XỨ NGHỆ TRONG
TÌNH YÊU
BAO LA CỦA BÁC HỒ
Nguyễn Đình Lương
Nguyên Trưởng
đoàn đàm phán Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Lịch sử hiện đại
đã minh định:
Với nhân loại, Chủ
tịch Hồ Chí Minh là "Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt
xuất" (Unesco). Người được nhân dân thế giới kính trọng, tôn vinh, Người
được nhiều dân tộc tôn thờ như một tấm gương, như ngọn cờ xung trận, như người
dẫn đường và thôi thúc họ đứng lên giải phóng cho mình, giành lại độc lập, tự
do và phát triển…
Trong lịch sử thế
giới, ít ai được như Hồ Chủ tịch. Tượng đài của Người đặt ở những nơi trang
trọng trong Thủ đô nhiều nước, tên của Người được đặt cho nhiều công viên, đại
lộ, đường phố, trường học… và hôm nay, thế giới bao đổi thay, Hồ Chủ tịch vẫn
gần gũi, trìu mến, vẫn là nguồn cổ vũ của bao quốc gia, dân tộc.
Tờ báo Times-Hoa
Kỳ, một tờ báo thuộc loại phổ biến rộng rãi nhất thế giới, xếp Bác Hồ là
"người đã góp phần làm thay đổi diện mạo hành tinh chúng ta trong thế kỷ
XX" là "một trong 10 tù nhân chính trị nổi bật, chiến đấu cho tự do,
nổi tiếng nhất mọi thời đại".
Đối với non sông
đất nước ta.
Hồ Chủ tịch là Người
anh hùng dân tộc vĩ đại, Người đã làm rạng rỡ dân tộc ra, nhân dân ta và non
sông đất nước ta. Cuộc đời Hồ Chủ tịch là cuộc đời trong sáng cao đẹp của một
người cộng sản vĩ đại. Người đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời
mình cho Tổ quốc Việt Nam. Người sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
Sẽ không sai nếu
chúng ta nói rằng, trước khi trở thành người Anh hùng dân tộc vĩ đại, người
chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, nhà văn hóa kiệt xuất, Bác Hồ chúng ta đã là một
người con hiếu nghĩa của các bậc sinh thành, của mảnh đất quê hương nghèo khó
mà kiên cường bất khuất.
Người sinh ra trên
mảnh đất địa linh nhân kiệt, hồn thiêng sông núi hợp tụ ở sông Lam, núi Hồng,
đã hun đúc lên Người. Lời ru ngọt ngào thấm đậm tình thương của làn điệu dân ca
ví dặm đã gieo vào tâm hồn Người một tình yêu bao la. Ý chí kiên cường bất
khuất quy tụ ở mảnh đất giàu truyền thống cách mạng đã gieo vào Người một ý
chí, niềm tin…
Những giá trị nhân
văn cội nguồn đó là năng lượng, là hơi ấm không bao giờ nguội tắt, là mạch nước
ngầm không bao giờ cạn, giúp Người bền chí vượt qua bao chặng đường gian lao
tìm cho bằng được con đường giải phóng quê hương đất nước. Tình mẫu tử thiêng liêng
với các bậc sinh thành, tình yêu nồng nàn với quê nghèo nhiều ân nghĩa lúc nào
cũng canh cánh bên lòng. Dù bất cứ ở đâu, làm gì, Bác luôn tìm cách viết thư về
thăm người cha thân yêu đang trong cảnh tha phương, thăm hỏi chị gái, anh trai
đang bị đày ải trong nhà tù đế quốc thực dân gần hết cả cuộc đời. Bác luôn theo
dõi nắm bắt tình hình đất nước, quê hương.
Sau bao năm bôn ba
khắp Á, Âu, Mỹ, Phi, để tìm lý luận cách mạng, năm 1925 Bác về Quảng Châu-Trung
Quốc, gần với Tổ quốc. Việc đầu tiên là Bác thành lập một tổ chức cách mạng
người Việt.
Trên cơ sở tổ chức
Tân Tâm xã của Nhà cách mạng Phan Bội Châu thành lập trước đó, Bác chọn lựa một
"nhóm trung kiên" để thành lập "Thanh niên cách mạng đồng chí
Hội", được coi là tổ chức cách mạng đầu tiên của Việt Nam. Nòng cốt trong
Hội là những người con xứ Nghệ giàu lòng yêu nước như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn,
Lê Hồng Phong, Vương Thúc Oánh, Phùng Chí Kiên, Trương Văn Lĩnh, Trần Văn Cung,…
Sau khi đã có tổ
chức, để chuẩn bị cho cách mạng lâu dài Bác đã gửi một số chiến sĩ về nước xây
dựng phong trào và gửi một số sang Moskva, quê hương Cách mạng tháng 10 để đào
tạo, trong đó có cả những người con xứ Nghệ như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy
Tập, Nguyễn Thị Minh Khai.v.v…
Được Bác và Đảng giáo dục rèn luyện, nhiều người trong số đó đã phấn
đấu, rèn luyện để rồi trở thành những nhà lãnh đạo lỗi lạc của cách mạng Việt
Nam.
Những năm hoạt
động ở Quảng Châu, Bác tin và mạnh dạn cử người đồng hương Lê Thiết Hùng vào
hoạt động trong lực lượng vũ trang của Tưởng Giới Thạch, Bác tin và ủng hộ việc
cụ Hồ Học Lãm tiếp tục làm việc cho quân đội Tưởng để vừa thu thập thông tin
phục vụ cách mạng, vừa làm nơi liên lạc an toàn cho các chiến sĩ cách mạng Việt
Nam. Cụ Hồ Học Lãm, Tướng Lê Thiết Hùng đã không phụ lòng tin của Bác, đã chiến
đấu trọn đời cho cách mạng.
Năm 1927, Bác về
Xiêm hoạt động, ở đây Bác liên kết, phối hợp với Nhà cách mạng Đặng Thúc Hứa,
một người xứ Nghệ, cộng sự của Cụ Phan, xây dựng cơ sở cách mạng trong Việt
kiều. Đã lập hội Việt kiều hướng về tổ quốc quê hương ở Bản Thầu (Trại Cày) và
cả vùng đông bắc Thái Lan. Việt kiểu ở vùng này phần đông là người xứ Nghệ.
Tình đồng bào, tỉnh cảm quê hương đã gắn bà con Việt kiều với Bác. Họ tin tưởng
Bác, bảo vệ Bác, làm theo lời Bác. Ở đây cũng đã thành lập được chi hội Thanh
niên cách mạng đồng chí Hội và sau này khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, chi
bộ Đảng trong Việt kiều cũng được thành lập và hoạt động.
Những chiến sĩ
quốc tế Việt Nam chiến đấu với quân phát xít Đức mùa đông năm 1941 ở cửa ngõ
Moskva là những thanh niên Việt Nam được Bác Hồ chọn cử gửi đi từ Quảng
Châu-Trung Quốc. Ba trong số đó đã anh dũng hy sinh là người cùng quê Kim Liên,
Nam Đàn, đã được Bác đặt lại tên họ theo họ Lý Thụy của Bác lúc bấy giờ là Lý
Anh Tạo, Lý Nam Thành, Lý Thục Chất. Những thanh niên xứ Nghệ này được Bác giáo
dục bồi dưỡng cả tinh thần cách mạng yêu đất nước quê hương, cả tinh thần quốc
tế vô sản, sẵn sàng hy sinh cho quê hương Cách mạng tháng 10. Họ đã được Nhà
nước Liên Xô truy tặng Huân chương chiến tranh vệ quốc.
Khi cách mạng
giành được chính quyền, nước nhà được độc lập, Bác quan tâm và chăm lo việc tập
hợp tất cả những người trí thức có lòng yêu nước, giáo dục đào tạo càng đông
càng tốt đội ngũ cán bộ cách mạng đi bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
May mắn, một số
cán bộ người xứ Nghệ được gần Bác được Bác quan tâm dạy bảo, đã phấn đấu rèn
luyện để rồi trở thành những người lãnh đạo tài đức, những nhà khoa học tài
năng như: Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Chu
Huy Mân, Phan Anh, Tạ Quang Bửu, Trần Văn Quang.v.v… và họ đã thực sự xứng đáng
là học trò của Bác, không phụ lòng tin của Bác.
Sau hơn 50 năm xa
quê, một ngày hè năm 1957, Bác mới có cơ hội về thăm nơi chôn rau, cắt rốn. Về
Vinh, Bác ở nhà khách Tỉnh ủy, giường không đệm, chỉ trải một chiếc chiếu cói,
giản dị, đơn sơ như bao người dân xứ Nghệ sống thời đó. Buổi sáng, Bác thích
bát cháo lòng đặc sản có phong vị riêng của đất thành Vinh, ngon nổi tiếng. Bữa
cơm trưa, cơm chiều. Bác vẫn ưa món rau muống xào hay luộc chấm tương Nam Đàn,
món cá kho có lá gừng và có cả món cà pháo trắng dòn của đất Nghi Lộc.
Về quê Bác vẫn
chiếc áo ka ki đã sờn, đôi dép cao su đã vẹt gót, chiếc khăn mặt đã có chỗ vá
khâu. Cuộc sống một vị Chủ tịch nước, một nguyên thủ quốc gia mà giản dị, gần
gũi, làm ấm lòng người.
Ra đi từ lúc còn
bé, nay trở về Bác vẫn còn nhớ như in: trong vườn chỗ nào là hàng cây râm bụt,
chỗ nào là hàng rào mạn hảo, dãy 5 cây cau trĩu quả đứng ở đâu, vườn khoai lang
dọc theo lối nào. Trong nhà cái bàn thờ bằng tre không có chân, treo bằng dây
mây, nhà ngang 3 gian đứng ở góc nào…
Về Kim Liên, sau
đó về quê ngoại Hoàng Trù, Bác còn nhớ và nhận ra ngay những người bạn thời ấu
thơ, nào là bạn thân nhất là ông Thông hơn Bác khoảng 2 tuổi, thời đó nhà nghèo
nhất làng, nào là ông Điền bạn cùng nhau thổi bễ lò rèn nhà cố Thỉu, nào là ông
Luốc bạn đi hái củi và câu cá, mà có lần lưỡi câu ông Luốc mắc vào tai Bác, làm
rách tai, nay còn vết sẹo. Bác vẫn nhớ như in tình làng nghĩa xóm, tình bạn
tuổi thơ, nhớ mảnh đất quê hương nghèo mà giàu tình nghĩa.
Ra đi, Bác lại ân
cần dặn dò đồng bào, đồng chí, từng việc cụ thể, Bác mong mọi người phải thi
đua, để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Cả dân tộc Việt
Nam tự hào có Bác Hồ !
Người xứ Nghệ có quyền tự hào về Bác !
Để tưởng nhớ Bác,
để không phụ công ơn và tình yêu của Bác đối với Tổ quốc, quê hương, bà con Nghệ
An nguyện gương mẫu, thực hiện tốt hơn nữa Cuộc vận động học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét