Menu ngang

Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2019

CHÚC VĂN
TƯỞNG NIỆM TRI ÂN
CÁC LIỆT SỸ VIỆT - LÀO

Trình bày trong Đại lễ cầu siêu tại chùa Phật Tích ( Viêng Chăn ), ngày 09/12/2019.

Cung thỉnh : Anh linh các liệt sỹ Việt – Lào !
Hôm nay, một ngày đông
Nắng hanh vàng tươi rực rỡ
Trời Viêng Chăn cao xanh, lộng gió
Chúng tôi về đây bày tỏ tấm lòng thành
Xin nguyện cầu cho các anh
Những linh hồn quang vinh bất tử !
Từ những cánh rừng, ngọn núi, dòng sông
Muôn nẻo chiến trường trải thời binh lửa
Xin hồn thiêng các anh về đây hội tụ
Giữa Viêng Chăn lộng lẫy cờ hoa.
Mấy lời xin ghi tạc đáy lòng :
Tình liên minh chiến đấu
Vững bền xuyên thời gian
Trải ác liệt gian nan
Qua thăng trầm lịch sử.
Hai nước Việt - Lào chúng ta
Núi liền núi Trường Sơn
Sông tiếp sông Mê Công
Chung kẻ thù xâm lược.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, sáng soi đường cứu nước.
Năm 1945, hai nước Việt - Lào giành độc lập, lịch sử mới sang trang .
Pháp tái chiếm Đông Dương
Mỹ gây chiến xâm lược
Trải mấy chục năm trường
Việt - Lào cùng chiến đấu.
Vâng lời Bác Hồ dạy: “ Giúp bạn là tự giúp mình ”, từ chống Pháp xiết bao gian nan đến đánh Mỹ vô cùng khốc liệt, mấy chục vạn Quân Tình nguyện, Chuyên gia Việt Nam tạm biệt gia đình quê hương, hiến dâng tuổi xuân, không tiếc máu xương, sát cánh cùng bộ đội và nhân dân Lào, anh dũng chiến đấu giành bao thắng lợi huy hoàng.
Ngẫm suy :
Thời gian qua vinh hiển, thăng trầm
Cuộc sống còn bao điều trăn trở
Ký ức mãi tạc ghi về một thời gian khổ
Khúc tráng ca tình chiến đấu Việt - Lào
Nhớ khi xưa
Ngùn ngụt lửa chiến tranh
Trong khí thế xung thiên
Những đoàn quân ra trận
Xuyên rừng, lội suối, gội nắng, dầm mưa
Băng qua ác liệt đạn bom
Vượt Trường Sơn trong ngút ngàn gian khó
Gian lao hun đúc chí kiên cường
Tất cả chung lời thề Quyết thắng!
Đông Trường Sơn, người mẹ Việt lưu luyến tiễn những đoàn quân nối nhau ra tiền tuyến.
Tây Trường Sơn, người mẹ Lào dang vòng tay trìu mến đùm bọc, chở che qua ác liệt gian truân.
Tiếp theo chiến công từ kháng chiến chống Pháp, bước vào kháng chiến chống Mỹ và bè lũ tay sai, Quân Tình nguyện Việt Nam đã cùng Bộ đội Pa thét Lào, liên tiếp lập những chiến công to lớn :
Năm 1962, chiến thắng Luông Nậm Thà.
Phong Sa Lỳ, Sầm Nưa, Xiêng Khoảng
thành vùng giải phóng liên hoàn.
Năm 1968, chiến thắng Nậm Bạc, giải phóng PaThí.
Tháng 2/1969, ta đánh bại chiến dịch Cù Kiệt của bè lũ tay sai.
Tháng 3/1971, đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ ngụy.
Tháng 11/1971, ta giải phóng Cách Đồng Chum - nóc nhà ba nước Đông Dương.
Tháng 5/ 1972, địch tập trung 76 Tiểu đoàn,
hòng tái chiếm Cánh Đồng Chum.
Ta phòng ngự kiên cường đánh hơn 200 trận …
Suốt bao năm chấp nhận mọi ác liệt hy sinh, nhân dân cùng bộ đội Lào đã chiến đấu giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, giúp Việt Nam lập hành lang chiến lược Tây Trường Sơn huyền thoại để chi viện các chiến trường - nhân tố hết sức vẻ vang góp phần làm nên chiến thắng.
Trải qua ác liệt hy sinh trên trận tuyến chống kẻ thù chung, bộ đội Việt Nam và bộ đội Pa thét Lào đã cùng nhau nếm mật nằm gai, vào sinh ra tử, chia ngọt sẻ bùi.
Hàng vạn cán bộ, chiến sỹ Việt - Lào đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp quốc tế cao cả, vì nền độc lập tự do của mỗi nước, vì cuộc sống thanh bình và hạnh phúc của nhân dân hai nước.
Phát huy truyền thống đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn “, sau ngày toàn thắng, nhiều đơn vị trở lại chiến trường xưa, được bộ đội và nhân dân Lào phối hợp, đã tìm kiếm, cất bốc hàng chục ngàn hài cốt liệt sỹ chuyển về an táng trong lòng đất mẹ Tổ quốc.
Một niềm đau đáu khôn nguôi :
Sau mấy chục năm trời, hàng nghìn liệt sỹ hy sinh trong chiến tranh nhưng đến nay các đơn vị vẫn chưa tìm được mộ phần để hương khói tri ân.
Mấy mươi năm đã gắng gỏi kiếm tìm, gian khó chất chồng, nước mắt trộn mồ hôi, vẫn lực bất tòng tâm, biết bao điều khắc khoải.
Máu đào thắm đỏ của các anh
Viết nên từng trang sử chiến
Mỗi con người bình dị một dòng tên
Tạc ghi Tượng đài liên minh chiến đấu.
Các anh dâng hiến tuổi xuân
Máu xương quyện vào lòng đất
Hồn thiêng xin hãy về đây
Hội ngộ trong ngày họp mặt.
Mấy mươi năm sinh tử biệt ly
Đôi ngả âm dương cách trở
Vĩnh hằng đồng đội thấu chăng
Ân tình khôn bề giải tỏ.
Ảnh hình các anh còn đây
Trong lòng gia đình, đồng đội
Xin nhận chúng tôi lạy này
Nơi chốn tâm linh vời vợi.
Năm tháng qua đi, lịch sử mãi mãi khắc ghi về một đội quân của nhân dân Việt Nam, vượt qua thử thách, trưởng thành trên chiến trường Lào, được nhân dân Lào chở che, bộ đội Pa thét Lào phối hợp, đã lập nên những chiến công hiển hách.
Tổ quốc và nhân dân hai nước đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ đã anh dũng hy sinh vì nền độc lập tự do trường tồn, vì tình hữu nghị vĩ đại, vì tình đoàn kết đặc biệt, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân hai nước Việt - Lào !
Chúng tôi xin kính báo :
- Nhân kỷ niệm 50 Ngày truyền thống Quân Tình nguyện & Chuyên gia Việt Nam giúp Lào, Nhà nước Việt Nam đã tặng thưởng Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Việt Nam ;
- Nhân kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống Quân Tình nguyện & Chuyên gia Việt Nam giúp Lào, Nhà nước Lào đã tặng thưởng Huân chương Vàng quốc gia - Huân chương cao quý nhất của Lào ;
- Và năm nay, nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Quân Tình nguyện & Chuyên gia Việt Nam giúp Lào, Nhà nước Việt Nam đã trao tặng Danh hiệu AHLLVTND.
Các phần thưởng cao quý đó, trước hết, xin kính dâng lên anh linh các liệt sỹ !
Chúng tôi và các thế hệ mai sau nguyện đoàn kết một lòng noi gương các liệt sỹ, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng mỗi nước, giữ gìn trọn vẹn, bền vững truyền thống vẻ vang trong thời kỳ mới - thời kỳ hợp tác toàn diện giữa hai nước chúng ta.
Xin cúi mình tưởng nhớ tri ân
Đồng đội một thời chinh chiến
Hỡi hương hồn liệt sĩ anh linh
Tình nặng nghĩa sâu
ngàn sau còn đó!
Thành kính dâng hương !
Cúc cung báí ! Vạn vạn bái !

Vâng soạn và trình bày :
Nguyễn Mạnh Đẩu

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2019

                         LỜI CÁM ƠN

( Cám ơn Nhà thơ, TS Nguyên Hùng - người bạn đồng hương trân quý - đã tặng thơ nhân Sinh nhật lần thứ 71 của tôi )

                                                         N M Đ 

Dẫu đồng hương, chưa một lần gặp mặt
Anh tặng thơ nhân Sinh nhật của tôi
Cám ơn anh tận xa ngái phương trời
Phác dựng cuộc đời - người con xứ Nghệ
Tuổi 16 vội lên đường đánh Mỹ
Giặc đến rồi chẳng đợi lớn thêm đâu
...
Cầm Sổ hưu - ấy là dân thứ thiệt
Đã xuống xe chớ quyến luyến chỗ ngồi
Dẫu cần mẫn trên cánh đồng chữ nghĩa
Nghiệp Văn chương cũng đâu thể là tôi

Cám ơn anh - bạn đồng hương trân quý
Đã trao tôi nguyên vẹn Một Chữ Tình
Những Nẻo Đường Thời Gian phận số
Chuyến Tàu Đời ta kỳ ngộ hữu duyên !

23/10/2019

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2019

TƯỚNG VỀ HƯU QUÊ TÔI

( Viết tặng Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu(*) nhân sinh nhật lần thứ 71)
16 tuổi anh trốn nhà làm lính
Máu, mồ hôi hòa trộn mấy chiến trường
Từ Trung Lào qua Nam Lào - Đường 9...
Từng mấy lần khiến đồng đội khóc thương...
Lên làm tướng vẫn tâm hồn chân chất
Anh trước sau nguyên vẹn MỘT CHỮ TÌNH
NHỮNG NẺO THỜI GIAN không thể nào che khuất
CHUYẾN TÀU ĐỜI bao mất mát hy sinh...
Vẫn cần mẫn lục TÌM TRONG KÝ ỨC
NHỮNG KỶ NIỆM một đời gửi lại mai sau
Anh dạy con: Thành công phần nhiều nhờ nỗ lực
Chỉ cậy thông minh, không dễ ngẩng cao đầu.
Tướng về hưu viết hàng ngàn trang sách
Lập quỹ tặng quê hương nâng bước trẻ đến trường
Được gọi nhà văn, anh che dòng đề tặng
Gọi anh nhà từ thiện - “xin đừng nhé, đồng hương!”
🌹🍷🌹🍷
17/10/2019
Nguyên Hùng
——-
Các tác phẩm chính của Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật:
- Một chữ tình (tập thơ)
- Chuyến tàu đời (tập thơ)
- Những nẻo đường thời gian (tập hồi ký)
- Những kỷ niệm đời tôi (tập hồi ký)
- Suy nghĩ - Luận đàm
- Tìm trong ký ức (ký)
- Nguyễn Mạnh Đẩu - Tác phẩm (tuyển văn thơ)
- Tướng lĩnh và anh hùng quê Nghi Lộc Nghệ An (chủ biên)
- Tướng lĩnh quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh (viết chung).
(*) Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu quê Nghi Hợp - Nghi Lộc - Nghệ An, là hậu duệ đời 18 của Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí, đại thần 4 đời vua Lê.
NHỚ MẸ NHÂN NGÀY 20 / 10
                        N M Đ
Thuở con còn ấu thơ
Mẹ làm phụ nữ xã
Cha - bộ đội xa nhà
Mẹ một nách hai con
Việc chung riêng vất vả vuông tròn...
Chị 17 tuổi đi công nhân
Tròn 16 con lên đường chiến đấu
Một thời trong gian khổ, đạn bom
Khuya sớm tảo tần Me nuôi các em
Ngày mỗi ngày khôn lớn
Mùa Xuân năm sáu sáu
Mẹ sinh lần cuối cùng
Bị hậu sản trong căn hầm lạnh lẽo tránh bom
Em mới được năm ngày, mẹ vĩnh viễn ra đi!
Mãi nửa năm sau tận chiến trường xa
Nhận thư nhà, con mới biết hung tin
Trang thư Cha nhạt nhòa nước mắt
Và con mong ngày thống nhất,
Được sống để trở về
thắp hương Mẹ - trọn đạo hiếu làm con
Từ chiến trường trở về
sau gần chục năm trời xa cách
Nghẹn lòng một mình đứng khóc
trong gian bếp nơi Mẹ tiễn con đi
Hình ảnh kính yêu của Mẹ hiện về...
Khi chúng con nên người
thì mẹ không còn nữa
Đền đáp sinh thành - ấy là điều không thể
Dẫu chỉ nhỏ nhoi tấm áo, gói quà
Cả một đời làm người
như thế hệ cùng thời
Mẹ chưa hề được tặng hoa
nhân những ngày PHỤ NỮ !

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2019

CHƠI & KỶ NIỆM
                               N M Đ
Thuở nhỏ, ở quê, tôi có nhiều bạn. Lũ chúng tôi cùng trang lứa, chơi với nhau hồn nhiên, vô tư, thỏa thích. Hồi đó, có nhiều trò chơi nhưng tựu trung lại thích hơn cả là: đá bóng, đánh khăng và đánh trận giả. 

Lúc đầu mới tập đá bóng, chúng tôi xin hoặc hái trộm ở vườn nhà ai đó một quả bưởi to, hơ lửa cho mềm. Thế là chia phe đá. Sau này có bóng nhựa, bóng da. Bóng da có 2 lớp. Lớp ngoài bằng da, chúng tôi bắt chước cũng nói theo tiếng Pháp là ăng - vô- lốp. Lớp trong bằng cao su, gọi là vít - xuy. Vít - xuy bị gai đâm thủng thì đem vá như vá xăm xe đạp. Vá nhiều lần quá thì thay. Lắm lúc không có tiền mua vít - xuy mới, đành lấy lá chuối khô, ghẻ rách nhét căng vào, cũng đá được. Sân bóng là những thửa ruộng sau thu hoạch còn trơ gốc rạ hoặc một bãi cát mịn màng, bằng phẳng. Sau này lớn hơn một chút, tôi được vào đội bóng “chân đất” của làng, của lớp, của trường. Thường dẫn nhau sang đá ở các sân xã Nghi Xá, xã Nghi Khánh. Cố nhiên, lũ chúng tôi là những cầu thủ bất đắc dĩ, chân đất, mắt toét. Cả đám trẻ trâu nhà quê, một chữ Pháp bẻ đôi không biết. Vậy mà khi đá bóng, chúng tôi đều hét toáng lên các khẩu ngữ bằng tiếng Pháp bồi, mới lạ. Nào là gôn, pa-ri-e, en, pê-nan-ti, cooc-ne, ooc-rơ, lăng-xê, a-la-xô, mô-nê, sút, tét, vô-lê, đờ-mi-vô-lê, manh, ê-tang,…Tất cả những từ đó chẳng qua là truyền khẩu từ lớp trước sang lớp sau. Có thể hồi đó, các từ chuyên môn trong bóng đá chưa được Việt hóa.

Mê bóng đá từ thuở nhỏ. Mãi tới sau này, khi công tác ở Cục Chính sách TCCT và Trường Sĩ quan Lục quân, dù đã ngoài 40 - 50 tuổi, tôi vẫn tham gia đá bóng với anh em trẻ.
Còn nhớ, năm 1994, cơ quan TCCT tổ chức giải bóng đá phong trào. Mở đầu là trận đấu giữa Cục Chính sách và Cục Bảo vệ an ninh. Trước giờ bóng lăn, Phạm Ngọc Thắng đội trưởng Cục Bảo vệ an ninh ( ngày đó còn Đại úy, cán bộ một đơn vị thuộc Cục Bảo vệ an ninh; bây giờ là Thiếu tướng, Phó Chỉnh ủy Học viện Kỹ thuật quân sự / BQP ) chỉ vào mặt tôi nói với đội nhà, phải kèm chặt thằng số 9 này lại, nếu không, hắn thoát xuống ghi bàn đấy. Nghe thế, anh Cao Long Hỷ,Thiếu tướng, Cục trưởng hỏi, thế cháu nói ai đấy? Thắng chỉ tôi nói: Dạ, thằng này! Tôi chỉ cười, không nói gì. Ông Hỷ nói, ấy chết, sao cháu nói hỗn thế, ông Nguyễn Mạnh Đẩu, Cục trưởng đấy chứ! Thắng rầy quá. Trên thực tế, Thắng chỉ biết tôi trên sân bóng. Khi đá bóng không phân biệt cấp chức. Năm đó, trận chung kết là Cục Chính sách gặp Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Trước khi khai mạc, Hiệu trưởng Nhạc sỹ An Thuyên thấy tôi mặc quần áo cầu thủ nói: Trời ! Bác vẫn tham gia được cơ à ? Tôi nói, tham gia cho vui thôi ông ạ.
Tôi vào sân đá chừng 20 phút, thấy nam nữ khán giả cổ động viên - phần đông là giáo viên, học viên của Trường Đại học Văn hoá nghệ thuật - ở ngoài sân vừa gõ trống, vừa hét ầm lên: “ Ông Đẩu ăn gian! ông Đẩu ăn gian! “ . Tôi ngớ người chẳng biết việc gì? Ngoài sân tiếp tục hét thật to :” Ê, ê, ông Đẩu ăn gian, một mình hai bóng - bóng trên bụng và bóng dưới chân - ai biết thế nào mà kèm “. Té ra, họ trêu tôi to bụng, cố tình " quấy nhiễu " làm tôi ngượng, mất tập trung.
Quả thật, sau đó tôi không đá tiếp được, xin trọng tài thay người.
Trận đó, Cục Chính sách do cầu thủ già yếu hơn, thua Trường VHNTQĐ 1-3, được Giải nhì.

Khi đá bóng ở Trường Sĩ quan Lục quân, thì trên sân các cầu thủ đều gọi tôi bằng " Bố ". Bố ơi, sút đi. Bố ơi! chuyền cho con, ... Mà phải thôi, hồi đó, tôi hơn các cầu thủ khác chừng 30 tuổi.
Cùng với đá bóng, chúng tôi chơi khăng. Cách chơi khăng cũng đủ kiểu - có kiểu giống như người ta chơi gôn, chơi bóng gỗ, hoặc bóng chày bây giờ. Chơi khăng hay lắm. Người chơi phải lần lượt qua các công đoạn : câu, cày, vệch, tạt . Mỗi công đoạn có một thứ kỹ thuật riêng. Cuối cùng là tính điểm để phân định thắng - thua. Nhiều lúc tôi nghĩ, giá như ngày nay, người ta khôi phục lại trò chơi khăng, hoàn chỉnh qui chuẩn luật chơi, phát triển lên thành một môn thể thao. Tiếp đó là tổ chức thi đấu hẳn hoi - cả trong nước và lớn hơn là khu vực - thì chắc rằng, biết đâu, sự hấp dẫn cũng chẳng thua kém chơi gôn, mà lại đỡ tốn kém hơn nhiều.
Nhiều hơn cả là chơi trận giả. Cả đám trẻ chia làm hai phe tương đồng trình độ. Chọn ra hai người chỉ huy. Người chỉ huy bốc thăm chọn phe. Sau đó dàn quân, phân trận tuyến. Trên địa hình cụ thể, người chỉ huy bằng mưu kế, lập thế trận, căn cứ vào khả năng mà giao nhiệm vụ cho quân lính thuộc quyền đảm nhận từng mũi, từng hướng…Nhờ đó mà thắng - thua rõ ràng. Chiến thuật chủ yếu là tập kích, phục kích, tao ngộ chiến trực diện, vu hồi. Phải giỏi ngụy trang, giỏi nghi binh, dương đông, kích tây, mưu mẹo và kiên trì. Luật chơi là: ai phát hiện đối phương trước thì giơ lên một ngón tay tượng trưng cho khẩu súng, miệng hô “đùng”. Hô đủ nghe thôi, hô to dễ bị lộ. Người bị phát hiện, sau khi nghe tiếng "đùng" phát ra từ phia bên kia, thì phải “chết”. Điều đó là tượng trưng cho trúng đạn rồi. Cấm cãi! Cứ thế, lần lượt tiêu diệt các “tên địch” khác còn lại. Bên nào hết quân trước là thua .
Trong nhiều “trận đánh”, theo sự tín nhiệm, đám trẻ cử tôi chỉ huy một bên và bên kia là Lê Hiền. Đám trẻ cho tôi là nhanh trí, dứt khoát. Còn Lê Hiền thì cao mưu và kiên trì. Vì chai lì hơn tôi, nên bên phe do Lê Hiền chỉ huy thường giành phần thắng. Có lần, Hiền ngồi phục kích hàng nửa tiếng đồng hồ ở Cồn Làng Đông, chôn chân giữa ổ kiến lửa cắn đỏ cả hai bàn chân và vẫn kiên trì chờ đợi. Lần khác, với đôi chân trần, Hiền chui qua cả bãi gai tre sắc nhọn, rậm rạp ở vườn ông Châu Mợi, nhằm tạo thế bất ngờ.
Những trưa hè nắng chói chang, gió nồm nam hầm hập thổi hoặc những đêm thu mát dịu dưới ánh trăng vàng, đám trẻ chúng tôi chơi đánh trận giả mê say, không biết chán. Cồn Làng Đông, cồn Chôi, cồn Hạ Lang, Nhà Vàn và những mảnh vườn ở các bìa làng là những nơi được chọn làm “chiến địa”.
Sau này, khi lớn lên đi chiến đấu ở các chiến trường, tôi được biên chế vào bộ binh, rồi trinh sát, sau đó chuyển sang đặc công.
Cứ mỗi lần ngồi phục kích trước giờ nổ súng, hoặc luồn vào đồn địch điều nghiên, tác chiến, tôi thường liên tưởng đến trò chơi trận giả thời niên thiếu. Trào dâng nỗi nhớ gia đình, quê hương. Bâng khuâng nhớ những đứa bạn thân chơi đánh trận giả thuở thiếu thời.
Khi kết thúc chiến tranh, tôi mới biết, thời đánh Mỹ, số bạn bè chơi trận giả hồi đó đều lên đường đi chiến đấu. Có nhiều người nằm lại chiến trường. Có người ngày trở về mang đầy thương tích, bệnh tật.
Mấy chục năm sau, Lê Hiền là Đại tá, công tác ở một cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng. Có lần, gia đình tôi mời bà con họ hàng và bạn bè ở Hà Nội đến dự cơm thân mật. Bữa ấy, một người bạn thân thiết mừng tặng tôi bài thơ, trong đó có câu thật ý nghĩa:” Hoa bừng nở từ trong cằn cỗi đá”. Nghe vậy, sau khi uống cạn một chén rượu Chivas regal, Lê Hiền mặt đỏ gay, đứng dậy vui vẻ dõng dạc tuyên bố :”Ông này, bây giờ làm to thế, chứ hồi nhỏ, đánh trận giả ở quê, thường là thua tôi đấy nhá ”. Tôi cười nói, đúng thế, đúng thế. Mọi người cùng cười vui rôm rả.
Về già, lòng lâng lâng hồi tưởng lại chuyện vui chơi một thuở. Mấy chục năm đã qua mà ký ức trong tôi vẫn tươi nguyên như mới diễn ra ngày nào ./.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019



MỘT VÀI GIAI THOẠI
TƯỚNG HOÀNG ĐAN

N M Đ
Ngày 11/9/2015, trong một bữa tiệc chúc mừng Đại tá Đặng Thọ Truật được Nhà nước phong tặng AHLLVTND, giữa không khí vui vẻ những người bạn đồng hương Nghi Lộc, GS - TS Hoàng Hoa ( con trai ông Hoàng Khuê, anh ruột ông Hoàng Đan), Nhà thơ Phương Hà và mấy anh em CCB có đề nghị tôi kể chuyện về Thiếu tướng, Anh hùng Hoàng Đan - một con người nổi tiếng về chiến công, tài năng và cũng khá nhiều giai thoại.
Ông Hoàng Đan quê Nghi Thuận ( Nghi Lộc-Nghệ An ), hậu duệ của Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn - một danh tướng thời Trần.
Là người cùng huyện, nhưng suốt cả đời binh nghiệp, tôi không may mắn được làm cấp dưới trực tiếp của ông. Tuy nhiên, là đồng hương tôi rất kính phục chiến công và ngưỡng mộ tài năng của ông. Những giai thoại về ông, có cái tôi chứng kiến, còn lại phần nhiều nghe qua sự lưu truyền không thành văn trong làng quân ngũ. Nhiều lớp cán bộ Quân đội coi ông là mẫu chỉ huy quân sự trí dũng song toàn.
Ông là vị tướng chiến trận, kinh qua nhiều cương vị chỉ huy từ cơ sở đến cấp Chiến dịch- Chiến lược, lập nhiều chiến công. Đồng thời, ông là một nhà lý luận quân sự xuất sắc của Việt Nam đương đại, với những công trình nghiên cứu có tính học thuật cao. Ông là người thông minh, quyết đoán, tính cách thẳng thắn, bộc trực & trào lộng.
Ông được tặng thưởng nhiều Huân chương. Đặc biệt, năm 2014 ông được Nhà nước truy tặng Danh hiệu Anh hùng LLVTND. Trước đó, năm 2013, tên ông được đặt cho một con đường ở Thị xã Cửa Lò - đúng vào ngày Giỗ ông lần thứ 10.
Giai thoại về ông được nhiều người biết đến.

Chuyện kể rằng, vào năm 1950, khi mới 22 tuổi, ông làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 418 chủ công của Trung đoàn 57 Đại đoàn 304. Lúc đó anh trai ông là ông Hoàng Khuê làm Đại đội trưởng thuộc quyền. Trong một trận đánh phục kích, ông phân công đại đội ông Khuê làm nhiệm vụ khóa đuôi đội hình quân địch. Trận đánh giành thắng lợi không trọn vẹn, vì đơn vị khóa đuôi xuất kích chậm, để một bộ phận quân địch chạy thoát. Khi ra quyết chiến điểm, trước hàng quân, giữa bãi chiến trường mịt mù khói đạn, ông Đan đứng dẫm chân tức tối quát ông Khuê: " Anh đánh giặc như con c... , như cái ẻ ấy ! ". Ông quát thật to, lại gay gắt chình chịch tiếng Nghi Lộc, làm mọi người phì cười. Ông Khuê lặng ngắt, đứng như trời trồng, không dám thanh minh một lời.
Năm 1970, khi ông làm Tư lệnh Sư đoàn 304, chiến đấu ở Trị Thiên. Có lần, ông dẫn đoàn cán bộ đi địa hình để bố trí lực lượng, thế trận. Khi qua một cánh rừng, ông bảo dừng lại để tau đi đái cái. Tiếp đến, vượt qua dãy núi, ông bảo dừng lại, chờ tau ẻ cái. Rồi tiếp tục đi. Khi đến một con suối, ông bảo, tau tắm cái đã. Mấy ngày sau về vị trí tập kết họp giao nhiệm vụ cho các đơn vị, ông tuyên bố: Tôi yêu cầu bố trí Trung đoàn 24 xung quanh chỗ tôi đi đái. Trung đoàn 66 chỗ tôi đi ỉa. Còn Trung đoàn 9 là chỗ tôi tắm.
Mọi người nhận nhiệm vụ hiểu ngay và khi đưa bộ đội vào bố trí lực lượng chính xác theo ý đồ chiến thuật của Sư đoàn. Theo ông, ngày đó trình độ đọc bản đồ và xác định trên thực địa của cán bộ chưa thạo. Nếu giao nhiệm vụ trên tọa độ bản đồ có khi sai lêch.
Năm 1974, ông là Phó Tư lệnh Quân đoàn 2 trực tiếp chỉ huy Sư đoàn 304 và Trung đoàn 3 Sư đoàn 324 vây đánh căn cứ Thượng Đức ( Quảng Nam ). Phi pháo địch rất ác liệt. Để tránh phi pháo của địch, ông yêu cầu các đơn vị cho bộ đội làm hầm chữ A. Có người chưa tin về độ chắc chắn của hầm chữ A. Thấy vậy, ông cho Công binh làm một cái hầm mẫu, rồi ông chui xuống hầm, yêu cầu cối, pháo của ta bắn thử vào đó xem sao. Cối pháo bắn có quả trúng nắp hầm.
Mọi người lo lắng. Khói tan, ông chui từ dưới hầm lên vừa cười vừa nói, thấy chưa, có sao đâu.

Ngoài đời, ông hay bị " kết tội " về quan hệ trai gái. Thật cũng oan cho ông! Thuở đó, xã hội và quân đội đều khắt khe quá mức. Thực ra, biết đâu, chắc gì số lượng quan hệ của ông đã hơn người khác. Chẳng qua ông là người công khai đàng hoàng, rõ ràng thành thật. Ông không dấu mình như những " đồng chí chưa bị lộ". Xưa nay vẫn vậy ! Thông thường thì thông minh, tài giỏi và khỏe mạnh như ông, thì khả năng sinh lý mạnh là sự đồng bộ tự nhiên trong cơ thể một con người. Và có thể có người vì lòng đố kỵ, mà thêu dệt tình tiết, thổi phồng sự việc, tăng thêm khuyết điểm cho ông, nhằm cản trở ông về đường công danh, sự nghiệp. Thêm nữa, là người có tài, chắc chắn trong nhiều trường hợp, ông bị phụ nữ chủ động tấn công. Tướng quân Nguyễn Công Trứ xưa có câu thơ thật hay, thật đúng : " Giang sơn một gánh giữa đồng / Thuyền quyên ứ hự, khách anh hùng biết mần răng ".
Nghe kể, có lần giao ban Bộ Tổng Tham mưu, ông Hoàng Đan là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 1 về dự.
Hôm đó, sau khi kết thúc giao ban, ông Lê Trọng Tấn Tổng Tham mưu trưởng nói, anh Đan ơi! tôi thông cảm với anh nên đã dặn anh Đàm Quang Trung ít nhất một tuần một lần bố trí cho anh về Hà Nội gặp chị ấy. Nghe xong, ông Đan đứng dậy nói, báo cáo Đại tướng, thật khó quá, khi cần không có, khi có lại không cần, biết mần răng. Ông Đan nói đậm đặc tiếng Nghi Lộc. Mọi người dự giao ban được mẻ cười.

Sinh thời, ông Chu Huy Mân kể với tôi: Ông Hoàng Đan là một tướng tài, dũng cảm, lập nhiều chiến công. Hiềm một nỗi...
Nghe nhiều người phản ảnh việc này, bác cho gọi lên nhắc nhở. Sau khi góp ý thẳng thắn, bác chân thành nói: Ông Đan ơi! Tôi góp ý với ông trên ba phương diện: người anh lớn tuổi, là đồng hương, lại là cấp trên. Từ nay ông đừng thế nữa nhé. Nghe xong, ông Đan nói, xin hứa với anh, từ nay tôi thôi không thế nữa!
Độ một tháng sau, ông Đặng Vũ Hiệp nói với ông Mân: Anh ạ, hôm nọ Hoàng Đan gặp tôi, hắn nói: Này Hiệp, tao nói mi chuyện này, hôm nọ cụ Mân gọi tao lên cảnh báo. Tao có hứa, nhưng hứa cho hay. Với tao, tao không nhịn được đâu. Hihi.
Ông Mân bắt chước tiếng Nghi Lộc ( nói không cần các dấu ) khi kể chuyện này với tôi. Và ông phì cười, cháu tính, ai cũng vậy thôi, cái gì thuộc về bản năng là khó sửa lắm! Các cụ xưa đã dạy : Giang sơn dị đảo, bản tính nan di.

Năm 1984, cán bộ trung, cao cấp các cơ quan Bộ Quốc phòng nghiên cứu quán triệt NQ 04 / TW 5 về xác định kẻ thù mới. Trên bục, Báo cáo viên đang say sưa trình bày âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù là bành trướng, nước lớn, bá quyền,...Đang ngồi giữa Hội trường, ông Hoàng Đan đứng phắt dậy nói: Những điều đồng chí giảng giải là đúng, nhưng chưa đủ. Tôi đề nghị bổ sung thêm: Chúng nó là chủ nghĩa xỏ lá. Cả Hội trường nghe xong, cười vang tán thưởng. ( Cái hay là, ông nói to, đặc tiếng Nghi Lộc - mọi từ đều không có đấu ).
Nghe kể, khi giữ chức Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 1, có lần ông cho gọi 3 chiến sỹ lên. Ông hỏi, ở nhà các cháu ăn và ẻ ( ỉa ) ở đâu?
Chiến sĩ thứ nhất trả lời: Dạ, gia đình cháu ăn trong nhà, ỉa ngoài vườn.
Chiến sỹ thứ 2 trả lời: Dạ, gia đình cháu ăn trong nhà & ỉa cũng trong nhà.
Chiến sỹ thứ 3 trả lời: Dạ, nhà cháu ỉa trong nhà, còn ăn ngoài vườn.

Nghe xong, ông nói : Ăn trong nhà mà ẻ ngoài vườn, thì xưa lắm rồi. Ăn & ẻ trong nhà, đã là một bước tiến bộ. Còn ẻ trong nhà mà ăn ngoài vườn, thì đời sống cao lắm đấy nhá.
Cuối năm 1994, khi tôi đang là Cục trưởng Cục Chính sách TCCT, ông Đan là Cục trưởng Cục Khoa học quân sự BTTM.
Có lần, ông sang phòng làm việc của tôi. Hai anh em nói chuyện bù khú từ lúc 2 giờ chiều đến 6 giờ tối. Mãi tới khi công vụ và lái xe lên nhắc, nhìn ra ngoài trời đã tối, phố xá đã lên đèn, mới chia tay. Chuyện thì nhiều, đông tây, kim cổ, trên trời dưới bể...
Có một chuyện làm tôi nhớ mãi: Ông hỏi, Đẩu này! Khi tau chết có được vào Mai Dịch không?
Tôi trả lời, theo quy định hiện hành, vào Mai Dịch phải là Trung tướng trở lên. Còn Thiếu tướng phải là Lão thành CM và có Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Như anh là chưa đủ tiêu chuẩn!
Nghe xong, ông trừng mắt, xẵng giọng, chính sách bọn bay như cứt. Tau đi đánh giặc từ khi dái bằng hạt kê - như mi là chưa đẻ - suốt một đời chinh chiến, đến cái Huân chương Độc lập hạng Nhất cũng không cho. Tau mà xuống được Mai Dịch, tau sẽ chất vấn mấy lão ấy xem trả lời thế nào. Thôi, tau quẹt vào !
Tau sẽ dặn con cái, khi tau chết đưa tau về quê cho mát mẻ, không phải cãi nhau thằng nào !

Năm 2013, nhân được mời về dự Lễ gắn tên ông vào một con đường ở Thị xã Cửa Lò, đồng thời Giỗ ông lần thứ 10, tôi đã đến viếng mộ ông.
Giữa buổi trưa mùa Đông trời màu xám, gió thổi nhẹ, se lạnh, trên nghĩa trang dòng họ Hoàng ở xã Nghi Thuận, bên lăng mộ ông, tôi đã thầm niệm:" Anh Đan ơi! Vậy là anh đã làm như anh đã nói. Kính lạy anh - một con người em kính trọng! "
Giai thoại về Tướng Hoàng Đan chắc còn nhiều hơn nữa. Ai biết, xin bổ sung.
LẦN DUY NHẤT TRONG ĐỜI
TÔI ĐƯỢC ĐÓN BÁC HỒ

N M Đ
Năm 13 tuổi, đang học lớp 6, tôi được đón Bác Hồ về thăm quê lần thứ hai. ( Lần thứ nhất Bác về thăm quê vào năm 1957 ).
Sáng ngày 8 tháng 12 năm 1961, học sinh Trường phổ thông cấp II Nghi Khánh ( Nghi Lộc, Nghệ An ) chúng tôi đi bộ vào Vinh. Tay
chúng tôi cầm cờ hoa xếp hàng ở cổng sân bay Chợ Dâu ( bây giờ gọi là sân bay Vinh ) để đón Bác.

Trời nắng đẹp, gió thổi nhẹ dịu mát. Đúng 12 giờ 30 phút chiếc máy bay Đa-Cô-Ta cánh bạc xuyên mây hạ cánh. Bác rời máy bay lên xe com-măng-ca mui trần.
Chúng tôi ùa ra, tay vẫy cờ, hoa và đồng thanh hô to : Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Bác giơ tay vẫy lại.

Được biết, ngày đó lãnh đạo tỉnh Nghệ An bố trí một chiếc xe du lịch mui trần kết hoa để đón Bác. Nhưng khi xuống máy bay, Bác lại lên chiếc xe mui bạt của Bộ Tư lệnh Quân khu 4.
Ngồi vào xe, Bác bảo tháo bạt ra để Bác còn vẫy chào nhân dân ra đón.
Xe kết hoa chạy sau để cụ Lê Nhu nguyên Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến tỉnh Nghệ An ngồi. Cụ Lê Nhu râu tóc bạc phơ, da dẻ hồng hào, nhiều người tưởng nhầm là Bác. Có người lại nói, đó là người đóng thế Bác, để nghi trang.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi vinh dự được tận mắt nhìn thấy Bác Hồ. Ngày đó Bác còn khỏe nhưng khi tôi cố len vào đứng thật gần nhìn kỹ, thấy da mặt Bác đã có mấy chấm tím nâu. Về nhà tôi hỏi người lớn thì biết đó là chấm đồi mồi - người già vẫn vậy.
Không ngờ rằng, đó cũng là lần duy nhất trong đời tôi nhìn thấy Bác Hồ.
Sau đó mấy hôm, thầy Hoàng Văn Bàng, dạy văn lớp chúng tôi ra một bài kiểm tra :”Em hãy tường thuật buổi đón Bác Hồ về thăm quê”. Bài văn tôi được thầy Bàng chấm điểm cao nhất lớp. Được thầy yêu cầu đọc cho cả lớp nghe chung. Chỉ là thành tích rất nhỏ nhưng tôi cảm thấy vinh dự, tự hào.
BÀI ĐĂNG BÁO
Nguyệt san Sự kiện & Nhân chứng số Tháng 9/2019 đăng bài viết của tôi nhân Kỷ niệm 89 năm Xô viết Nghệ Tĩnh.

QUÊ TÔI TRONG “ NĂM CỘNG SẢN “

Nguyễn Mạnh Đẩu

Quê tôi ở làng Đại Xá, xã Thượng Xá ( nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ). Sinh thời, cha tôi kể, khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh diễn ra, thì ông còn ít tuổi chưa tham gia. Nhưng ông biết: Hồi ấy, ở làng quê tôi phong trào rầm rộ lắm. Khí thế cách mạng thâm nhập, thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân.

Đại Xá là một làng nhỏ chỉ với mấy trăm hộ dân nghèo mà đã có Chi bộ Cộng sản với các đảng viên: Lê Văn Kiêng (Sâm ), Lê Văn Toán ( Tời ) và Nguyễn Văn Oanh tôi gọi bằng chú họ. Quần chúng trung kiên của phong trào thì nhiều - phần đông là trai tráng lực điền. Bác Nguyễn Văn Nuôi ( Tần ) sinh năm 1909 - anh ruột cha tôi - tuy chưa Đảng viên nhưng là quần chúng trung kiên chí cốt của cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ đảng, bác Nuôi ( Tần ) đã cùng mấy thanh niên dũng cảm hăng hái tham gia rải truyền đơn, biểu tình, trấn áp bọn phản cách mạng trong vùng. Bác thường giấu truyền đơn trong gáng hàng mang đến rải ở các chợ trong huyện Nghi Lộc : chợ Sơn, chợ Quán, chợ Đình, chợ Cầu. Và bác đã tham gia biểu tình, cùng nhân dân vây đánh đồn Pháp ở núi Cồn Thông.


Từ thuở bé, tôi đã được cha tôi và các cụ trong làng tôi kể lại rằng : Năm Cộng sản (xưa nay người dân lớn tuổi quê tôi vẫn quen cách gọi như vậy), Đảng phát động quần chúng biểu tình vây đánh đồn Cồn Thông của Pháp. Lực lượng của địch khoảng một trung đội, đóng trên một quả đồi thoai thoải ở cuối xã tôi. Lực lượng quần chúng tấn công thì rất đông nhưng chỉ có giáo mác, gậy gộc. Thậm chí, có người khi nghe hô hào, hăng hái chạy theo phong trào mà trong tay không có gì . Ban đầu quân Pháp trong đồn hoang mang, giao động, co cụm lại, chưa kịp phản ứng. Nhưng sau khi phát hiện thực lực của quần chúng, thì chúng đã nã súng dữ dội và phản kích trở lại. Lực lượng tấn công của ta bị thương vong nhiều, phải rút lui. Khi rút lui, có ông Phạm Văn Mô bị thương nặng, cố lết đến cánh đồng Chùa của làng tôi cách đồn khoảng 2 cây số thì hy sinh. ( Năm 1956, sau khi giải phóng miền Bắc, UBND xã Nghi Hợp đã tổ chức cất bốc hài cốt của ông Phạm Văn Mô đưa vào an táng tại Nghĩa trang Liệt sỹ xã. Hồi đó, tuy còn rất bé nhưng tôi đã theo bạn bè đến xem người lớn làm việc này ).

Khi cách mạng thoái trào, thực dân Pháp và tay sai ráo riết khủng bố, lùng bắt các chiến sĩ Cộng sản và những quần chúng trung kiên. Ông bà nội tôi đã phải bố trí cho bác Nguyễn Văn Nuôi trốn lên miền ngược hơn một năm. Các đảng viên của Chi bộ làng Đại Xá : Lê Văn Sâm ( Kiêng ), Lê Văn Toán ( Tời ) và Nguyễn Văn Oanh đều lần lượt bị địch bắt đưa đi giam tại nhà tù Lao Bảo rồi Kon Tum. Nghe nói, với ông Nguyễn Văn Oanh là người cao to, quắc thước, lại có học nên khi bắt được, kẻ địch tuyên truyền đã bắt được lãnh tụ Cộng sản. Mãn hạn tù, ông Lê Văn Sâm ( Kiêng ), Lê Văn Toán ( Tời ) tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Ông Lê Văn Sâm ( Kiêng ) hoạt động ở vùng Quảng Ngãi cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945 và kháng chiến chống Pháp, sau năm 1954 tập kết ra Bắc. Ông Lê Văn Toán ( Tời ) quay về hoạt động ở Nghệ An cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945, và đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Ông Nguyễn Văn Oanh do bị tra tấn dã man đã hy sinh trong nhà tù đế quốc Pháp. Mãi đến nay con cháu dù rất cố gắng mà vẫn chưa biết được mộ phần.

Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ( 1930 - 1931 ), là một cuộc tập dượt ( diễn tập ) của quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là bài học lịch sử, tạo tiền đề cho sự thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945. Trong tiềm thức tình cảm của người dân làng Đại Xá quê tôi, cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã bồi đắp niềm tự hào truyền thống quê hương. Cao trào Xô Viết đã khơi dậy lòng yêu nước, chí căm thù giặc của quần chúng nhân dân, làm cơ sở cho tinh thần chiến đấu hy sinh của nhiều thế hệ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2019

VĨNH BIỆT CHỊ HOÀNG THỊ TRUYỀN

Tối ngày 14/6/2019, đang ăn cơm, có chuông điện thoại thấy hiển thị chữ Tăng, tôi giật mình nghĩ ngay là chuyện chẳng lành. Trong tiếng nghẹn ngào nức nở, cháu Tăng nói: “ Chú ơi, mẹ cháu vừa mới đi lúc 7 h 10 phút”. Tôi buông đũa, dừng bữa và nói với nhà tôi : “ Chị Truyền mất rồi, anh phải gọi mua vé xe về quê ngay thôi “.
Dẫu biết rằng, chị Truyền bị bệnh hiểm nghèo đã khá lâu; các con chị hết lòng chăm sóc mẹ, mà không qua khỏi, việc ra đi của chị không ngoài dự tính của gia đình. Nhưng khi nghe hung tin, chúng tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng, đột ngột.

Tôi gọi điện hãng xe Phúc Lợi mua vé về trong đêm để kịp ngày mai dự Lễ tang chị. Nhưng là ngày cuối tuần khách đi Nghệ An đông, không còn vé. Tôi phải mua vé đi từ Bến Nước Ngầm ( Hà Nội ) vào lúc 9 h 30 phút sáng 15/6.

Đến 4 giờ chiều, qua hơn 300 km, lên xuống nhiều chặng xe, tôi mới về đến Nghĩa trang làng. Giữa một chiều hè nắng nóng, bà con họ hàng làng xóm đưa tiễn chị về nơi an nghỉ cuối cùng. Tôi chạy nhanh vào chỉ kịp cùng bà con xúc những nhát xẻng đất cuối cùng phủ lên quan tài chị. 

Khi đậy tấm xong tấm thiên lên mộ chị, tôi đứng thắp hương cùng cháu Nguyễn Đình Tăng, con trai chị. Tôi rưng rưng nước mắt, nghẹn ngào: “ Chị ơi, em về đây kính viếng Chị. Thế là từ nay mỗi lần về quê, em không còn gặp chị nữa. Xin vĩnh biệt Chị - người em tôn kính trọn đời - Em cầu mong hương hồn Chị được sớm siêu thoát, thanh thản về miền cực lạc, phù hộ độ trì cho các cháu và bà con họ hàng ... “.

Chị Hoàng Thị Truyền sinh năm 1933, tại làng Long Trảo ( xã Nghi Khánh, huyện Nghi Lộc, NA ). Chị hơn tôi 15 tuổi. Chị về làm dâu bác Nguyễn Văn Đờn từ khi tôi còn bé. 
Hai nhà ở sát bên nhau, lại là bà con nội tộc - bác Đờn là anh em con chú bác ruột của Cha tôi - nên ngay từ thời đó cho đến tận bây giờ chị luôn dành tình cảm cho chúng tôi. Tôi kính trọng, quý mến chị. 
Chị là người đẹp nết, đẹp người. Xưa nay tôi vẫn nói với mọi người rằng: “ Chị Truyền là người con dâu đẹp nhất của chi họ chúng ta “.
Chị đảm đang việc nhà, việc họ. Anh Thuần chồng chị mất cách đây đã 30 năm. Một mình chị tần tảo nuôi dạy 5 con ăn học. Con cái dâu rể của chị đều thành đạt. Các cháu nội ngoại ngoan, học giỏi. Mọi việc trong họ chúng tôi ( phái, đại chi, đại tôn ) chị đều tham gia nhiệt tình. 

Mỗi lần chúng tôi về quê, trước ngày ra đi bao giờ cũng vậy, chị đều có quà cho các cháu. Khi thì vài chục quả trứng gà, khi thì mấy cân đậu, lạc. Giá trị các món quà đó không lớn, nhưng là thành quả lao động của chị. Và hơn thế, đó là biểu thị tấm lòng thơm thảo, tình cảm chân thành mà chị đã dành cho chúng tôi. 
Phần nhiều các lần ra với con ở Hà Nội, chị đều tranh thủ đến thăm gia đình chúng tôi, bất kể đường xa.

Xin vĩnh biệt Chị Truyền ! 
Xin chia buồn cùng các cháu.

PHÁT BIỂU TẠI CUỘC GẶP MẶT NHÂN
KỶ NIỆM  65 NĂM THÀNH LẬP XÃ NGHI HỢP
                        Ngày 16/6/2019
                      ----------------------

Kính thưa : - Các vị lãnh đạo huyện Nghi Lộc và đại diện các ban ngành!
                   -  Các vị lãnh đạo xã Nghi Hợp !      
Kính thưa :    Các vị đại biểu !
Kính thưa  :    Các cụ, các ông, các bà cùng toàn thể bà con !

Xin tự giới thiệu, tôi là Nguyễn Mạnh Đẩu, con dân xã Nghi Hợp. 55 năm trước, năm 1964, tròn 16 tuổi, từ quê hương tôi tòng quân lên đường vào chiến trường chiến đấu, rồi tiếp tục công tác trong Quân đội ròng rã 45 năm, nay nghỉ hưu đã chẵn 10 năm.
Trước hết, xin thay mặt những người con xa quê, từ nhiều vùng miền đất nước được mời về dự Gặp Mặt 65 năm Ngày thành lập xã nhà, chúng tôi xin bày tỏ sự vui mừng phấn khởi; Xin kính chúc các vị lãnh đạo, các vị đại biểu cùng toàn thể bà con ta mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt; Chúc cuộc Gặp Mặt thành công tốt đẹp !
Kính thưa : Các vị lãnh đạo, các vị đại biểu, cùng toàn thể bà con !
Chúng tôi biểu thị sự nhất trí cao với Diễn văn do ông Nguyễn Mạnh Hà, Phó Bí thư ĐỦ, Chủ tịch UBND xã vừa trình bày. Qua đây, chúng tôi càng hiểu thêm về truyền thống của xã nhà trong suốt chiều dài lịch sử - Trong đó tập trung vào quãng thời gian 65 năm danh xưng Nghi Hợp ( 1954 - 2019 ). Nghi Hợp, một xã đất không rộng, người không đông, kinh tế lại thuần nông, nhưng có truyền thống tốt đẹp suốt mấy chục năm qua - cả trong thời bình và trong thời chiến.
Chúng tôi bày tỏ sự phấn khởi trước những thành tích đạt được về kinh tế - xã hội trong thời gian qua của xã nhà chúng ta.
Được về dự Gặp Mặt hôm nay, chúng tôi, những người con của quê hương đang sinh sống, công tác, học tập ở các vùng miền khác nhau đều có chung một tâm trạng, một niềm cảm xúc. Đó là :
-            Chúng tôi vinh dự, tự hào được sinh ra từ quê hương Nghi Hợp - một vùng “ địa linh nhân kiệt “. Đây là quê hương của Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí, người anh hùng dân tộc, Danh tướng, Danh thần được hậu thế tôn vinh là “ người hai lần khai quốc”. Xã ta trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Nhà nước tuyên dương là Đơn vị Anh hùng LLVT
-            Chúng tôi trở về với cội nguồn quê Cha đất Tổ, chốn chôn rau, cắt rốn, là vườn ươm đầu đời, nơi in dấu biết bao kỷ niệm đẹp đẽ, trong trẻo, vô tư, hồn nhiên thuở thiếu thời, nơi đầu tiên cắp sách tới trường, chập chững nâng niu từng con chữ.
-            Quê hương là cội nguồn sức mạnh tinh thần, là giá đỡ tình cảm, là nơi neo giữ hồn cốt của mỗi con người xa quê trên mọi nẻo phương trời.
Từ mảnh đất này, trong suốt mấy cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chống quân bành trướng xâm lược và làm Nghĩa vụ quốc tế cao cả, nghe theo tiếng gọi của non sông, được sự động viên của lãnh đạo và bà con quê hương, với ý chí kiên cường bất khuất, 716 người Nghi Hợp đã lên đường tòng quân giết giặc. Và hàng trăm người xung phong đi dân công hỏa tuyến, gia nhập lực lượng TNXP trên các nẻo đường chiến trận.
Phát huy truyền thống quê hương, mọi người ra đi đã cống hiến tuổi xuân, vượt qua muôn vàn gian khổ ác liệt, lập nên những chiến công to lớn. Trong đó, tiêu biểu nhất phải kể đến là Trung tá, AHLLVT, Liệt sỹ Lê Văn Lẫm và Trung tá, Liệt sỹ Trần Minh Dần, …
Trong các cuộc chiến tranh sinh tử, lâu dài, quyết liệt, xã chúng ta có 120 Liệt sỹ anh dũng hy sinh và hàng trăm người bỏ lại một phần xương máu trên các chiến trường. Chúng ta mãi mãi tri ân những người con trung hiếu của quê hương, của Đất nước.
Cùng với các thế hệ lên đường chiến đấu & phục vụ chiến trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, từ mảnh đất này rất nhiều người thuộc nhiều thế hệ nối tiếp nhau đã ra đi học tập, công tác, góp phần rất xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của Đất nước. Trong số đó, có người trở thành Giáo sư, Phó Giáo sư và rất nhiều người trở thành Tiến sỹ, Kỹ sư, Bác sỹ, Giáo viên, Nhà quản lý, Công nhân viên chức và các doanh nhân … trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhìn chung lại, dẫu ở đâu, làm gì, với mức độ khác nhau, mọi người đều có sự thành đạt nhất định trong cuộc sống và trong sự nghiệp.
Xa quê, mỗi người một hoàn cảnh, một phận số cuộc đời, nhưng đều có một tâm thế chung là luôn luôn phát huy truyền thống của quê hương : chịu thương, chịu khó, dũng cảm, cần cù, hiếu học, đoàn kết trên từng phương diện. Dù sinh sống ở bất cứ nơi nào, quê hương mãi mãi in dấu trong trái tim của mỗi con người đi xa.
    Kính thưa :
Chúng ta đều biết rằng: Sinh ra ở đời, mọi người đều có thể lựa chọn cho mình nhiều điều theo phạm vi điều kiện, khả năng cho phép. Nhưng, có hai điều là do số phận định đoạt - không ai lựa chọn được - đó là: Quê hương và Cha Mẹ. Đó là cội nguồn mà mọi người đều không thể chê trách bất cứ điều gì.
Đúng như câu hát “ Quê hương mỗi người chỉ một / Như là chỉ một mẹ thôi / Quê hương nếu ai không nhớ / Sẽ không lớn nổi thành người “ của Nhà thơ Đỗ Trung Quân và Nhạc sỹ Giáp Văn Thạch.
Có một điều tất yếu là : Yêu Tổ quốc bắt nguồn từ tình yêu quê hương. Yêu Dân tộc khởi thủy từ tình yêu dòng tộc, họ hàng, làng xóm.
Trong mạch cảm xúc này, tôi xin đọc bài thơ ngắn của tôi như sau:

        Bài LẠI VỀ QUÊ

Con lại về quê nơi cắt rốn chôn rau
Tưởng nhớ mẹ cha một thời đạm bạc
Nuôi con lớn bằng củ khoai, hạt thóc
Cõng mồ hôi qua mưa nắng tháng ngày

Ngõ xóm đường thôn bao ký ức đong đầy
In dấu chân con từ những ngày thơ ấu
Những cánh đồng đã qua mùa gặt hái
Hơi ấm quê nhà theo con đi muôn phương

Con xa quê suốt mấy chục năm trường
Từng thả gót bao nẻo đường thiên lý
Muôn dặm con đi có nơi nào hơn thế
Đây quê hương, hồn cốt của đời con !

Cuối cùng, một lần nữa, xin được thay mặt những người xa quê về dự Gặp Mặt, chúng tôi xin kính chúc các đồng chí lãnh đạo, các vị đại biểu cùng toàn thể bà con mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Xin kính chúc Đảng bộ và Nhân dân xã nhà tiếp tục phát huy truyền thống, lập được nhiều kết quả về kinh tế - xã hội, đời sống của Nhân dân không ngừng được cải thiện, bộ mặt quê hương ta ngày càng khang trang hơn, đẹp đẽ hơn.
Tới đây, theo chủ trương và quyết định của cấp có thẩm quyền, xã chúng ta có thể sáp nhập vào xã khác, thì chúng tôi vẫn một lời chúc như thế.
Dẫu sáp nhập vào đâu, với tên gọi như thế nào, nhưng quê hương Nghi Hợp vẫn mãi mãi khắc ghi trong tâm trí và tình cảm của chúng tôi.
Xin trân trọng cám ơn !
   



Thứ Hai, 6 tháng 5, 2019


Bài đăng Báo QĐND 24/4/2019 - 
Sau khi Đại tướng Lê Đức Anh từ trần
------------------------------------------

ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH VỚI CÔNG TÁC CHÍNH SÁCH
                                                        
                                                            N M Đ

Năm 1983 -1984, tôi được giao nhiệm vụ cùng anh Phạm Lam, anh Nguyễn Bá Chước làm Tổ đại diện Cục Chính sách TCCT thuộc Cơ quan Chính trị Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia ( BTL 719 ). Thời kỳ đó, đồng chí Lê Đức Anh vừa là Tư lệnh BTL Quân Tình nguyện, vừa là người lãnh đạo chỉ huy cao nhất vể tất cả các mặt chuyên gia giúp Bạn. Riêng về công tác chính sách, chúng tôi luôn nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo của ông trên cả hai mặt: Một là, Nghiên cứu đề nghị ban hành chính sách sát đúng đối với cán bộ, chiến sỹ Quân Tình nguyện và Chuyên gia quân sự. Hai là, Chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra việc tổ chức thực hiện kịp thời, đầy đủ, chu đáo các chính sách đã ban hành - đặc biệt là chính sách đối với thương binh liệt sỹ trong chiến đấu.
Từ năm 1992 đến năm 2000, khi tôi được giao làm Cục trưởng Cục Chính sách TCCT, thì Đại tướng Lê Đức Anh đã là Chủ tịch nước. Với tinh cảm sâu nặng và trách nhiệm của mình, ông thường xuyên quan tâm đến công tác chính sách. Nhiều lần, ông cho Thư ký gọi tôi đến báo cáo tình hình công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội. Và cũng có khi ông yêu cầu tôi báo cáo về một chuyên đề hoặc một trường hợp chính sách cụ thể.
Trong các lần được tiếp kiến với ông, tôi luôn nhận được những lời chỉ đạo sâu sắc, tâm huyết, chỉ ra những vấn đề cần quan tâm trong công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội. Ông thường nêu lên những câu hỏi:
+ Đời sống bộ đội ở biên giới, hải đảo thế nào, có chế độ gì động viên anh em yên tâm làm nhiệm vụ nơi xa xôi, đầu sóng ngọn gió?
+ Quân nhân mất tin, mất tích trong chiến tranh chống Mỹ đã xác minh kết luận xong chưa? Gia đình anh em đã được hưởng quyền lợi chính sách chưa?
+ Mộ liệt sĩ ở địa bàn rừng núi và ở Lào, Cămpuchia còn nhiều không, đến bao giờ thì đưa hết anh em về nước? những khó khăn, trở ngại trong việc triển khai?
+ Đời sống các gia đình chính sách? Phong trào chấp hành chính sách hậu phương quân đội ở các địa phương có nét gì mới, nhất là trong cơ chế kinh tế thị trường? 
+ Những cán bộ được quân đội cấp đất làm nhà, chuyển vợ con đến sinh sống, làm việc ở các địa phương, nhất là ở các thành phố, các khu công nghiệp, đã được đăng ký hộ khẩu chưa? Việc học hành của các cháu có ổn không?
+ Những người có thành tích trong chiến đấu, nhất là những cán bộ lăn lộn qua mấy chục năm trên các chiến trường trong chiến tranh, đã được khen thưởng thỏa đáng chưa?
+ Trước các hiện tượng tiêu cực xã hội, cán bộ chính sách các cấp có giữ được sự tận tụy, nghĩa tình, công bằng và thanh liêm không?
.v.v..
Tôi biết rằng, các câu hỏi đó là những điều trăn trở thường trực trong suy tư, tình cảm của ông - người dành cả cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú, sôi động trên nhiều trọng trách.
-  Năm 1994, dưới sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị, Cục Chính sách đã nghiên cứu khảo sát, xây dựng nội dung chính sách báo cáo lên cấp trên; Theo tờ trình của Đảng ủy Quân sự Trung ương - Bộ Quốc phòng, Ban Bí thư đã họp xem xét quyết nghị và ngày 29 tháng 8 năm 1994 Ủy ban Thường vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Tiếp đó, ngày 10 tháng 9 năm 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “ Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” để tặng hoặc truy tặng những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo về Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Danh hiệu cao quí “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” là góp phần tôn vinh những giá trị thiêng liêng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Suy tôn, tri ân những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng là biểu thị lòng thủy chung, sự biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những Bà mẹ đã có những hy sinh thầm lặng, cao cả, đã cống hiến cho Tổ quốc những người con ưu tú. Ngay sau khi Nhà nước ban hành Pháp lệnh, các địa phương, các ngành trong cả nước đã trân trọng đón nhận và kịp thời triển khai tổ chức thực hiện.
Ngày 17 tháng 12 năm 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” đợt 1 cho 19.879 bà mẹ thuộc các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và Ngày Hội quốc phòng toàn dân, ngày 19 tháng 12 năm 1994, Đảng, Nhà nước tổ chức trọng thể Lễ tuyên dương danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng lần thứ nhất tại Phủ Chủ tịch. 59 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tiêu biểu của mọi miền đất nước, đại diện cho gần 2 vạn Bà mẹ được phong tặng đã được mời về dự.
Lễ đón các mẹ được tổ chức trọng thể, theo nghi thức Nhà nước tại Phủ Chủ tịch. Chủ tịch nước Lê Đức Anh ra tận xe mời các mẹ bước lên thảm đỏ duyệt Đội Danh dự Quân đội nhân dân Việt Nam, cùng các đồng chí lãnh đạo hướng dẫn các mẹ lên Phòng Đại lễ của Phủ Chủ tịch.
Sau khi Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước long trọng đọc quyết định phong tặng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Lê Đức Anh đã đọc lời tuyên dương công trạng lớn lao của Phụ nữ Việt Nam, của các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng mà công lao gắn liền với những trang sử vẻ vang của dân tộc, được nhân dân đời đời ghi nhớ. Hình ảnh diễn ra tại Phủ Chủ tịch ngày hôm đó thật cảm động. Đây là biểu tượng cao quí, đẹp đẽ, hiếm có của sự hy sinh và lòng thủy chung nhân nghĩa.

-  Ngày 26/02/1997, Lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày Truyền thống Ngành chính sách quân đội ( 26/02/1947 - 26/02/1997 ) được tổ chức long trọng tại Hà Nội. Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã gửi thư chúc mừng Ngành chính sách .
 Bức thư có đoạn : “ Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Bác Hồ kính yêu, được sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy Quân sự Trung ương va Bộ Quốc phòng, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp cả dân tộc Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, 50 năm  qua, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Ngành Chính sách quân đội đã đoàn kết chặt chẽ, tận tụy công tác, chủ động sáng tạo vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Cùng với toàn dân, toàn quân, các cấp, các ngành tích cực thực hiện các chủ trương chính sách cả Đảng và Nhà nước đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và chính sách hậu phương quân đội, góp phần tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang.
Nhân dịp này, thay mặt Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương, khen ngợi những công lao, thành tích của Ngành Chính sách quân đội trong 50 năm qua. Mong các đồng chí tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam, ra sức xây dựng Ngành chính sách quân đội vững mạnh góp phần xây dựng quân đội ta chính qui, tinh nhuệ, tùng bước hiện đại, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII”.
Thư của Chủ tịch nước Lê Đức Anh vừa là sự ghi nhận đánh giá thành tích của Ngành Chính sách đối với sự nghiệp cách mạng trong 50 năm qua; Đồng thời, qua đó xác định yêu cầu, nhiệm vụ công tác chính sách trong thời gian tới.
Đến nay, dù đã qua hơn 20 năm, nhưng theo tôi, những nội dung đó vẫn còn nguyên giá trị chỉ đạo.


Với trọng trách của mình, Đại tướng Lê Đức Anh là người luôn luôn quan tâm sâu sắc đến công tác chính sách đối với quân đội và hâu phương quân đội. Theo ông, chính sách là một mặt công tác quan trọng kết hợp chặt chẽ với công tác tổ chức và công tác tư tưởng, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của quân đội ta ./.