Menu ngang

Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

Bố em làm ở bộ

- Ở bộ nào, cô bé? Em đừng quá căng thẳng như vậy, đừng căng thẳng. Em chỉ đến muộn một, hai giờ đồng hồ thôi mà, ai chẳng có thể bị muộn vì có chút việc bận chứ… - Thầy hiệu trưởng vừa nói vừa liếc vào cái đồng hồ đeo trên cổ tay - … Mà hình như hôm nay bắt đầu thi hơi sớm thì phải, thật là quá đáng!...
Một cô gái dáng vẻ thấp thỏm, bất an đến gõ cửa phòng thầy hiệu trưởng. Hai mắt cô đỏ hoe, chắc hẳn là vừa mới khóc.
- Em có thể vào được không ạ? - Cô gái rụt rè hỏi.
- Mời vào! Em có việc gì vậy?
- Em chậm ạ, em đến chậm mất rồi…
- Em đến chậm cái gì mới được chứ?
- Thi tốt nghiệp… là em đến thi muộn ạ.
- À… chín giờ người ta đã bắt đầu thi, bây giờ là gần mười một giờ rồi. Em tính thế nào hả?
- Em muốn… muốn được tham gia thi ạ.
- Tham gia thi à? Được đấy! Em hãy về nhà cố gắng học thêm, sang năm lại đến thi nhé!

Minh họa: Lê Tâm.
 Thầy hiệu trưởng quay sang bảo thầy thư ký:
- Anh xuống phòng giáo vụ, làm thủ tục lấy cho em ấy một tờ chứng nhận hoãn thi để thi vào kỳ thi năm sau. À, mà họ tên em là gì?
- Kim Na ạ.
- Cấp cho Kim Na… ồ xin lỗi! Còn họ, em họ gì chứ?
- Em họ Lưu.
- Lưu Kim Na… Họ Lưu… nghe quen tai đấy. Thế bố em làm gì, ở đâu?
- Bố em làm việc ở bộ…  trong bộ…
- Ở bộ nào, cô bé? Em đừng quá căng thẳng như vậy, đừng căng thẳng. Em chỉ đến muộn một, hai giờ đồng hồ thôi mà, ai chẳng có thể bị muộn vì có chút việc bận chứ… - Thầy hiệu trưởng vừa nói vừa liếc vào cái đồng hồ đeo trên cổ tay - … Mà hình như hôm nay bắt đầu thi hơi sớm thì phải, thật là quá đáng!... - Nói rồi ông ta lại quay sang thầy thư ký:
- Anh chạy đi hỏi cho tôi, hôm nay ai là giám thị của lớp Kim Na đi!
Sau đó, hiệu trưởng lại quay sang cô gái:
- Hay là em đến dự buổi thi sáng mai nhé. Hôm nay tôi thấy em quá mệt rồi.
- Không được, ngày mai em bận mất rồi.
- Được, được, được rồi. Em cứ bình tĩnh nào, chúng ta sẽ thi ngay bây giờ… - nói đoạn, thầy hiệu trưởng quay sang thầy thư ký - Anh mau đi lo liệu việc này đi!
- Cảm ơn thầy, em có thể gọi điện cho bố em được không? Bố em chắc đang rất sốt ruột.
- Đương nhiên là được, em đọc số đi, tôi bấm cho…
- Cảm ơn, 133…
- Đây là số điện thoại của nhà em à?
- Không ạ, nhà em không có điện thoại, đây là số điện thoại ở phòng làm việc của bố em.
- Nhà em mà không có điện thoại sao? Tôi xin lỗi, thế rốt cuộc bố em làm gì, ở bộ nào?
- Bộ Giáo dục, bố em là nhân viên bảo vệ.
- Nhân viên bảo vệ ư…? Em nghe đây, Lưu Kim Na! Đi thi mà đến muộn một chút thì còn có thể chấp nhận được, đằng này em đến muộn hẳn hai tiếng đồng hồ? Em đừng khóc vội! Em có biết là thi tốt nghiệp mà đến muộn thì hậu quả sẽ như thế nào không hả?
Đúng lúc đó, thầy thư ký chạy vào:
- Đã chuẩn bị xong xuôi rồi, bây giờ em có thể vào thi được.
- Thi cái gì mà thi! Ai bảo anh là em ấy được thi? Lúc nãy tôi vừa mới nói với anh là xuống giáo vụ làm thủ tục cho em ấy hoãn thi để dự kỳ thi năm sau cơ mà. Bây giờ tôi sẽ gọi điện cho bố em, cho ông ấy vui lòng vì cô con gái yêu. Này em, em vừa nói số điện thoại ở phòng làm việc của bố em là bao nhiêu nhỉ, 133… rồi còn gì nữa, đọc tiếp đi!
- Hôm nay bố em nghỉ, không đi làm. Ông ấy đang ở nhà chú em.
- Thôi được, em hãy đọc số điện thoại của nhà chú em cũng được, số bao nhiêu nào?
- 2951811.
- Cũng để ông chú của em vui lòng vì em luôn… Thầy hiệu trưởng vừa nói vừa bấm số.
- Alô, anh là ai? Thư ký à, thư ký của ai?
Hiệu trưởng bịt ống nói điện thoại, quay sang khẽ hỏi Lưu Kim Na:
- Này em, thế chú em làm gì?
- Chú của em là Bộ trưởng Bộ Giáo dục…
Truyện vui của Lý Đông Mai (Trung Quốc) - Trần Dân Phong (dịch

Cái tôi, cái ta


                                                           Hồ Anh Thái


Có lần một tờ báo tiếng Anh đưa ra câu đố vui về ngôn ngữ: tại sao các đại từ nhân xưng tiếng Anh đều không viết hoa (you, we, he/she/it, they…) nhưng duy nhất chữ I lại viết hoa? Anh, chị, anh ấy, chị ấy, bọn ta, bọn họ… không viết hoa, nhưng Tôi lại viết hoa? Chỉ có một chữ Tôi ấy được ngữ pháp quy định viết hoa mà thôi.

Có người trả lời: bởi vì cái Tôi bao giờ cũng to nhất, cái Tôi bao giờ cũng phải được kính trọng nhất, bạn ơi.
Không ngoa, trong một bảng đồ họa đối chiếu phương Đông và phương Tây, ở mục Lối sống, cái tôi phương Đông được vẽ bé tí, trong khi cái tôi phương Tây thì to tướng, choán hết cả khuôn hình.
Cái tôi trong tiếng Việt, ngôn ngữ của một cộng đồng thứ bậc, không chỉ tôi mà còn tao, em, cháu, mỗ, bản thân, ta đây, vân vân. Ở nơi công cộng, công sở, tự xưng là tôi theo kiểu công dân mà cũng khó, ngại xưng tôi như thể sợ người ta bảo mình thiếu khiêm tốn.
Một nghệ sĩ trẻ, một vận động viên trẻ, được nhà đài phỏng vấn cứ xưng là em là cháu. Rồi chính anh chị nhà đài cũng ngang nhiên xưng với người được phỏng vấn là chị là cô là anh là chú. Đang tập cho quen với tinh thần công dân dân chủ mà vướng ngay vào xưng hô thứ bậc, thật khó.
Tôi từng viết về cách xưng hô trong truyện ngắn Chợ (2002), hơi đùa, hơi gây hấn một tí: “Người Bắc lạ thế. Khó mà xưng hô với nhau anh tôi theo kiểu công dân. Gặp nhau lần đầu chẳng cần biết tuổi cứ xưng em với bất kỳ ai. Gọi nhau trên điện thoại giao dịch, nào có biết mặt người ta mà cứ ton ton xưng em. Nhưng cứ thử quệt xe vào em, thử nhỡ mồm nhỡ tay với em một cái mà xem, em sẽ nhảy lên thành bố mình ngay”.
Người Việt dùng từ “tự học” để nói việc học hành do nỗ lực bản thân, không cần có thầy bạn kèm cặp. Cha mẹ nhắc con: Tự mà học đi. Cũng khái niệm này, tiếng Anh nói: Teach it yourself, tự mình hãy dạy lấy chính mình. Tự học có lẽ là cái tôi acủa mình vẫn thấp, phải tìm đến một cái hơn mình, hiểu biết hơn mình, tìm đến sách vở trợ lực. Tự dạy, tức là bản thân mình đã là người thầy, tự mình đã có kiến thức (lấy từ sách vở chẳng hạn), mình dạy cho chính mình. Đề cao cá nhân, khích lệ nỗ lực cá nhân, cổ vũ bản lĩnh và lòng tự tin.
Cũng là khía cạnh nhìn thấy tính lạc quan của vấn đề, người ta nói: “làm mới cái nhà” (renovation), khác với ta gọi là “sửa nhà”. Cái nhà nứt rạn, thấm nước… thì “sửa nhà” là nhấn mạnh đến việc xuống cấp của nó. Còn “làm mới cái nhà” lại nhấn mạnh đến khía cạnh tốt đẹp trong tương lai của nó.
Tôi cũng học được cách diễn đạt lịch sự của tiếng Anh và một số ngôn ngữ phương Tây. Tôi thường viết: “cô ấy và tôi”, chứ không viết “tôi và cô ấy”. She and I. Ngữ pháp tiếng Anh quy định khi có hai đại từ nhân xưng trở lên thì phải đặt người khác lên trước mình. Ký tặng sách cho một cặp vợ chồng chẳng hạn, tôi sẽ ghi tên người vợ trước, tên người chồng sau. Lady first, quy tắc lịch sự Âu – Mỹ là thế, quý bà phải được mời đi trước quý ông, quý bà được nhường đường. Nhưng chỗ này cũng phải có một lưu ý: lên cầu thang, quý bà thường mặc váy, có khi lại váy ngắn nữa, thì khi ấy không phải lady first, mà quý ông lịch sự nên bước lên trước, coi như dẫn đường.
Từ chuyện cái tôi và cái ta trong ngôn ngữ, nói thêm chuyện này có lẽ cũng không đi quá xa: gọt cam gọt táo, người phương Tây thường gọt theo chiều vào trong lòng mình, như chủ động nhận lấy cái nguy hiểm của lưỡi dao sắc. Nhưng người phương Đông lại cho đó là gọt ngược. Phương Đông phần nhiều gọt từ trong gọt ra, đùa thì bảo ta giữ an toàn cho bản thân ta, còn chẳng may gọt ra trúng ai người ấy chịu.
Nguồn: tienphong

PHÙNG KHẮC KHOAN - 

THÁI ĐỘ CỦA KẺ SĨ TRƯỚC THỜI CUỘC

  •   HOÀNG QUỐC HẢI
  •  tăng kích thước chữ
Sách “Các nhà khoa bảng Việt Nam” do học giả Ngô Đức Thọ chủ biên, mục 1503 trang 481 có ghi: “Phùng Khắc Khoan (1528-1613) người xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, nay là thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
53 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn niên hiệu Quang hưng 3 (1580) đời Lê Thế tông. Hai lần đi sứ đều được nhà Minh tôn kính, không xưng tên. Ông làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tước Mai quận công. Thọ 86 tuổi. Khi mất, được tặng Thái tể, phong phúc thần.
Phùng Khắc Khoan, tự Hoằng phu, hiệu Nghị Trai, tác phẩm có Mai Lĩnh sứ, Hoa thi tập, Ngôn chí thi tập”.
Trong “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, phần “Nhân vật chí” về Phùng Khắc Khoan tác giả đánh giá:
… Lúc trẻ đã nổi tiếng văn học, theo học trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Lại, kiêm thông cả thuật số. Nhưng chí khí hào mại, không chịu ra thi với nhà Mạc. Đầu đời Trung tông theo Lê Bá Ly qui thuận nhà Lê… Thái sư Trịnh Kiểm mới gặp ông, biết là người có học thức, mưu lược, cho tham dự việc trong màn trướng, trao chức ký lục ở hỗ ngự dinh, coi quân bốn vệ… Ông là người cương quyết, sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu. Văn chương ông thanh nhã, dồi dào, có các thi tập truyền ở đời”. (Lịch triều hiến chương loại chí tập I trang 260-261)
Nhà bác học Lê Quí Đôn trong “Toàn Việt thi lục” có nhận xét về Phùng Khắc Khoan như sau: “Khoan là người cương nghị tinh minh, văn võ toàn tài”.
Trên đây là lời lẽ của các học giả hàng đầu của nước ta sinh sau cụ Phùng Khắc Khoan trên dưới hai trăm năm.
Lại như người cùng thời với cụ Phùng Khắc Khoan, đó là cụ Đỗ Uông đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhị danh (bảng nhãn) đời Mạc Phúc Nguyên (1556) làm quan tới chức Lai bộ thượng thư, Đông các đại học sĩ, Thiếu bảo, Thông quận công cũng có những lời ưu ái về cụ Phùng.
Thật ra người cùng thời với nhau, lại ngang tài, ngang sức nhau mà thừa nhận nhau là việc khá hiếm. Ắt Phùng Khắc Khoan phải là bậc bạt quần thì Đỗ Uông mới có nhận xét: “Phùng Khắc Khoan là một bậc hào kiệt có tài cao, khoa giáp nổi tiếng, đạo cao đức trọng, nhân hậu trung nghĩa; đủ để giúp nước bình trị, vỗ yên dân chúng, lòng ông rộng mở. Khí độ hiên ngang đủ sức xoay trời chuyển đất, thao túng vũ trụ”.
Các bậc tiền nhân đã trân trọng họ Phùng đến như vậy, thử hỏi lũ hậu sinh chúng ta biết nói gì về cụ đây. Hơn nữa, suốt 400 năm qua, từ khi Phùng Khắc Khoan viên tịch (1613) đã có biết bao tao nhân mặc khách, biết bao các học giả trước thuật về cụ.
Người ta đã viết nhiều về Phùng Khắc Khoan từ việc tu thân, việc chọn hướng đi, việc thi triển tài năng, cả đến khí phách trượng phu, lòng nhân ái và thơ văn mẫn tiệp, tưởng không còn thiếu điều gì về nhân vật lỗi lạc này không được các học giả đề cập đến.
Tuy nhiên, nếu ta thành tâm, kính cẩn suy ngẫm về sự nghiệp lớn lao, tài năng trác việt, nhân cách cao thượng của Phùng Khắc Khoan, chắc cũng có thể khe được đôi nét để viết về cụ. Ấy là thái độ của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Ta biết, khi Phùng Khắc Khoan cất tiếng khóc chào đời (1528), thì Mạc Đăng Dung đã lấy ngôi nước từ nhà Lê một năm trước đó (1257).
Tuổi niên thiếu và tuổi thanh niên của Phùng Khắc Khoan gắn liền với quê hương Phùng Xá, đến 16 tuổi thì sang Hải Dương (huyện Vĩnh Lại) học Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Lúc này đang là thịnh thời của nhà Mạc. Nhà Mạc lấy ngôi nước từ nhà Lê và đóng đô ở Thăng Long 65 năm (1527-1592) liên tục.
Không thể phủ nhận nhà Mạc đã làm được khá nhiều công việc, kể cả việc đào tạo nhân tài và tạo ra một nền văn hóa mang dấu ấn Mạc khá đậm.
Nhà Lê khởi thì Lê Lợi với công việc đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh, một kẻ thù tàn bạo và hiểm độc chưa từng thấy trong lịch sử cổ kim, ròng rã suốt 10 năm. Đến đời Lê Thánh tông là triều đại sáng giá nhất và cũng là thời cực thịnh của nhà Lê. Nhưng ông vừa mất khoảng hơn chục năm sau thì các cháu của ông là Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã trở thành những tên bạo chúa, đời gọi Uy Mục là vua quỉ, Tương Dực là vua lợn. Công việc triều chính đổ nát. Dân tình cực khổ, loạn lạc tứ tung. Và đến năm 1527, tức là đúng 100 năm sau khi Lê Lợi lên ngôi, thì nhà Lê mất về tay nhà Mạc. Lại tới năm 1533 công cuộc trung hưng cho nhà Lê được khởi từ Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim, dò tìm con cháu nhà Lê đưa sang đất Ai Lao tôn lập, mở ra thời kỳ tranh đấu Lê - Mạc.
Sự nghiệp Trung hưng sau về tay Trịnh Kiểm, thu phục được nhiều kẻ sĩ và anh tài giúp rập. Kể cả các bậc tể thần và sĩ phu bỏ nhà Mạc về với nhà Lê. Thật ra tình thế nước ta vào thời Lê Uy Mục, Lê Tương Dực nếu Mạc Đăng Dung không lấy ngôi nước, hẳn cũng có một đầu lĩnh hoặc một tay anh kiệt nào khác thay thế.
Thời thế ấy, kẻ sĩ phù Mạc hoặc phù Lê cũng chẳng hơn gì. Bởi cái hào quang của Lê Thái Tổ đuổi giặc Minh và tạo cho thế nước giầu thịnh của Lê Thánh Tông, đã bị con cháu làm cho tiêu vong, khiến trăm họ oán giận, đời gọi họ là “Vua quỉ”, “Vua lợn”.
Sinh ra và lớn lên trong vùng đất Mạc, tại sao Phùng Khắc Khoan không phù Mạc? Vả lại nhà Mạc lúc đó đủ đất cho ông vẫy vùng thi thố. Rất nhiều các tài năng lỗi lạc thành đạt qua khoa cử, ra làm quan để lại tiếng tăm trong lịch sử như các ông Nguyễn Thiến người xã Canh Hoạch, Tả Thanh Oai (Hà Tây cũ), ông đỗ Hội nguyên đệ nhất giáp, đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Nhâm Thìn niên hiệu Đại chính 3 (1532) đời Mạc Phúc Nguyên (Mạc Đăng Doanh), làm quan tới chức Lại bộ thượng thư, Ngự sử đài, Đô ngự sử, Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh viên, tước Thư quận công.
Cùng đỗ khoa này với Nguyễn Thiến còn có Bùi Vịnh người xã Định Công huyện, Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, Hà Nội). Bùi Vịnh đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhị danh (bảng nhãn) niên hiệu Đại chính 3 (1532) đời Mạc Đăng Doanh, ông là con của tiến sĩ Bùi Xương Trạch, cố nội tiến sĩ Bùi Bình Quân và là viễn tổ của Bùi Huy Bích.
Bùi Vịnh làm quan tới chức Lại bộ Tả thị lang tước Mai lĩnh hầu.
Ngoài ra còn khà nhiều người đỗ đạt và thành đạt với Nhà mạc như các hoàng giáp, tiến sĩ Bùi Trí Vĩnh, Bùi Bá Chiến, Hoàng Sĩ Khải, Dương Văn An v.v…
Đặc biệt trong số những người làm quan với nhà Mạc có Giáp Hải người xã Dĩnh Kế huyện Phượng Nhãn (Bắc Giang) đồ Đệ nhất giáp đệ nhất danh (Trạng Nguyên) Khoa Mậu Tuất niên hiệu Đại Chính 9 (1538) đời Mạc Đăng Doanh, làm quan trải Lục bộ Thượng thư kiêm Đông các, Nhập thị kinh viên, Thái bảo, tước Sách quận công, từng đi sứ nhà Minh ứng đối tỏ ra bậc phách lực, bạt quần khiến người Minh phải nể trọng.
Ồng từng được các vua nhà Mạc tôn trọng, tin dùng. Mặc dù vậy, đến tuổi ông dâng sớ xin về trí sĩ, Mạc Mậu Hợp quyến luyến thuyết phục mời ông ở lại triều. Tới lần thứ ba, thế không giữ được, triều đình buộc phải chấp thuận để ông về hưu, năm ấy ông đã 71 tuổi.
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” phần nhân vật chí viết về người phò tá có công lao tài đức, về đời Mạc, Phan Huy Chú chỉ chép có mỗi một người, đó là trạng nguyên Giáp Hải, đủ biết ông là người tài, đức chói ngời.
Lại một lần nữa tôi tự hỏi vì sao cụ Phùng Khắc Khoan bỏ Mạc phù Lê?
Có nhẽ đây là việc lập chí của ông đã được hình thành từ tuổi đội mũ (16 tuổi). Nhất là từ khi ông về học với người thầy kiệt xuất là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tư tưởng này ánh lên phần nào trong tập “Ngôn chí” của ông.
Trong “Tự thuật” bốn câu cuối của bài 2, cho ta thấy chí lớn của trang thiếu niên anh tuấn này:
Tùng bách khởi kham hàng tuyết đống
Kình nghê na khẳng luyến sầm đề
Nam minh tằng kiến côn bằng phấn,
Vũ dực siêu thăng vũ Hán Tề.
(Cây tùng công bách đâu chịu hàng phục trước tuyết giá
Cá kình cá nghê đâu chịu lưu luyến vũng nước chân trâu
Bể Nam thường hiện cá côn hóa chim bằng tung cánh
Vỗ cánh bay cao ngang với dòng sông Thiên Hà)
Tuổi thiếu niên, nhưng Phùng Khắc Khoan đã có chí hướng thượng, tựa như tùng bách là loài cây cứng cỏi đương đầu với gió bão và tuyết sương. Hoặc như đám kình, nghê vẫy vùng ngoài biển lớn, hoặc như cái sức của chim bằng tung cánh bay vạn dặm trên trời cao khoáng đãng.
Đúng như Phan Huy Chú nhận xét ông có “chí khí hào mại”. Lời thơ trên cùng hé lộ cho ta thấy trang thiếu niên này không phải người thường, mà có chí khí của một bậc cân quắc.
Vẫn trong phần “Ngôn chí” bài 4, tỏ rõ trong khi còn đang đi học đã có ý thức dọn mình để tích lũy kiến thức, nhằm có cơ hội thi thố thì chưa hẳn đã chịu thua kém Trương Tử Phòng. Tử Phòng tức Trương Lương, nổi tiếng là bậc cao sĩ, mưu thuật vào bậc nhất cổ kim trong lịch sử Trung Hoa, từng giúp Hán Cao tổ đánh bại Sở Bá vương lập ra nhà Hán.
Cứ theo ngôn chí thì rõ ràng Phùng Khắc Khoan có chí kinh bang tế thế. Và khi ông vào tuổi tráng niên thì trạng nguyên Giáp Hải đã đạt tới đỉnh cao danh vọng. Với tài năng và nhân cách của Giáp Hải thì cả đương thời và hậu thế đều tôn trọng, đều kính trọng. Vậy sao Giáp Hải lại không có thể là tấm gương cho chàng thanh niên Phùng Khắc Khoan noi theo?
Trả lời được câu hỏi này, mới có thể giải mã được vì sao Phùng Khắc Khoan bỏ Mạc, phù Lê.
Ta biết Khổng học dạy kẻ sĩ lập thân làm trọng, lập danh làm trọng, nước loạn thì tàng (tức đi ở ẩn), nước thịnh thì xuất (tức đem tài năng, trí tuệ ra phục vụ kẻ giữ ngôi nước).
Tựu trung Khổng giáo dạy đám nho sĩ vị kỷ hơn là vị nhân. Và người Trung Hoa có truyền thống: “Non sông tận cựu thù bất tận”. Tức là nước có thể mất chứ thù cũ không thể quên. Vì vậy họ coi trọng thân hơn nước.
Người Việt Nam du nhập Khổng giáo làm trợ thủ cho đường lối chính trị của nhà cầm quyền, nhưng kẻ sĩ Việt Nam có cách hành xử khác hẳn.
Kẻ sĩ Việt Nam trước hết lấy nước làm trọng, tức quốc gia dân tộc làm trọng. Kẻ sĩ Việt Nam nếu đạt tầm quốc sĩ, đều lấy quốc sỉ làm trọng, tức danh dự quốc gia phải đặt lên hàng đầu.
Ta nhớ năm 1285, giặc Nguyên với thế thượng phong tràn vào xâm lược nước ta, trong trận cản giặc để triều đình rút chạy trước cửa Hàm Tử, tướng Trần Bình Trọng bị giặc Nguyên bắt. Tướng giặc Thoát Hoan dụ hàng. Nếu ưng thuận sẽ cho về làm vương bên Bắc quốc. Trần Bình Trọng khẳng khái mắng giặc: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Trần Bình Trọng bị giặc chém đầu, nhưng khí tiết trượng phu của kẻ sĩ, quyết đem tính mệnh của mình để giữ gìn quốc thể của ông, lại trở nên bất tử. Cũng trong thời gian đó, nhà Trần cử hai ông Nguyễn Đức Dư, Nguyễn Đức Hàn vào trại Thoát Hoan để thương thảo.
Thoát Hoan bực giận cho tới lúc ấy các vua nhà Trần vẫn chưa tới hàng, lại còn sai sứ thương thảo. Y lớn tiếng quát thét: “Sứ, sứ gì các ngươi! Sứ chó!”. Hai ông bình tĩnh độp lại: “Vậy thời chúng ta đang đi sứ nước chó sao?”.Đương nhiên là giặc giết các ông. Nhưng các ông thà chết chứ không để cho giặc làm nhục quốc thể. Những tấm gương đó diễn ra chưa xa lắm.
Đối chiếu lịch sử với những gì đã xảy ra qua cách hành xử của Mạc Đăng Dung, ông vua khởi nghiệp của nhà Mạc với mấy viên quan tỉnh Quảng Tây trước cửa ải Nam quan, vẫn còn là mối quốc nhục. Việc xảy ra mới chỉ hơn chục năm, người đương thời và kẻ sĩ chắc còn giữ nguyên mối hận. Và sự đàm tiếu về hình ảnh ông vua nhà Mạc (Mạc Đăng Dung) dẫn theo một đám quần thần cởi trần và tự trói mình, quì trước mặt một lũ quan lại nhà Minh sao chẳng đến tai Phùng Khắc Khoan. Vả lại nhà Minh với thời của Minh Thế tông lúc ấy, đâu phải là một nhà nước mạnh. Sự thực nó đã ruỗng mục và thối nát đến tận xương tủy, vua thì mê muội, việc triều chính bỏ bê, dân tình oán giận. Thế mà nhà Mạc lại tỏ ra hèn yếu, bợ đỡ đến ngu muội, không còn gì là quốc sỉ, trước người Minh, khiến dân cả nước phẫn nộ. Là một người mẫn tiệp, sáng suốt và cương quyết như Phùng Khắc Khoan, khi tiếp nhận những thông tin về cách hành xử nhục nhã của Mạc Đăng Dung, chắc chắn ông không thể chấp nhận. Đó hẳn là lý do ông không ra thi với nhà Mạc. Đúng như Phan Huy Chú đã nhận định Phùng Khắc Khoan là người“chí khí hào mại, không chịu ra thi với nhà Mạc”. Lại như Lê Qúy Đôn nhận xét: “Phùng Khắc Khoan là người cương nghị tinh minh”.
Người đã có tư chất hào mại cương nghị, tinh minh, ắt phải lấy cái nhục của nước làm cái nhục của chính mình. Ấy cũng là tư chất của bậc quốc sĩ vậy. Hơn nữa, suốt mấy chục năm thống trị nước ta, tội ác giặc Minh gây ra nhiều như lá rừng, nỗi căm giận vẫn còn chất chứa truyền đời trong lòng mỗi người dân Việt. Cho nên việc làm hèn mạt vô liêm sỉ của kẻ giữ ngôi nước đối với kẻ thù của dân tộc, là sự xúc phạm sâu sắc đối với toàn dân tộc.
Với kẻ xâm lăng hùng mạnh mà ta ở thế yếu, nhất thời nước có thể mất, nhưng rồi ta vẫn có thể đuổi giặc đi, lấy lại nước. Nhưng vì muốn giữ lấy cái ngai vàng, tức là vì quyền lợi cá nhân và dòng tộc, tự hạ mình trước kẻ thù để mối nhục cho nước tới muôn sau thì tội ấy không lấy gì mà chuộc được, không ai có thể biện minh được, không một thế lực nào đủ sức bênh che, và lịch sử cũng không thể tha thứ.
Chính vì cảm nhận sâu sắc về nỗi quốc hận đó mà Phùng Khắc Khoan quyết tâm bỏ Mạc phù Lê. Mấy trăm năm sau khi nghĩ lại mối nhục này, Phan Bội Châu còn gay gắt lên án: “Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, sợ nhà Minh hỏi tội, đã lấy hai châu Thạch Tích, Niêm Lãng và bốn động Cổ Sim, Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát hiến cho người Minh. Bản án kết tội bọn ấy nên ghi là: “Lấy đất đai của nước, nhân dân nước, tặng người ngoài, tội ấy đáng chém! Chúng nó lấy lời gì để biện bạch được”([1]).
Trong lịch sử mấy trăm năm, đã có một vài người bàn về chuyện Mạc Đăng Dung dâng đất cho nhà Minh là thật hay là ảo. Nhưng chưa có ai dám cả gan bênh cho việc ông ta làm nhục quốc thể.
“Là người cương quyết sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu”(Phan Huy Chú), Phùng Khắc Khoan thấy ngay cái lý của sự việc, nên ông đã chọn con đường quang minh chính đại, ấy là thái độ dứt khoát của kẻ sĩ trước thời cuộc, và đem hết tài trí ra phụng sự cho non sông đất nước.
Nhân cách của ông, tài trí của ông, sự nghiệp văn chương của ông, mặt nào cũng toàn bích. Riêng tôi kính ngưỡng trí sáng suốt của ông trước cuộc bể dâu rối nát, ông đã chọn đúng đường. Ông xứng đáng là bậc đại quốc sĩ, là tấm gương rực sáng cho kẻ sĩ muôn đời chung soi.
Thiết nghĩ, kẻ sĩ thời nay nếu muốn noi gương Trạng Bùng, trước hết phải biết giữ lấy cái sĩ diện cho chính mình và sĩ diện cho nước, cũng tức là GIỮ LẤY CÁI QUỐC SỈ vậy!
Láng Thượng, ngày 23.10.2012

Kỳ lắm, xe buýt nữ

TT - Không hẹn mà gặp, cả hai thành phố lớn nhất nước (Hà Nội và TP.HCM) cùng lo cho hiện tượng được báo động gần đây: quấy rối tình dục trên xe buýt. 
Chen chúc trên một tuyến xe buýt - Ảnh minh họa: Nguyễn Công Thành
Trong lúc TP.HCM đang cố gắng tìm cách xử lý thì Trung tâm Quản lý và điều hành giao thông đô thị Hà Nội đã nhanh nhảu đưa ra biện pháp gây xôn xao: bắt đầu từ ngày 5-1-2015 sẽ tổ chức thí điểm những chuyến xe buýt dành riêng cho nữ trên các trục đường 1, 6 và 32.
Một cặp vợ chồng là bạn thân của tôi ở thủ đô có hai con gái đang tuổi học, thường phải đi xe buýt đến trường. 
Tôi hỏi họ nghĩ gì về “sáng kiến” này thì họ kể rằng đã hỏi các con có từng bị quấy rối chưa thì chúng lắc đầu. Phụ huynh hỏi tiếp chuyện đi xe buýt dành riêng cho nữ thế nào thì các cháu bảo: “Tụi con đang đi học chung với cả nhóm bạn nam trong lớp. Các bạn ấy tử tế lắm, sẵn sàng bảo vệ bạn nữ nếu cần. Nếu mai mốt đi xe buýt riêng cũng buồn buồn các bạn nam ấy, vì không khéo xã hội nhìn xấu về các bạn”.
Liệu câu chuyện đã xấu đến mức phải có “xe buýt chống quấy rối tình dục” chưa?
Và giả dụ chuyện quấy rối tình dục trên xe buýt đã đến mức trầm trọng thì cũng có cần phải tổ chức xe buýt riêng cho nữ không? Không lẽ chẳng còn giải pháp nào khác chăng?
Trên Facebook của nhà báo Trần Đăng Tuấn, nhiều người đã chia sẻ, đồng tình với một đoạn viết ngắn thế này: “Nhân dịp quan chức Hà Nội kiến nghị nam đi xe buýt riêng, nữ đi riêng để tránh quấy rối, mình cũng kiến nghị công chức làm thủ tục hành chính làm việc riêng một chỗ, dân đi làm thủ tục hành chính làm riêng một chỗ, để tránh tệ cửa quyền; ngành thuế làm việc riêng với nhau, doanh nghiệp tự làm thuế riêng ra, để tránh nạn ép thuế hay trốn thuế; diễn viên biểu diễn riêng, người xem tụ họp riêng, để một bên ăn mặc tự do, bên kia thì không than vãn là mất chú ý đến khía cạnh nghệ thuật; truyền hình cũng thế, ông bà nào làm ra chương trình gì thì tự xem lấy, khán giả tự làm tự xem riêng, để khỏi bực bội với nhau... Không có cái lối cứ lẫn lộn như thế, rất khó cho người ta quản lý!”.
Bên cạnh đó, không ít phụ huynh ắt sẽ băn khoăn như chính bà mẹ hai cô gái trên. Họ muốn gìn giữ đầu óc tuổi hoa niên hồn nhiên của con cái. Họ không muốn các con phải sớm có cái nhìn quá cảnh giác, nặng nề về xã hội, thậm chí là cái nhìn méo mó về chính các bạn trai mình.
Chưa kể chuyện tổ chức xe buýt riêng cho nữ có thể dẫn đến những hệ lụy phức tạp, nhạy cảm khác, như còn cô gái nào dám ngồi xe bình thường? Bởi có thể chính họ sẽ bị cái nhìn méo mó khác: “cô ấy thích gì mà ngồi chung xe nam, không sợ bị quấy rối à?”...
Có lẽ vấn đề này nên được các nhà văn hóa, xã hội học tiếp tục tranh luận. Ngoài ra, chính những người đề xuất xe buýt dành riêng cho nữ cũng cần trình bày thêm quan điểm.
Đặc biệt, tại sao không tham khảo chính nữ hành khách xe buýt? Tự họ thấy tình trạng không an toàn đã đến mức độ nào, có cần, có thích phải ngồi xe riêng?
Mặc dù ngày 27-12, ông Nguyễn Hoàng Linh - phó giám đốc Sở GTVT Hà Nội - cho biết chưa thực hiện ngay việc thí điểm trên, nhưng vấn đề cũng cần được bàn thảo cặn kẽ. Bởi sẽ kỳ lắm, khi bộ máy quản lý xã hội cứ chữa trị các vấn đề của xã hội bằng những biện pháp tình thế.
QUỐC VIỆT

Thương nhớ

Tác giả: Kim Dung/ Kỳ Duyên
Nhớ thương nào vẫn hiện hữu nơi đây
Ban mai trong lành thanh khiết quá
Anh là ai bỗng gặp gỡ đời này
Để tóc trần thơm thoảng hương nồng say
Nhớ thương nào vẫn quấn quýt đêm ngày
Có mộng mơ có đắng cay thổn thức
Vũ điệu cuộc đời ta đâu hẹn mà đối mặt
Để hồn ai đượm ngọn lửa ngất ngây
Nhớ thương nào vẫn day dứt chốn này
Sao xa thế ai ơi người vẫn đợi
Một kiếp một đời yêu thương cùng đau khổ
Nhân gian rộng dài tay vẫn nắm bàn tay
Nhớ thương nào để có nhớ thương nay…
.