Menu ngang

Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN - 
MỘT CHẶNG ĐỜI QUÂN NGŨ
                                                                           N M Đ


Ngày 6 - 10 - 2000, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định điều động tôi từ Cục trưởng Cục Chính sách TCCT về giữ chức Phó Hiệu trưởng về Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1 ( khi có NQ 51/ BCT, đổi thành Chỉnh ủy) thay anh Bạch Quang Triệu chuẩn bị nghỉ hưu theo chế độ.

Anh Phạm Văn Trà, Bộ trưởng và anh Phạm Thanh Ngân, Chủ nhiệm TCCT đã gặp tôi giao nhiệm vụ, dặn dò một số điểm cần chú ý khi về công tác ở Trường. Các anh đều nói với tôi rằng: Trường Sĩ quan Lục quân 1 là trường có truyền thống vào bậc nhất trong hệ thống nhà trường quân đội; là trung tâm lớn đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, bậc đại học. Có thể ví đây là cỗ máy cái. Từ những cán bộ do Trường đào tạo sẽ từng bước trưởng thành lên cán bộ lãnh đạo chỉ huy - tham mưu các cấp trong quân đội. Điều đó đặt ra yêu cầu rất lớn đối với người cán bộ chủ trì Công tác đảng, Công tác chính trị. Cần phải nỗ lực phấn đấu không ngừng về mọi mặt để cùng với Hiệu trưởng và tập thể Đảng ủy đoàn kết lãnh đạo Nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tôi chân thành cám ơn các anh, hứa quyết tâm, đồng thời đề nghị các anh quan tâm theo dõi giúp đỡ.

Những ngày đầu mới về Trường, tôi dành thời gian tập trung nghiên cứu chức năng nhiệm vụ, tổ chức biên chế, cơ chế hoạt động của Nhà trường, nắm tình hình của các cơ quan, khoa giáo viên, đơn vị trong trường, đi thăm chỗ ăn ở các đơn vị, các giảng đường, thao trường, bãi tập và sau đó là đi thăm cấp ủy, chính quyền các địa phương nơi đóng quân.

Để kịp thời nâng cao kiến thức giáo dục- đào tạo, tôi tìm đọc một số tài liệu, giáo trình của Nhà trường. Chương trình, nội dung giáo dục đào tạo sĩ quan chỉ huy-tham mưu cấp phân đội bao gồm nhiều môn học. Môn học nào cũng quan trọng. Thời gian mới về Trường, tôi tập trung đi sâu nghiên cứu giáo trình Công tác đảng, Công tác chính trị và giáo trình Chiến thuật.

Trên cơ sở vốn liếng về trình độ năng lực tích lũy qua học tập ở các học viện và thực tế công tác trong nhiều năm, cộng với kiến thức, kinh nghiệm trong thực tiễn chiến đấu nhiều năm ở chiến trường thời đánh Mỹ và lần này nghiên cứu giáo trình Công tác đảng, Công tác chính trị ở Trường đã giúp tôi hệ thống lại một cách cơ bản, hệ thống, đồng bộ cả về lý luận và thực tiễn Công tác đảng, công tác chính trị.

Chiến thuật nói nôm na là các cách đánh. Chiến thuật là nền tảng cơ sở, là bộ phận hợp thành nghệ thuật quân sự, gồm lý luận và thực tiễn về chuẩn bị và thực hành các trận chiến đấu của đơn vị cơ sở. Có thể nói, chiến thuật là “đặc sản” trong giáo dục đào tạo ở Trường Sĩ quan Lục quân 1. Tôi đã dành thời gian nghiên cứu các loại tài liệu giáo trình về chiến thuật để nắm được nguyên tắc lý luận của các loại hình chiến thuật. Cùng với nghiên cứu môn chiến thuật, tôi còn ôn lại việc sử dụng một số vũ khí trong biên chế.

Tôi cũng dành thời gian nghiên cứu các các môn học khác - dĩ nhiên là không có điều kiện đi sâu vào từng chi tiết - mà nắm và hiểu được phần rường cột nhất. Tôi ý thức rằng: Cán bộ chủ trì về chính trị phải nắm vững các mặt hoạt động Công tác đảng, Công tác chính trị - đó là yêu cầu bắt buộc. Đồng thời, phải nghiên cứu để nắm được công tác chuyên môn, nhất là những lĩnh vực chuyên môn chính yếu có tác động trực tiếp đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị.
Qua nghiên cứu tìm hiểu, tôi nhận thấy, Trường Sĩ quan Lục quân 1 có một đội ngũ cán bộ tốt ở tất cả các cơ quan, khoa giáo viên và đơn vị quản lý học viên. Đó đều là những cán bộ được lựa chọn qua nhiều thời kỳ, có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục - đào tạo, có phẩm chất, năng lực tốt, đặc biệt là có bề dày kinh nghiệm nhiều năm ở Nhà trường trên từng cương vị.
Đội ngũ giáo viên của Trường được hình thành nhiều lớp lứa. Họ là những người miệng nói tay làm, luôn mô phạm đối với học viên. Trong điều kiện khó khăn, nhất là những giáo viên các khoa quân sự, giữa thao trường nắng chói chang hay những đêm mưa gió hành quân vượt sông, leo núi, xuyên rừng trong các cuộc diễn tập tổng hợp, luôn đem hết nhiệt tình trách nhiệm đối với nhiệm vụ. Cán bộ lãnh đạo chỉ huy các hệ, các tiểu đoàn quản lý học viên cũng đều vậy. Với yêu cầu nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của một nhà trường chính qui, mẫu mực, mọi cán bộ, giáo viên luôn luôn có tính tổ chức, tính kỷ luật nghiêm minh. Đây là truyền thống của Nhà trường. Có lẽ xuất phát từ sự rèn luyện chính qui chặt chẽ nghiêm minh mà trong bao năm nhiều thế hệ đã gọi trệch đi bằng một tên dân dã đáng quí là “Trường Luộc quân”.
Trên cương vị của mình, cùng với việc nghiên cứu tài liệu và giải quyết công việc theo chức trách, tôi đã dành nhiều thời gian đi kiểm tra dạy học ở giảng đường và huấn huyện trên thao trường bãi tập. Tôi còn nhớ, lần diễn tập tổng hợp cuối khóa của Khóa 66, tiến hành vào cuối tháng 11 năm 2003. Sau một vòng hành quân hơn mười ngày, vượt sông, leo núi, xuyên rừng với chặng đường khoảng hơn 200 km, tình huống cuối cùng là tổ chức một trận chiến đấu có hợp đồng binh chủng ( bắn đạn thật ) : Một đại đội bộ binh có xe tăng, pháo binh yểm trợ, tấn công tiêu diệt quân địch phòng ngự trong công sự vững chắc, có ba lớp rào kẽm gai ở Cao điểm 61A, 61B- Đồng Doi. Dự kiến là 5 giờ sáng nổ súng. Lúc 4 giờ 15 phút, Thủ trưởng Nhà trường và các phòng, khoa trong Ban Chỉ đạo diễn tập đã ngồi vào Đài quan sát để theo dõi kiểm tra. Lúc này các đơn vị đã vào vị trí xuất phát xung phong; mấy giá mìn đinh hướng đã đặt ở trước hàng rào để phá cửa mở, mỗi giá cài đặt từ 3 đến 5 quả mìn định hướng loại lớn (ĐH35) chuẩn bị bấm điện để xe tăng và bộ binh vượt qua; cối 82 ly, ĐKZ 75 ly đã lấy xong phân tử xạ kích, chuẩn bị bắn. Để cuộc diễn tập sát với thực tế chiến đấu, hơn nữa để bảo đảm an toàn tuyệt đối, tôi đề nghị anh Nguyễn Hữu Hạ - Hiệu trưởng cho kiểm tra lại toàn bộ trước khi bắt đầu nổ súng. Tôi trực tiếp vào tận hàng rào xem lại các giá mìn định hướng xem đặt có đúng hướng không; đồng thời kiểm tra lại các lực lượng tham gia diễn tập...
 Sau một vòng kiểm tra, tôi phát hiện một số điểm không đúng với yêu cầu chiến thuật và không sát với thực tế chiến đấu: 
Một là, bộ binh vào triển khai công sự ở vị trí xuất phát tiến công cách vị trí tiền tiêu của địch quá gần. Điều này không cho phép vì đưa bộ đội vào quá gần địch khi chưa nổ súng thì rất dễ bị lộ và khi pháo binh cấp trên cùng hỏa lực của đơn vị bắn chuẩn bị thì độ tản mát của đạn sẽ rơi vào đội hình ta, gây thương vong khi chưa chiến đấu.
 Hai là, việc bố trí cối 82 ly và ĐKZ 75 ly quá sát nhau, trái với yêu cầu chiến thuật là: hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung. Sau khi nghe tôi trình bày, anh Hạ thống nhất và lệnh cho bộ binh lùi ra cách trận địa địch khoảng 200m; trận địa cối 82 ly và ĐKZ 75 ly phải bố trí lại. 
Một giờ sau, khi điều chỉnh xong đội hình, cuộc diễn tập bắt đầu nổ súng.
Nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam-Ngày Hội quốc phòng toàn dân; thể theo nguyện vọng của cán bộ, giáo viên, học viên, công nhân viên và chiến sĩ toàn trường, ngày 19-12-2002, Đoàn cán bộ nhà trường về Thủ đô Hà Nội thăm và chúc mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong không khí vui mừng, xúc động và đầm ấm, thay mặt Đảng ủy- Ban Giám hiệu Nhà trường, tôi đã phát biểu bày tỏ sự vui mừng phấn khởi của cán bộ nhà trường được đến thăm, chúc mừng Đại tướng; đồng thời báo cáo tóm tắt với Đại tướng về thành tích của Trường trong những năm qua; bày tỏ lòng biết ơn đối với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội đối với quá trình xây dựng và trưởng thành của Trường Sĩ quan Lục quân 1; kính chúc Đại tướng luôn mạnh khỏe, trường thọ, tiếp tục đóng góp trí tuệ cho đất nước, cho quân đội. Kết thúc phần báo cáo, thay mặt Nhà trường, tôi đã kính tặng Đại tướng bức ảnh Bác Hồ trao lá cờ thêu sáu chữ vàng “ Trung với nước, hiếu với dân” cho học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn nhân ngày khai giảng Khóa 1- tháng 5 năm 1946 và lẵng hoa tươi thắm. Đại tướng đã dành thời gian ân cần nói chuyện thân mật với đoàn cán bộ nhà trường. Đại tướng căn dặn: “ Trường Sĩ quan Lục quân 1 là nhà trường đầu tiên của quân đội ta. Trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục-đào tạo cán bộ càng phải chú trọng và nâng cao, đặc biệt là giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng lập trường cách mạng lên hàng đầu, để học viên tốt nghiệp ra trường đủ sức lãnh đạo,chỉ huy đơn vị cơ sở và sẵn sàng chiến đấu cao. Trong huấn luyện, nhà trường phải coi trọng huấn luyện sát thực tế chiến đấu và xây dựng đợn vị, nhất là huấn luyện phai tiếp cận với sự phát triển của khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới. Sĩ quan ra trường phải biết sử dụng vi tính, có kiến thức khoa học công nghệ, khoa học quân sự, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao”. Chúng tôi vô cùng cảm kích về những lời dạy bảo ân tình của Đại tướng. Đây là kỷ niệm sâu sắc với những ấn tượng không thể nào quên của cán bộ Trường sĩ quan Lục quân 1.
Nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 50 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 3 năm 2004, Nhà trường tổ chức Đoàn cán bộ, giáo viên lên thăm Điên Biên Phủ. Đoàn xuất phát ở Trường từ 5 giờ sáng ngày 25 tháng 4 theo đường Sơn Tây qua Sơn La lên Điện Biên Phủ. Tối hôm đó cả Đoàn ngủ ở doanh trại của Tiểu đoàn 1 của Tỉnh đội Điện Biên. Tiết xuân trời se lạnh, tôi bồi hồi xúc động khi được trở lại mảnh đất lịch sử mà chẵn 50 năm trước đây cha tôi đã cùng đồng đội - những người chiến binh bình dị - đã vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh để làm nên chiến thắng huy hoàng, tỏa sáng đến muôn đời sau. Trong niềm cảm xúc dâng trào, đêm khuya, tôi đã viết liền một mạch bài thơ VỀ ĐIỆN BIÊN. Mong đến lúc trời rạng sáng, tôi phấn chấn sang phòng bên đọc cho anh Bạch Quang Triệu và anh Nguyễn Đình Chức cùng nghe. Sau đó, lúc 8 giờ sáng khi Đoàn vào viếng Nghĩa trang Liệt sĩ Đồi A1, tôi đã rưng rưng nước mắt xúc động đọc bài thơ này trước hàng quân.

VỀ ĐIỆN BIÊN


(Kính tặng Cha và các đồng đội của Cha)
Con về thăm Điện Biên
Chiến tích anh hùng
Tỏa sáng ngàn năm bất hủ
Những chiến binh băng mình trong máu lửa
Đã tạc ghi lịch sử một trang vàng.
Con vào thăm Chỉ huy sở Mường Phăng
Nơi Đại tướng cùng Bộ Tham mưu Chiến dịch
Ôi! trí tuệ tuyệt vời, quyết tâm bằng thép
Vạch trúng con đường xuyên thẳng tới trung tâm.
Con vào thăm A1, Hồng Cúm, Him Lam
Những chiến công vô cùng oanh liệt
Giành giật đêm ngày máu thấm từng thước đất
Có chiến công nào chẳng đổi những hy sinh!
Con đã về đây từ dốc ấy, Pha Đin
Nhớ thuở ông cha bàn chân trần khứa máu
Từ muôn ngả non sông về đây hội tụ
Vực thẳm đèo cao in dấu những đoàn quân…
Chúng con về đây xin dâng nén hương thơm
Kính cẩn tâm linh những hàng bia thẳng lối
Di tích trầm hùng chất chứa điều nhắn gửi
Từ Điện Biên rọi sáng tới tương lai!
Đêm ấy từ Điện Biên, tôi đã đọc bài thơ qua điện thoại di động cho một người bạn thân thiết ở Hà Nội để chuyển đến đăng trên Báo Quân đội nhân dân, Tạp chí Văn nghệ quân đội. Và trên nền bài thơ, Đội văn nghệ Nhà trường đã dàn dựng thành công vở hoạt kịch, đoạt giải xuất sắc trong Hội diễn văn nghệ quần chúng toàn quân năm 2004.

Trước yêu cầu “An cư, Lạc nghiệp”, để đảm bảo chính sách, góp phần động viên cán bộ, giáo viên yên tâm công tác, trong thời kỳ này, Thường vụ Đảng ủy- Ban Giám hiệu đã có nhiều biện pháp tích cực trong việc giải quyết đất ở, nhà ở cho gia đình sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp. Lãnh đạo chỉ huy Nhà trường đã giao cho các cơ quan: Chính trị, Tác chiến, Hậu cần quan hệ chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng trong việc tạo điều kiện hợp thức hóa, khai thác quĩ đất. Việc cấp đất ở, nhà ở của Nhà trường được tiến hành đúng luật, đúng chính sách, theo phương châm: “Dân chủ, Công khai, Công bằng” đảm bảo tinh thần đoàn kết, phấn khởi. Đây là một chủ trương hợp pháp, hợp lý, hợp tình, đem lại quyền lợi thiết thực cho hàng mấy trăm gia đình cán bộ, không chỉ trước mắt mà còn lâu dài.

Quốc công Tiết chế - Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn là danh tướng kiệt xuất bậc nhất trong lịch sử vẻ vang chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Trường Sĩ quan Lục quân đã được mang tên là Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Đây là niềm vinh dự tự hào của lớp lớp cán bộ, giáo viên, học viên, công nhân viên, chiến sĩ Nhà trường. Thể theo nguyện vọng của nhiều thế hệ, được sự đồng ý của trên, tiếp theo kết quả chuẩn bị từ nhiều năm trước, tôi cùng anh Nguyễn Hữu Hạ, Hiệu trưởng thống nhất với các anh trong Ban Giám hiệu Nhà trường hạ quyết tâm xây dựng xong Tượng đài Trần Quốc Tuấn trong năm 2004 để chào mừng 60 năm Ngày thành lập Quân đội (ngày 22 tháng 12 năm 2004) và 60 năm Ngày thành Trường ( ngày 15 tháng 4 năm 2005). Trước khi phê duyệt, mẫu tượng đài được chuẩn bị thiết kế công phu, thảo luận nhiều lần, xin ý kiến tham gia tư vấn của các nhà điêu khắc, mỹ học và các nhà sử học. Khi san lát xong phần nền, xây xong phần chân đế và các bức phù điêu phía sau, tôi cùng anh Nguyễn Tiến Ngùng Phó Hiệu trưởng, anh Nguyễn Văn Soạn Chủ nhiệm Chính trị, anh Doãn Văn Hãn  Chánh Văn phòng và một số anh em vào Ninh Bình đến cơ sở sản xuất để kiểm tra kỹ về chất lượng đá và kỹ thuật, mỹ thuật. Đêm trước ngày khánh thành Tượng đài Trần Quốc Tuấn, chúng tôi đã mời các nhà sư đức cao vọng trọng ở Hà Nội, Sơn Tây đến cúng tế hô thần nhập tượng theo đúng tín ngưỡng tâm linh. Đêm ấy giữa tiết trời mưa bụi se lạnh, trong không khí trang nghiêm, chúng tôi đã kính cẩn tế lễ, dâng những nén hương thơm lên Tượng đài. Ngày khánh thành Tượng đài Trần Quốc Tuấn, Ban Giám hiệu đã mời các đồng chí lãnh đạo chỉ huy Nhà trường qua các thời kỳ, lãnh đạo cấp trên và lãnh đạo địa phương về dự. Với qui mô bề thế, hoành tráng, uy nghiêm, vĩnh cửu, đặt giữa trung tâm Nhà trường, Tượng đài Trần Quốc Tuấn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, lòng tôn kính của mọi thế hệ đối với người Anh hùng dân tộc, nhà quân sự lỗi lạc mà Trường được vinh hạnh mang tên. Dựng Tượng đài Trần Quốc Tuấn còn nhằm tôn vinh truyền thống Nhà trường để mọi cán bộ, giáo viên, học viên tiếp tục phát huy trong mọi thời kỳ.

Trong cuộc sống, nhiều khi một chủ trương đúng đem đến những kết quả thiết thực hữu ích, có khi khởi thủy ban đầu từ những ý tưởng vụt đến như một sự ngẫu nhiên. Nhưng, xét đến tận cùng thì đó là kết quả tất yếu của sự suy tư trăn trở. Công viên Thanh niên ở cổng Trường, Dự án cầu và đường ở Đồng Tâm”, rồi Dự án hồ chứa nước ở Đồng Doi của Trường Sĩ quan Lục quân 1 là vậy:

Có lần, tôi và anh Nguyễn Hữu Hạ đi thao trường về, dưới trời nắng chói chang, nhiều người túm tụm ngồi vật vã, nhếch nhác bên vệ đường hoặc trong mấy quán nhỏ phía ngoài cổng Trường. Hỏi ra mới biết, đó là người nhà của học viên lên thăm. Tôi và anh Hạ trao đổi với nhau cần tạo điều kiện cho học viên đón tiếp gia đình và bạn bè đến thăm một cách đàng hoàng, lịch sự, đồng thời đây còn là bộ mặt của Nhà trường. Chúng tôi bàn với nhau là khoanh hai vạt cây cao khá rộng ở sát bên trong cổng Trường, đầu tư xây dựng có nhà nghỉ mát, có căng tin, quầy giải khát, có chỗ cắt tóc gội đầu, có ghế đá dựng ở các khu vực và lối đi giữa những khóm cây,…Cảnh quan đẹp như một công viên để học viên tiếp người thân lên thăm và để giao lưu với thanh niên địa phương, với học sinh, sinh viên các trường bên ngoài. Chúng tôi đặt tên là Công viên Thanh niên. Từ ngày có Công viên Thanh niên, môi trường văn hóa của Nhà trường được cải thiện một bước. Cán bộ, giáo viên, nhất là học viên rất phấn khởi. Sau giờ nghỉ hàng ngày và chủ yếu là vào ngày nghỉ cuối tuần, Công viên Thanh niên trở thành nơi vui chơi và đón tiếp khách của học viên. Nhìn những cử chỉ văn minh, lịch sự với gương mặt tươi trẻ rạng ngời của học viên bên bạn bè, người thân, chúng tôi thật vui mừng.

Những ngày mới về Trường, khi ra thăm nhà anh Mai Văn Nhuần, anh Lê Viết Anh và một số gia đình cán bộ ở khu tập thể Đồng Tâm (còn gọi là Đồng Lác), nhìn thấy cái cầu sắt đã quá cũ vắt vẻo qua sông, một con đường gồ ghề ổ gà, ổ trâu, lầy lội ngập bùn khi trời mưa và phủ chìm bụi đỏ khi trời nắng, trong không khí oi bức nhiều gia đình không thể mở cửa khi có ô tô chạy qua, tôi cám cảnh và thực sự áy náy. Về Hà Nội, tôi đã đề nghị với anh Hồ Sỹ Hậu, Cục trưởng Cục Kinh tế đề đạt lên Bộ Quốc phòng cấp cho Trường một khoản kinh phí để làm lại cầu và một đoạn đường chừng một cây số. Được cấp trên chuẩn y, sau mấy tháng triển khai, một chiếc cầu bằng sắt kiên cố bắc qua sông Hòa Lạc và đoạn đường trải nhựa phẳng lỳ nối từ Đường 21 ra hết khu gia đình quân nhân Đồng Tâm rất thuận tiện cho việc đi lại, không chỉ đối với cán bộ của Trường mà cả đối với nhân dân trong khu vực.

Một lần, tôi và anh Nguyễn Tiến Ngùng, Phó hiệu trưởng thay mặt Ban Giám hiệu Nhà trường mời lãnh đạo Cục Kinh tế / BQP lên nghiên cứu tư vấn giúp Trường xây dựng đề án tăng gia chăn nuôi tập trung, góp phần cải thiện đời sống bộ đội. Khi đi từ Trường bắn Đồng Doi trở về, mặt trời đã gác núi, men theo một con đường bé, lội qua một con suối nhỏ, ai đó bất chợt nói rằng, con suối này nếu chắn lại, thì phía trên sẽ thành một cái hồ lớn. Tất cả chúng tôi dừng lại xem xét bàn bạc. Nhìn ra xung quanh một con suối nhỏ nằm giữa những vạt ruộng hai bên là triền núi cao. Mọi người đều thống nhất rằng: Nếu làm một cái đập ngăn con suối lại thì chắc chắn sẽ có cái hồ đẹp cả về cảnh quan, môi trường sinh thái, thủy lợi và nuôi cá. Về Trường, chúng tôi giao cho cơ quan triển khai nghiên cứu, mời các chuyên gia tư vấn xây dựng đề án, Ban Giám hiệu thông qua và trình lên Bộ Quốc phòng. Vậy là, được sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng, sau một thời gian không lâu, Nhà trường đã hoàn thành một cái đập bề thế vững chãi, phía trên là một cái hồ đẹp, nước sâu, rộng hơn 20 héc ta, nằm giữa một vùng đồi núi cách Hòa Lạc không xa, chúng tôi thật sự vui mừng.
Ngày 10-1-2005, theo quyết định Thủ tướng Chính phủ, tôi chia tay Trường Sĩ quan Lục quân 1 đi nhận nhiệm vụ mới. Phút chia tay, nhìn lại căn nhà nhỏ tĩnh lặng hơn bốn năm khuya sớm vào ra; nhìn lại những giảng đường, hội trường, thao trường, bãi tập, một thời sôi động gắn bó; đặc biệt là, nhìn lại anh em đồng đội, những gương mặt thân quí đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đồng tâm hiệp lực xây dựng Nhà trường trong mấy năm trời, lòng tôi bồi hồi xúc động. Tôi lưu luyến những kỷ niệm trên mảnh đất này - mảnh đất Xứ Đoài với núi Tản, sông Đà đã để lại ấn tượng đặc biệt sâu sắc trong lòng tôi; lưu luyến những tình cảm chân thành quí mến mà mọi người đã dành cho tôi.
Tôi gửi bài viết này tham gia Cuộc thi sáng tác nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Trường Sĩ quan Lục quân ( 15/4/1945 - 15/4/2015). Khi viết, tôi bồi hồi luyến nhớ về một chặng đời quân ngũ ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 nắng gió thân thương, để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn tôi. Trọn đời tôi không thể nào quên!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét