ĐẠI TƯỚNG CHU
HUY MÂN -
những kỷ niệm trong đời tôi
Ngày
14/3/2013, tại thành phố Vinh - Nghệ An, đã diễn ra cuộc hội thảo khoa học:
“Đại tướng Chu Huy Mân với cách mạng Việt Nam và quê hương Nghệ An” nhân kỉ
niệm 100 năm Ngày sinh của ông (17/3/1913 - 17/3/2013). Hội thảo khẳng định:
Ông là tấm gương sáng ngời của một chiến sĩ cách mạng kiên trung; một lãnh đạo
tiêu biểu của Đảng, Nhà nước; một vị tướng tài ba của Quân đội ta.
Với công trạng to lớn, Đại tướng Chu Huy Mân đã được
Đảng, Nhà nước trao tặng phần thưởng cao quí: Huân chương Sao Vàng và Huân
chương Hồ Chí Minh. “Hai Mạnh” là biệt danh của ông. Quê ông ở xã Yên Lưu, tổng
Yên Trường, phủ Hưng Nguyên (nay thuộc xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ
An).
Điều may mắn đối với tôi vừa là đồng hương, vừa được
hân hạnh tiếp xúc, được ông bảo ban nhiều điều trong cuộc đời quân ngũ. Tôi xin
ghi lại những kỉ niệm trong đời tôi về Đại tướng Chu Huy Mân.
Huyện Hưng Nguyên liền kề với huyện Nghi Lộc
quê tôi. Thuở nhỏ, tôi được các cụ nói lại rằng, trước đây trong phần mở đầu
văn khấn tế, bao giờ cũng phải đọc là “ Việt Nam quốc, Nghệ An tỉnh, Hưng
Nguyên phủ, Nghi Lộc huyện,…”. Như vậy, huyện Nghi Lộc tôi xưa kia là thuộc
phủ Hưng Nguyên - ít nhất là về mặt thủ tục hành chính. Từ xã Hưng Hòa quê ông
đến xã Nghi Hợp quê tôi theo đường chim bay khoảng 15 cây số. Bởi thế, sinh
thời, trong tiếp xúc ông vẫn luôn coi tôi như con cháu đồng hương, dành cho tôi
sự đồng cảm.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ông là Tư lệnh kiêm Chính
ủy Mặt trận Tây Nguyên, rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5. Còn tôi chỉ là
chiến sĩ rồi trưởng thành trong chiến đấu lên cán bộ cấp phân đội ở chiến
trường Trị Thiên Huế. Từ hồi đó chúng tôi đã nghe nhiều cán bộ chỉ huy kể về
ông bằng sự thán phục, ngưỡng mộ. Đến năm 1976, sau khi đất nước thống nhất,
tại Đại hội lần thứ IV của Đảng, ông được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị; được
Đảng, Nhà nước cử giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị. Tôi là Trợ lý ở Cục Chính sách thuộc Tổng cục Chính trị.
Thời đó, giữa ông với lớp lứa hậu sinh chúng tôi là một khoảng cách lớn. Điều
đó là đương nhiên. Theo Điều lệnh quân đội và theo qui chế, thông thường thì
Chủ nhiệm Tổng cục làm việc với cán bộ cấp cục. Trong một thời gian khá dài, tôi chỉ nhìn thấy hoặc nghe ông phát biểu
tại các cuộc hội nghị và các buổi lễ lớn.
Tại gia đình, có mấy lần tôi gặp ông sang thăm ông bố
vợ tôi (Thượng tướng Trần Sâm) tại số nhà 30 - Lý Nam Đế - Hà Nội. Hai ông quen thân
nhau từ nhiều năm trước, bởi giữa họ có nhiều nét tương đồng: Cùng quê Khu Bốn,
cùng là cán bộ hoạt động Cách mạng bị địch bắt tù đày trước Tháng 8/1945. Sau
năm 1945, đều được điều động vào quân đội. Mỗi lần sang thăm, ông đều niềm nở
thân tình vui vẻ với mọi người.
Cảm nhận của tôi về ông: Một người tầm thước, khỏe
mạnh, da trắng hồng, gương mặt đẹp, nụ cười tươi hiền, ánh nhìn sắc sảo nhân
từ. Khi tiếp chuyện cấp dưới, ông tỏ thái độ chan hòa, gợi mở, lắng nghe,
kiệm lời, giọng nói trầm ấm, với cách diễn đạt mạch lạc, khúc triết, thông
minh, có tầm khái quát cao và thi thoảng có xen sự trào lộng, dí dỏm của ông Đồ
Nghệ. Tạo cho người tiếp xúc một cảm giác dễ gần, thân tình, thoái mái. Với
tôi, cảm nhận ban đầu về ông là không thay đổi trong suốt mấy chục năm sau này.
Vào một ngày cuối tháng 2/1979, khi chiến tranh
biên giới diễn ra khoảng gần chục ngày, tôi cùng một số ít cán bộ được Thủ
trưởng Tổng cục Chính trị cử đi nắm tình hình tại một số đơn vị đang chiến đấu
trên biên giới phía Bắc. Sau khi nhận nhiệm vụ, tôi bất chợt gặp ông ở dãy hành
lang của tòa nhà Văn phòng Tổng cục Chính trị.
Ông dừng lại,
hỏi tôi:
- Cháu được cử
đi đâu?
- Cháu được cử lên Mặt trận Cao Bằng - Tôi trả
lời.
Ông nói tiếp: Thế là tốt. Chiến tranh biên giới do kẻ
địch phát động đã diễn ra trên diện rộng, với qui mô lớn. Sau mấy năm yên bình,
nay cả nước lại phải đương đầu một cuộc chiến tranh mới, với kẻ thù mới. Cháu
đã qua chiến đấu ở chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ. Nay, cần tiếp tục
phấn đấu rèn luyện qua thực tiễn chiến đấu, công tác ở đơn vị cơ sở. Những năm
đầu kháng chiến chống Pháp, bác đã từng chỉ huy chiến đấu ở Cao Bằng. Bây giờ
lên đó, cháu phải xuống hẳn một trung đoàn, trực tiếp nắm tình hình và giúp
lãnh đạo, chỉ huy đơn vị giải quyết những vấn đề đặt ra. Nhớ có báo cáo kịp
thời về Tổng cục.
Tôi chia tay ông và vui vẻ lên đường về Trung
đoàn 567 của Quân khu 1 lúc đó đang chiến đấu ở Thạch An, Cao Bằng.
Cuối năm 1983, khi đang công tác trong cơ quan
Bộ Tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam tại Phnôm Phênh, tôi được ông Đặng Hữu Lộc
(Lộc Bi), Cục phó Cục Chính sách “kéo về” báo cáo tình hình với ông Chu Huy Mân
tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nghe ông Đặng Hữu Lộc trình bày báo cáo tình
hình chung và tình hình cụ thể về công tác chính sách, ông Chu Huy Mân nói:
Thực hiện chủ trương của trên, Quân đội ta đã thực hành cuộc phản công chiến
lược, phối hợp cùng lực lượng cách mạng
của Bạn giải phóng nhân dân Cămpuchia khỏi họa diệt chủng. Trước mắt, tình hình
Cămpuchia đang còn nhiều khó khăn phức tạp. Quân tình nguyện Việt Nam
vừa tiếp tục chiến đấu tiêu diệt địch vừa không ngừng giúp Bạn ngày một lớn mạnh.
Trong thời gian không lâu nữa, khi lực lượng Bạn đủ mạnh, thì Quân tình nguyện
Việt Nam
sẽ rút về nước. Công tác chính sách có nhiệm vụ: Kịp thời nghiên cứu đề đạt nội
dung chính sách đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu của bộ đội. Đồng thời, tập
trung chỉ đạo hướng dẫn thực hiện công tác chính sách trong và sau chiến đấu…
Sau cùng, ông tỏ lời khen: Lộc Bi mới sang Cămpuchia một thời gian rất ngắn mà
nắm chắc tình hình, có nhận định khái quát mà lại khá cụ thể. Nghe thế,
ông Lộc vui vẻ nói, thưa anh, thần thiêng nhờ bộ hạ, bản báo cáo do cậu này
tham gia chuẩn bị đấy. Cậu này đã sang chiến trường K gần một năm rồi ( ông Lộc
vừa nói vừa chỉ tay sang tôi ). Ông Mân mỉm cười đôn hậu nhìn tôi nói, đúng là
có bột mới gột nên hồ, nhưng có chất liệu rồi cũng phải có cách viết tốt mới
thể hiện được.
Đầu năm 1986, ngày mồng Sáu
Tết âm lịch, tôi được ông Doãn Sửu, Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Chính sách “kéo
đi” tháp tùng ông Chu Huy Mân sang Phnôm Phênh. Lúc đó, ông được Bộ Chính trị
phân công thay mặt Đảng, Nhà nước trao tặng huân chương bậc cao của ta cho lãnh
đạo Nhà nước Cămpuchia, gồm các ông: Hiêng Xom Rin, Chia Xim, Hun Xen, Tia
Banh, Bu Thoong… Buổi lễ được tổ chức trọng thể ở Hội trường trong khuôn viên
của Đại sứ Trung Quốc (hồi đó, Đại sứ Trung Quốc đang trong thời kỳ rút khỏi
Phnôm Phênh). Khi trở về Bộ Tư lệnh Quân Tình nguyện (đóng tại khu vực vốn là
Trường đảng của Khơ me đỏ - gần Cung điện Chăm Ka Mon), ông biểu dương Cục
Chính sách đã làm tốt công tác phối hợp với Bộ Quốc phòng, các cơ quan hữu quan
của Bạn và các cơ quan của ta trong việc đề nghị xét khen thưởng lãnh đạo Bạn
một cách chính xác, kịp thời, đúng nguyên tắc thủ tục; đồng thời đã phối hợp
trực tiếp tổ chức buổi lễ trọng thị, chu đáo, có ý nghĩa chính trị tốt, tăng
cường tình đoàn kết giữa hai nước.
Năm 1987, khi tôi đang làm Trưởng
phòng Nghiên cứu của Cục Chính sách. Có lần ông cho ông Lan thư ký (quê Quảng
Bình) gọi tôi ra nhà riêng. Tôi đến nơi vừa ngồi vào bàn, được ông trao cho một
cốc bột sắn giây.
Ông nói:
- Cháu uống đi, đây là sản phẩm do tự tay bác
và bác Thủy (vợ ông) tăng gia đấy.
Đang lúc trời nắng nóng, được uống cốc bột sắn
giây thật mát.
Tiếp đó, ông hỏi tôi:
- Năm
nay cháu bao nhiêu tuổi.
- Dạ, cháu 39 tuổi ạ. Tôi trả lời.
Ông nói:
- Đó là độ tuổi đẹp trong đời. Thử tính xem nào, năm
39 tuổi, bác đã làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đại đoàn 316 rồi đấy nhé.
Thấy ông vui, tôi tếu táo đáp:
- Thế hệ của các bác là thế. Nhưng còn bọn cháu bây
giờ, ở lứa tuổi này, các cụ còn xem là trẻ quá.
Ông cười: Không trẻ nữa đâu, ngót 40 tuổi rồi.
Lãnh đạo đơn vị cần quan tâm tạo điều kiện để các cháu phát triển. Nhưng trước
hết và chủ yếu là sự nỗ lực phấn đấu của các cháu. Thôi, bây giờ ta vào việc
nhé. Việc là thế này: Có một người thương binh tên là Đ N H đến đây nói với bác
rằng, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, anh ta làm Trung đoàn phó của Đại đoàn
316, nay đề nghị bác với tư cách nguyên Chính ủy Đại đoàn 316 xác nhận về chức
vụ và thành tích chiến đấu khi bị thương để được hưởng các quyền lợi. Bác thấy
ngờ ngợ. Là Chính ủy Đại đoàn thì làm sao quên được các Trung đoàn phó dưới
quyền. Nhưng đề phòng do tuổi tác đã cao, trí nhớ giảm sút, ngộ nhỡ mình quên
mà để anh em thiệt thòi quyền lợi là thiếu sót lớn. Bác yêu cầu cháu cho người
kiểm tra xác minh.
Tôi nhận hồ sơ từ tay ông và hứa sẽ tiến hành
ngay.
Sau một thời gian ngắn, chúng tôi xác minh ông
Đ N H đúng là thương binh chống Pháp. Nhưng tại hồ sơ gốc và giấy tờ ông ấy cầm
đã có sai lệch. Trong hồ sơ gốc thì ghi chức vụ khi bị thương là Tiểu đội phó.
Nhưng giấy tờ của ông lại ghi là Trung đoàn phó. Nguyên nhân của việc nay là do
khi đơn vị cấp Giấy Chứng nhận bị thương đã cẩu thả viết tắt Tiểu đội phó là T.
Đ. PHÓ. Khi xuất ngũ về địa phương, ông H đã tự ý chữa lại giấy tờ là Trung
đoàn phó. Bằng các chứng cứ pháp lý và xem xét thực tế, cán bộ Cục Chính sách
đã khẳng định: Ông Đ N H khai man hồ sơ. Điều đó ông Đ N H không thể chối cãi
được, và phải viết bản cam đoan từ nay không khiếu nại nữa.
Khi nghe chúng tôi báo cáo, ông nghiêm
mặt nói: May có các cháu xác minh làm rõ. Nếu không dựa vào cơ quan chức năng,
mà nhẹ dạ cả tin cứ ký đại đi, vô hình trung bác
sẽ tiếp tay cho tiêu cực. Trước khi tôi ra về, ông dặn rằng, trong công tác
chính sách cần chu đáo mà chặt chẽ. Để bảo đảm công bằng, thì không được để sót
người có công, nhưng cũng phải hết sức thận trọng chủ động ngăn chặn các hiện
tượng tiêu cực. Nếu không, sẽ có người khai man để hưởng chính sách chế độ.
Tham nhũng về chính sách là sự tham nhũng cả về danh dự chính trị và quyền lợi
kinh tế. Điều đó chắc chắn sẽ gây bất bình trong nhân dân.
Ngày 25/5/1998, trong chuyến
công tác tại Lào, Đoàn cán bộ Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN do Trung tướng Đào Trọng Lịch
Tổng Tham mưu trưởng dẫn đầu đi trên máy bay YAK 40 cất cánh từ Viên Chăn đến
Xiêng Khoảng bị rơi do đâm vào núi. Toàn bộ trên máy bay đều bị tử nạn, với 20
người, gồm 5 cấp Tướng, 5 Đại tá,… trong đó có Trung tá Chu Thế Sơn, con trai
một của ông Chu Huy Mân.
Cũng như các gia đình có
người thân hy sinh, đây là một đau thương mát mát to lớn ập đến gia đình ông
Chu Huy Mân. Chu Thế Sơn là một sĩ quan trẻ, tuấn tú, được đào tạo cơ bản, có
năng lực, sống khiêm nhường, được mọi người quí mến và có triển vọng phát
triển. Có lần, ông Chu Huy Mân nói với tôi, bác đã đề nghị cơ quan cho Sơn
xuống đơn vị. Cụ thể là về Sư đoàn 316 - đơn vị cũ của bác. Nghe đâu, cơ quan
cán bộ đã báo Bộ Quốc phòng chuẩn bị ra quyết định. Không ngờ đây là chuyến
công tác cuối cùng của Sơn trên cương vị sĩ quan tổng hợp Văn phòng Bộ Tổng
Tham mưu.
Sau khi nhận được thông tin,
theo chỉ đạo của Thủ trưởng Tổng cục Chính trị, tôi và mấy anh em Cục Chính
sách đến chia buồn và thông báo tình hình với gia đình ông.
Ông ngồi
lặng người choáng váng, chăm chú nghe, nghẹn ngào không nói nên lời. Sau cùng,
ông kéo mình tôi vào phòng trong hỏi:
- Trải qua mấy chục năm chiến tranh, biết bao lần,
bác thương xót khi đồng đội hy sinh. Nhưng lần này, quả thật đau đớn lắm cháu
ạ. Cháu có biết, những người hy sinh liệu có còn thi thể không?
Tôi trả lời:
- Thưa bác, cụ thể thế
nào thì Đoàn cán bộ của Bộ Quốc phòng do anh Nguyễn Văn Rinh, Phó Tổng tham mưu
trưởng dẫn đầu đang sang làm việc với Bạn. Cháu đã cử anh Đỗ Quang Bích - Cục
phó cùng đi. Theo cháu, lâu nay các trường hợp tai nạn máy bay, nói chung là
khó lắm.
Giọng ông
chùng xuống, rưng rưng:
- Bác cũng
nghĩ thế. Nhưng cháu khoan nói điều này với bác gái và mọi người.
Khoảng một tuần sau, vào một
buổi chiều hè nắng chói chang, Lễ tang cấp Nhà nước được tổ chức trọng thể tại
Sân bay Gia Lâm - Hà Nội. Ông Chu Huy Mân cùng gia đình đến viếng các liệt sĩ.
Ông đã dừng lại, đứng lặng người, đưa
tay nhẹ nhàng mở lá quân kỳ phủ ngoài, dang hai tay choàng ôm, rồi cúi hôn lên
cái tiểu sành đựng thi thể con trai mình. Sau đó ông lẳng lặng gạt nước mắt.
Năm ấy ông tròn 85 tuổi. Chứng kiến thời khắc đó, tôi nghẹn lòng thương ông vô
cùng.
Mấy năm sau này tôi đến
thăm ông nhiều lần. Có lần đi cùng anh Phạm Văn Long. Có lần đi cùng anh Hồ Sỹ
Hậu. Có lần đi cùng anh Trương Quang Khánh. Phần nhiều là tôi đến một mình - do
ông gọi đến hoặc tôi chủ động tới. Lâu lâu không đến thì ông nhắc (các anh
Nguyễn Văn Vượng, Trương Kim Tiến - thư ký và Nguyễn Hồng Triền - bác sĩ- có
nói với tôi như vậy). Với tôi, mỗi lần đến thăm đều được ông chia sẻ tâm sự và
bảo ban nhiều điều.
Một lần nhân lúc
vui chuyện, tôi tranh thủ hỏi ông, Bác Hồ nói: “Giúp Bạn là tự giúp mình” trong
hoàn cảnh nào. Bác Hồ đặt cho bác là “Tướng Hai Mạnh” từ lúc nào.
Ông kể rằng: Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, đang là Bí thư Đảng ủy, Chỉnh ủy Đại đoàn 316, tháng
8-1954, ông được Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh cử giữ chức
Đoàn trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Đoàn chuyên gia quân sự tại Lào. Phiên hiệu là
Đoàn 100. Tổng số cán bộ trong Đoàn đúng 100 người. Ông Lê Tiến Phục, sau này
là Thiếu tướng, Cục trưởng Chính sách, lúc đó giữ chức Chủ nhiệm chính trị của
Đoàn. Trước ngày lên đường, ông được Bác Hồ mời đến ăn cơm và nói chuyện. Bác
Hồ đã nói với ông rằng: “ Giúp Bạn là tự giúp mình”.
Ông chậm rãi kể
tiếp: Thời kỳ đầu đánh Mỹ, sau đánh thắng lực lượng lục quân Mỹ trong chiến
dịch PlâyMe - đặc biệt là trận IaĐrăng tháng 11/ 1965 - với cương vị là Tư lệnh
Mặt trận Tây Nguyên, ông được cấp trên “triệu” ra Bắc để báo cáo tình hình.
Chuyến đó, Bác Hồ đã dành thời gian nghe ông báo cáo và mời cơm thân mật. Bác
Hồ chăm chú nghe và hỏi rất kỹ về tình hình đồng bào, bộ đội ở Tây Nguyên. Khi
chia tay, Bác Hồ hỏi ông, ở Tây Nguyên chú vừa làm Tư lệnh vừa làm Chính ủy?
Ông trả lời, thưa Bác, anh Lê Đức Thọ Trưởng ban Tổ chức Trung ương nói với
cháu rằng, trong khi chưa tìm được người, cháu đảm nhiệm cả hai cương vị: Tư
lệnh kiêm Chính ủy. Nghe xong, Bác Hồ nói, làm được cả hai cương vị là giỏi,
gánh được cả hai vai là khỏe. Từ nay gọi chú là Tướng Hai Mạnh. Mạnh cả về
chính trị, mạnh cả về quân sự.
Đầu tháng 12/2000, chúng tôi tổ chức cưới vợ
cho con trai đầu. Ông đến tận nhà chúc phúc hai cháu và chung vui với vợ chồng
tôi.
Tháng 5/2004, sau khi lên Điện Biên Phủ nhân kỉ niệm
50 năm ngày chiến thắng (7/5/1954 – 7/5/2004) về Hà Nội tôi đến thăm và tặng
ông bài thơ “Con về Điện Biên” do tôi mới viết. Ông vui vẻ chuyện trò và nghe tôi đọc thơ. Tiếp đó, trong
không khí thân tình, tôi hỏi ông:
- Thưa
bác, cháu đã 3 lần lên Điện Biên. Mấy lần cháu đã nghe giới thiệu về trận chiến
đấu ở Đồi A1. Có một điều làm cháu cứ phân vân mãi.
Nghe
tôi nói thế, ông niềm nở:
- Ờ! Thế à, cháu nói đi, thường thì bác cũng
thích những ý kiến có tính chất phản biện.
Được ông khuyến khích, tôi tiếp tục:
- Thưa bác! Với những điều đã biết, thì nhận
thức của nhiều người trong lớp lứa chúng cháu có suy nghĩ này mà chưa có điều
kiện nói ra. Nhân hôm nay đến thăm bác,
trong phạm vi có tính chất gia đình, cháu xin mạo muội, mạn phép hỏi bác: Hồi
đó, lực lượng ta tham gia đánh A1 là Trung đoàn 174/Đại đoàn 316 (do bác là
Chính ủy Đại đoàn trực tiếp chỉ huy) và Trung đoàn 102 / Đại đoàn 308 (do bác
Vương Thừa Vũ là Đại đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy), liên tục thay nhau chiến
đấu ròng rã hơn 1 tháng, thương vong rất lớn. Cuối cùng, phải đào hầm ngầm đưa
khối bộc phá 1.000 kg đánh vào trung tâm, kết hợp với tấn công dồn dập mới dứt
điểm được. Cháu thiết nghĩ, có 2 vấn đề đặt ra: Một
là, Về chủ trương: Sở Chi huy quân Pháp đặt ở giữa cánh đồng Mường Thanh. Giả
sử ta bỏ qua A1 hoặc cho một lực lượng bao vây chặt A1, tập trung phần lớn lực
lượng đánh thẳng vào Mường Thanh. Và như thế, khi Sở chỉ huy sở của Đờ - Cát ở
Mường Thanh bị tiêu diệt, thì tự khắc quân địch ở A1 cũng bị vỡ tan theo. Hai
là, về cách đánh: Với lực lượng và cách bố phòng của địch ở A1 mà chúng cháu
nghe giới thiệu và xem trên thực địa, nếu như hồi đánh Mỹ, ta chỉ cần sử dụng 1
tiểu đoàn Đặc công, tổ chức điều nghiên thật tốt, thực hành chiến đấu giỏi thì
chỉ mất 1 đêm là có thể dứt điểm được.
Nghe tôi trình bày xong, với ánh nhìn thân thiện, ông
nói:
- Ý kiến của cháu là điều đáng suy nghĩ. Lịch sử diễn
ra một lần, không ai làm lại được. Nhưng, việc nghiên cứu xem xét đánh giá lịch
sử lại diễn ra nhiều lần trên từng góc độ, cấp độ và phương diện khác nhau. Bài
học trung thực, chính xác được rút ra từ lịch sử sẽ có giá trị cho tương lai.
Có điều là, khi xem xét mọi vấn đề của lịch sử đều phải từ quan điểm lịch sử,
cụ thể. Lúc bấy giờ, bác là Chính ủy Đại đoàn 316 - nghĩa
là phạm vi chịu trách nhiệm ở một hướng của Chiến dịch thôi. Xưa nay
trong nghệ thuật quân sự đều chọn lợi thế điểm cao - nhất là trong chiếm đóng và phòng ngự. Chắc không
ai nghĩ rằng, quân Pháp
lại đặt Sở chỉ huy của Đờ - Cát ở cánh đồng Mường Thanh, giữa thung lũng. Vì như thế sẽ có nhiều bất lợi khi bị tấn công. Cả về
chủ trương cũng như cách đánh vào Đồi A1 là do cấp có thẩm quyền quyết định trên cơ sở
phụ thuộc vào kết quả nắm địch và khả năng lực lượng của ta tại thời điểm đó. Trong
một trận chiến đấu (một chiến dịch) nắm được thật đầy đủ, chính xác toàn bộ
việc bố trí lực lượng của quân địch là yếu tố đầu tiên đặc biệt quan trọng, góp
phần tạo nên thắng lợi - Nhưng trên thực tế đây lại là vấn đề vô cùng khó khăn,
phức tạp. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi mà trận chiến đấu (chiến dịch)
đã kết thúc - Nghĩa là, khi mọi việc đã sáng tỏ như ban ngày. Hơn nữa, hồi đó
ta chưa có các đơn vị đặc công như thời đánh Mỹ.
Khi tôi
chuyển công tác từ Cục Chính sách TCCT về Trường Sĩ quan Lục quân 1 (cuối năm
2000) và sau đó khi tôi chuyển công tác từ Trường Sĩ quan Lục quân 1 về Tổng
cục Kỹ thuật (cuối năm 2004), ông đều cho gọi đến chơi nhà. Cả hai lần ông đều
căn dặn tôi: Cháu phải luôn nhớ rằng, làm cán bộ chủ trì cần quán xuyến toàn
diện, nhưng trong lãnh đạo, chỉ đạo lại phải trực tiếp nắm phần trọng tâm,
trọng điểm. Theo cương vị của mình, khi xử lý cái trước mắt, phải tính chuyện
dài hơn, đặt nó trong cái chung.
Theo mạch đó, ông kể rằng: Trong
chiến đấu trên chiến trường, với cương vị lúc là Tư lệnh, lúc là Chính ủy, ông
vẫn thường theo phương cách: Khi chuẩn bị các trận đánh (các chiến dịch) thì
phải rất công phu. Nắm thật chắc tình hình địch, ta, địa hình. Thảo luận Phương
án tác chiến thật kỹ lưỡng. Nhưng khi đã hạ Quyết tâm rồi, bước vào triển khai
thực hành chiến đấu, ngồi tại Sở Chỉ huy ông yêu cầu cấp phó và cơ quan tác
chiến điều hành theo kế hoạch. Những gì diễn ra theo dự kiến thì không cần báo
cáo với ông. Chỉ báo cáo những vấn đề đột xuất phát sinh. Tại sao vậy. Vì người
chủ trì lúc đó cần dành thời gian để suy nghĩ tính toán các bước phát triển
tiếp theo. Nếu trận đánh (chiến dịch) giành thắng lợi, thì bước tiếp theo sẽ
như thế nào. Quân số, vũ khí, trang bị và các mặt bảo đảm khác lấy từ đâu. Trường
hợp không thành công, thì phải làm sao..v..v..Lúc bấy giờ nếu người chủ trì mải
miết sa đà vào xử lý những việc quá cụ thể, thì không còn tâm lực để lo việc
khác lớn hơn.
Ông trầm ngâm dặn dò: Làm Bí
thư Đảng ủy, người chủ trì Công tác Chính trị phải luôn luôn là trung tâm đoàn
kết trong toàn đơn vị. Trước hết là phải đoàn kết chặt chẽ với người chỉ huy,
trên tinh thần giữ vững nguyên tắc, hỗ trợ nhau thực hành theo chức trách, cùng
vì một mục tiêu chung là hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Kinh nghiệm cho thấy,
sự mất đoàn kết giữa người chỉ huy và người chính ủy là một nguyên nhân, thậm
chí là nguyên nhân chủ yếu, dẫn đến đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ.
Ở ông
Chu Huy Mân do hoàn cảnh lịch sử không có điều kiện học tập nhiều tại trường.
Nhưng trải qua thực tiễn hoạt động phong phú, sôi động, với nghị lực tự học,
luôn đúc kết kinh nghiệm một cách sáng tạo, cộng với tư chất thông minh và
phương pháp làm việc khoa học, ông đã có được khả năng tư duy sắc sảo trong
lãnh đạo, chỉ huy ở tầm chiến lược.
Có lần, ông Chu
Tự Di, Chánh Văn phòng TCCT kể với tôi, cách làm việc của ông Chu Huy Mân
thường là: Qua nắm tình hình, xét thấy cần có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo, thì
ông gọi cơ quan chức năng lên. Tự ông đặt vấn đề và nêu ý tưởng khá rõ, rồi
giao cho các cơ quan nghiên cứu chuẩn bị kỹ theo đúng qui trình. Khi đã hình
thành dự thảo văn bản, tổ chức hội nghị thông qua, xin ý kiến tập thể. Sau đó,
cơ quan hoàn chỉnh văn bản trình lên, ông trực tiếp duyệt lần cuối trước khi
ban hành. Cách làm đó là chặt chẽ và có hiệu quả cao, thể hiện đầy đủ nguyên
tắc tập trung dân chủ.
Trong nhiều lần tiếp
chuyện, tôi thấy ông thường xuyên cập nhật thông tin. Những điều ông đưa ra đều
mang tính thời sự trên nhiều lĩnh vực: kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ,
quân sự, chính trị, văn hóa, giáo dục,…Ông thường nêu lên những vấn đề hệ
trọng, bức thiết và sát thực. Tôi cho rằng, khi đã đến lớp tuổi như ông, có lẽ
hiếm người được như vậy.
Đại tướng Chu Huy
Mân mất ngày 1 tháng 7 năm 2006 tại Hà Nội. Trước đó mấy hôm, tôi có vào thăm
ông ở Viện Quân y 108. Hồi ấy, tòa nhà Khoa A 11 đang trong thời kỳ xây dựng
lại, ông điều trị ở khu vực Khoa A1 bây giờ. Các bác sĩ cho tôi biết, ông bị
bệnh hiểm nghèo, không thể cứu chữa. Ông ngồi với tôi ở gian ngoài buồng bệnh
là chỗ tiếp khách. Tôi buồn vô cùng vì chắc chắn sẽ phải vĩnh biệt ông trong
một ngày không xa nữa. Nhưng lúc đó nhìn sắc thái ông vẫn rất bình tĩnh. Ông
nói với tôi rằng, cháu ạ, Điện ảnh Quân đội đã làm một bộ phim truyền hình về bác. Bác đã xem và có một đề nghị: Khi
nào từ Viện Quân y 108 báo về là bác đã ra đi, thì mới được chiếu. Nghe ông
nói, tôi nhận ra rằng: Ở đời, những người có nhân cách lớn thường rất khiêm
nhường. Tôi chợt nhớ đến câu nói của người xưa: “ Cái quan định luận” (có nghĩa
là: sau khi đậy nắp quan tài, bấy giờ xã hội mới đánh giá đúng về một con người
đã ra đi).
Tiếp thu truyền thống văn hóa
lịch sử của quê hương, được giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng từ rất
sớm. Trọn cuộc đời phục vụ cách mạng, ông Chu Huy Mân là một tấm gương sáng
ngời về đức hy sinh, lòng dũng cảm, tài thao lược và nhân cách của người lãnh
đạo.
Tài năng, nhân cách và
công lao của Đại tướng Chu Huy Mân là rất to lớn. Những cảm nhận của tôi chỉ là
một góc nhìn rất hạn hẹp về cuộc đời trường tồn và sự nghiệp phong phú ông đã
cống hiến cho Tổ quốc, Nhân dân.
Đã gần 7 năm ông
về cõi vĩnh hằng. Chép lại vài mẩu chuyện về ông, tôi xin kính dâng một nén
hương lòng lên anh linh một CON NGƯỜI mà tôi suốt đời ngưỡng mộ, kính trọng./.
Mỹ Đình, tháng 3 năm 2013