 quân nhân Mỹ tử trận trong chiến tranh Việt Nam. Đó là mấy bức tường bằng đá đen khá dài trong Công viên Oa-sinh-tơn rộng lớn. Hàng ngày nhiều người Mỹ đến đây tưởng niệm những người ra đi không trở về. Những hàng tên nối dài như một bức thông điệp cho hậu thế với lời nhắn nhủ đừng bao giờ lặp lại việc này. Khi cùng xem với những người Mỹ cùng đi, tôi quay sang hỏi ông DesTas: “ Này ông, tại sao bức tường làm bằng đá cẩm thạch màu đen và lại thấp thế”. DesTas trả lời với tôi: “Ông Đẩu ơi, sở dĩ chúng tôi làm như thế là xuất phát từ ý tưởng: màu đen là màu tang để tưởng nhớ những người chết trận. Tường được làm thấp thôi, vì thực ra, có vẻ vang gì đâu mà phải cao”.
Đọc những dòng tên lính Mỹ tử trận ở Việt Nam nối tiếp nhau phủ kín các bức tường vừa rộng vừa dài, từ người đầu tiên chết năm 1958 đến người sau cùng chết năm 1975. Tôi nghĩ rằng, tất cả họ cũng đều là nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam do Mỹ gây ra. Đau thương tang tóc đã ập đến ngần ấy gia đình Mỹ có con em sang tham chiến tại Việt Nam. Hơn thế, hội chứng Việt Nam sẽ còn kéo dài trong lòng xã hội Mỹ. Lịch sử các cuộc chiến tranh bao giờ cũng để lại hậu quả nặng nề về mọi mặt. Trong đó sự hy sinh, mất mát của người lính và gia đình họ là to lớn nhất, không có gì bù đắp được. Chiến tranh thế giới lần thứ hai làm mất tích hơn 40.000 lính Mỹ. Chiến tranh Triều Tiên (1951-1953) để lại gần 8.000 lính Mỹ mất tích. Mãi đến nay việc tìm kiếm vẫn chưa kết thúc. Vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam là hậu quả do cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra. Theo thông báo của phía Mỹ, số lính Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam là 1.774 người. Sau chiến tranh, chính quyền Mỹ phải đương đầu với sức ép rất lớn từ nhiều phía của nhân dân Mỹ. Công luận Mỹ cho rằng, chính quyền Mỹ đã mắc sai lầm to lớn khi đem quân xâm lược Việt Nam.
Trong một thời gian dài, xuất phát từ tinh thần nhân đạo, thiện chí và thực hiện những cam kết trong Hiệp định Pa ri về Việt Nam, chúng ta hoặc đã nỗ lực đơn phương tìm kiếm, hoặc đã phối hợp với phía Mỹ tìm kiếm thu hồi và trao trả cho Mỹ nhiều đợt, với hàng trăm bộ hài cốt quân nhân Mỹ.

Chiến tranh đã lùi xa nhưng còn để lại những hậu quả to lớn, phức tạp, khó khăn về giải quyết chính sách. Bằng nhiều cách, nhiều kênh thông tin, chúng ta phải tận dụng khai thác, xác minh kết luận các trường hợp quân nhân ta mất tích trong chiến tranh. Đây là chuyến đi đầu tiên sang Mỹ để tìm hiểu nghiên cứu hồ sơ chiến tranh mà phía Mỹ quản lý được. Đoàn chúng tôi đã thu được một số kết quả góp phần nhỏ vào việc giải quyết tồn đọng chính sách sau chiến tranh.
Cuối năm 1999, là thành viên tham gia đoàn Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ sang thăm Việt Nam, Phó Trợ lý Bộ trưởng Robert Jones gặp lại khi tôi tham gia đoàn Bộ Quốc phòng ta tiếp đón tại 33 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội. Thấy tôi mang quân hàm Thiếu tướng, Robert Jones đến chào và nói : “ Tôi chúc mừng ông Nguyễn Mạnh Đẩu! Nhờ chuyến sang thăm Mỹ mấy tháng trước mà nay ông được thăng cấp Tướng “. Nghe xong, tôi mỉm cười và nói : “ Cám ơn ông Robert Jones đã chúc mừng tôi lên quân hàm. Nhưng tôi phải nói lại: Việc tôi lên quân hàm là do nhiều yếu tố. Trong đó có yếu tố tôi đã tham gia đánh Mỹ hồi chiến tranh”. Robert Jones xiết chặt tay tôi mà chẳng nói thêm gì ./.