Tản văn NGHI LỘC -
CỬA LÒ
MỘT THOÁNG
ĐẤT VÀ NGƯỜI
Phương
Hà
( Hoàng Xuân Sơn)
( Hoàng Xuân Sơn)
Huyện Nghi Lộc quê tôi phía Bắc giáp 2 huyện Yên Thành, Diễn Châu, phía Nam giáp thành phố
Vinh và 2 huyện Hưng Nguyên, Nam Đàn; phía Đông giáp biển, huyện Nghi Xuân (Hà
Tĩnh, phía Tây giáp huyện Đô Lương. Riêng phía Đông-Nam còn giáp với mấy
cây số dòng sông Lam để thành nguồn mực vô tận nên miền chữ nghĩa của bao đời.
Cách nay hơn 600 năm, thời thuộc Minh, có tên là Chân Phúc. Mãi đến thời Tây Sơn đổi thành
Chân Lộc. Đến đời vua Thành Thái (1889 -
1907), lại đổi tên thành Nghi Lộc vì kiêng húy chữ Chân của vua
cha Dục Đức.
Dân vùng này chủ yếu làm nghề nông, vùng ven biển sống bằng nghề đánh
bắt, chế biến hải sản. Đất nước qua bao lần binh đao, loạn lạc, thịnh suy, vùng
đất quê tôi cũng góp vào công cuộc giữ nước và dựng nước với bao văn tài
võ tướng, kiệt liệt, dẫu khiêm tốn cũng rất đỗi tự hào. Cách nay gần 15 năm, Nhà nước chia tách khu vực phía đông nam sát biển của huyện Nghi Lộc để thành lập
Thị xã Cửa Lò nhằm thúc đẩy phát triển nhanh dịch vụ du lịch biển. Vậy là, kẻ
thì bỗng lên phường lên phố, người ở lại vẫn còn lầm lũi là xóm, là làng, Người Nghi Lộc
nói, rứa là “Lộc” thì đi “Nghi” thì ở lại. Song, lớp người sương pha màu tóc
chúng tôi vẫn luôn thủy chung với cách gọi "dân Nghi Lộc-Cửa Lò", với vô
vàn giai thoại để mỗi lần gặp gỡ đồng hương. Mỗi lần nói chuyện với người ngoài xứ Nghệ, chúng tôi đều đưa ra làm qùa như là một món "đặc sản".
Nhà văn Nguyễn Đức Thọ sinh thời biết
tôi là dân Nghi Lộc, bao giờ cũng kể về cô giáo người Nghi Lộc, dạy học ở
một trường tiểu học quận Ba Đình Hà Nội. Cô nói đặc sệt tiếng Nghi Lộc: “ Các
em học sinh thân mến, các em có biết tiếng Việt ta có mấy thanh điệu, và cách
đọc như thế nào không? Giờ cô đọc để các em nghe và đọc theo: Cờ a ca sắc cà,
cơ a ca hỏi cà. Cơ a ca huyền cà, cơ a ca nặng cà, cơ a ca ngã cà. Tóm lại là,
cà nặng cà nhẹ cả. Cô khẳng định các em đọc phải theo cô, vì đây mới là chuẩn
của phát âm tiếng Việt.”
Từ những năm đầu thập niên 60 thế kỷ
trước, nghe nói có đoàn cán bộ giảng dạy và sinh viên ngành Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội đã vào Nghi Lộc để nghiên cứu vì sao Nghi Lộc- một huyện chỉ gần 30 xã mà đã
có trên 100 vùng phát âm khác nhau. Có người cung cấp cứ liệu nói rằng, vào triều
nhà Trần, nhà Lê khi nam chinh mở cõi về phương nam đã đem khá nhiều tù binh Chiêm Thành về quản giáo tại vùng
này. Sau đó, nhiều người xin ở lại lập nghiệp, xây dựng gia đình, sinh con đẻ
cái tại vùng Nghi Lộc. Bởi thế, về mặt ngữ âm đất này đã sớm có điều kiện giao lưu, tiếp biến,
kế thừa nhiều chất giọng. Chứng cứ là hiện nay Nghi Lộc có hàng trăm gia đình
mang họ Chế cùng họ với Chế Bồng Nga vua Chiêm Thành. Từ xưa, người họ Chế ở vùng này coi Nguyễn Xí là "Dưỡng Phụ" tức là bố nuôi. Từ vụ loạn kiêu binh đời
hậu Lê, tại vùng Quốc Oai, Thạch Thất , Ba Vì ngày nay đã có một vùng nói giọng Nghi Lộc
y chang, Nghĩa là cũng đặc sệt “con bò vang” chứ không phải "con bò
vàng" như của chung cả nước. Tìm lại sách cũ, tôi chợt nghĩ đến Cụ tổ cách
tôi 10 đời là Tổng tri công, Trung thành
môn vệ tướng quân Hoàng Khắc Dũng, chỉ huy quân cấm vệ của 3 đời hậu Lê Long
Đức, Vĩnh Hựu, Cảnh Hưng, chắc Cụ đã tuyển chọn nhiều con cháu ở Nghi Lộc làm
quân cấm vệ, nên sau họa kiêu binh họ đã bị đầy lên vùng Thạch Thất, Quốc Oai, Ba Vì, và
lập nên một vùng “Nghi Lộc mới” ở đây. Về sau nhiều người trong số đó đã về
Nghi Lộc - Cửa Lò tìm và nhận họ. Bia đá Cụ tổ tôi do Tiến sỹ Nguyễn Huy Oánh
(thân phụ của Nhà thơ Nguyễn Huy Tự, tác giả Hoa Tiên) khởi thảo, bia ấy vẫn
còn trơ tại nhà thờ họ Hoàng ở phường Nghi Thu, thị xã Cửa Lò.
Trung tướng Lê Nam Phong, quê ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nguyên Sư
đoàn trường quân chủ lực ở Nam Bộ kể rằng: Sau trận càn Gian xơn city năm 1971,
quân Mỹ-Nguỵ Sài gòn đã giải được hết mật mã truyền thông của quân ta. Vì vậy, ông bèn
nghĩ cách giao cho 2 chiến sỹ cùng quê Nghi Lộc ở hai đầu dây, và phải bằng
tiếng Nghi Lộc đàm thoại qua vô tuyến để truyền đi mệnh lệnh chiến đấu của ông
tới các đơn vị. Lần ấy địch cũng rà bắt được sóng vô tuyến của ta, song chúng
không tài nào hiểu nổi "vi xi" đã sử dụng tiếng của nước nào. Mãi đến giờ, nghe nói các chuyên gia
mật mã của họ vẫn không hóa giải được nội dung cuộc đàm thoại ấy.
Người theo học chữ Nho ở quê tôi còn
nhớ câu đối hình như là của bạn cụ đầu xứ Thái trêu mình: Đình tiền chỉ kiến trường đăng khách / Lộ thượng nan phùng tạp nguyệt nhân. Nghĩa là : Trước đình chỉ thấy người dài đèn / Trên đường khó gặp người lộn trăng. Nhưng nếu đọc theo đúng thổ âm Nghi Lộc thì buồn cười lắm. Thổ âm Nghi Lộc thì vô vàn giai
thoại. Cố Đại tá nhà báo Triệu Phương Quế, Trưởng phòng bạn đọc báo Quân đội
nhân dân kể dạo mới đi bộ đội, đóng quân ở Nghi Lộc nghe dân nói chuyện hay đệm
chữ “đom” như: “sợ đom chi” hay “ có đom mô”. Có lần, anh hỏi chị chủ nhà đom là gì hả
chị. Chị chủ nhà cười bảo đom là đẹp. Tối đó tâm sự với cô bạn gái khá xinh
trong làng, anh Quế khen, em xinh lắm, miệng em cười đom ghê. Cô gái hét lên anh
nói bậy rồi bỏ về. Để lại mình anh ngơ ngẩn chẳng hiểu thể nào. Có một anh
người Nghi Thuận đi học đại học ở Hà Nội lấy vợ người bắc, trước lúc đưa vợ về
quê cũng tranh thủ dạy Nghi Lộc ngữ cho vợ như “ở lố” là “cởi truồng”…Về quê, mới
8 giờ tối, vợ anh kêu anh vào buồng bảo cởi quần ra. Anh ngạc nhiên thì vợ tỉnh
bơ nói anh không nghe loa xã thông báo ơ lố, ở lố à. Buồn cười quá, anh bảo đó
là họ thử loa Alô, Alô chứ không phải ở lố, ở lố. Nhân địp tết hàng năm quê tôi
đều có phong trào “trồng cây” xã thông báo “ Tết lông cơn năm ni xã quy
định mỗi lao động phải lông 3 cơn. Ai lông rồi thì báo, những ai có lông mà
không báo xã coi như không có lông. Nghe câu được câu chăng, trước khi rời quê,
cô vợ hỏi chồng thế anh đã báo với xã chưa? Anh chồng hỏi báo cái gì? Anh không
nghe xã thông báo trên loa à? Anh không báo xã lại tưởng vợ chồng mình không có
lông. (Tiếng Nghi Lộc gọi cây là cơn; trồng cây là lông cơn). Ngược lại, có một cô Nghi Lộc sắp lấy chồng Miền Bắc trước khi về quê cũng hết
lòng truyền đạt cho ông xã tương lai chút ít đặc điểm tiếng quê. Cô nói ở quê em,
anh phải luôn chú ý có những đặc điểm như vần âu thì phát âm là u như con Trâu thi
gọi là con Tru, sông sâu thì gọi là sông su. Anh chàng hỉ hứng thể hiện
sự nhập gia tuỳ tục về đến quê bà xã tương lai. Ông nhạc hỏi các con học hành
thể nào rồi? Anh nhanh nhảu trả lời, bọn con học xong thi đụ rồi mới về bố ạ.
Anh cứ nghĩ thi đậu thì quê tôi âu là u gọi là thi “đụ”. Quê tôi thi đậu là thi
đỗ của chữ đỗ đạt.
Cửa
Lò là bãi biển nghỉ mát nổi tiếng nhất Miền Bắc được người Pháp phát hiện và
khai thác đã trăm năm nay. Đây là bãi biển bằng phẳng, nơi tắm biển nghỉ
dưỡng tuyệt vời. Hồi khoảng 1960, nơi đây có một trại điều dưỡng cho thương bệnh
binh và bộ đội Miền Nam tập kêt. Có anh thương binh đi xe đạp găp cô gái làng
cô nói: Anh có lên Quán Hành đéo (đèo) em cái. Anh thương binh đùa lại: Cô ơi
tôi là thương binh không đéo được mô. Ai ngờ, cô gái la lên: Anh là đồ mất dái ( mất
dạy). Sợ quá, anh thương binh xuống xe hỏi , cô ơi sao cô biết tôi bị thương ở
chỗ đó. Nhà văn quân đội Đại tá Nguyễn Trọng Oánh kể, có lần ông về quê Nghi
Long, đến thăm bố vợ, khoe rằng, con vừa được phong hàm Đại tá, là nhà văn quân đội
đang viết tiểu thuyết. Ông bố vơ tủm tỉm cười bảo: “ Rứa là anh văn vụ hai tay,
hai tay văn vụ, còn chi nữa” Biết bố vợ nói trại câu văn vũ song toàn , hai tay
văn võ. Ông Oánh cũng vui vẻ thưa lại, “Dạ con cũng thích thế lắm ạ!”
Nhà văn Hoàng Đình Quang quê ở Thái Nguyên
tự khoe là đã từng có người yêu xứ Nghệ. Hiểu, biết nghe tiếng Nghệ có thể
đạt trình độ Cử nhân. Anh kể: Có lần lên Tây Ninh gặp một chị quê Đô Lương, anh
nói với chị “Quân đội ta từ mô mà ra/Quân đội ta từ Đô Lương mà ra”. Chị phải
phục anh sát đất nói đúng giọng Nghệ. Cuối năm 2009, có dịp về Cửa Lò khánh
thành nhà thờ chi họ Hoàng của tôi, tôi rủ anh cùng về Cửa Lò. Chiều hôm
đó sau lễ cúng khánh thành nhà thờ, tôi mời mấy người bạn nối khổ thuở hàn vi
đến uống rượu nói chuyện cho Hoàng Đình Quang nghe. Tan tiệc về khách sạn tôi
hỏi thật Quang: Bữa nay ông nghe được bao nhiêu phần trăm? Quang khiêm tốn nhận
rằng may ra được ba chục phần trăm ông ạ. Ai đời quê ông máy “nổ” mà họ kêu là
máy “soộc” ai mà hiểu nổi. Là người trong nước, với hiểu biết cỡ Hoàng Đình
Quang mà chỉ nghe được có ba chục phần trăm, mới biết thổ âm quê tôi phức tạp
đến nhường nào.
Về văn tài nổi tiếng của Nghi Lộc còn
truyền đến nay. Trước hết phải nói đến Tiến sĩ Hội nguyên Hoàng Gáp Đông các Đại học sĩ Phạm Nguyễn Du (1739 - 1786) tên thật là Phạm Vĩ Khiêm, tự là Hiếu
Đức, hiệu là Thạch Động tiên sinh. Ông là người làng Đặng Điền, Tổng Đặng Xá,
huyện Chân Phúc (nay là xóm Tiên Lạc, xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc. Ông đậu
Giải nguyên năm 1773,đậu Hội nguyên Hoàng giáp năm 1779 triều Lê Cảnh Hưng. Ông
đã từng làm Giám sát ngự sử đạo Hải Dương, Thiêm sai dưới Triều Trịnh Sâm, Đông
các Đại học sĩ và Đốc đồng Nghệ An. Phạm Nguyễn Du là một vị quan thanh
liêm, trung thực và có nhiều cống hiến lớn cho đất nước dưới thời vua Lê, chúa
Trịnh, thế kỷ 18.
Phạm Nguyễn Du
còn là một nhà văn hiện thực nổi tiếng ở thế kỷ 18, với nhiều tác phẩm có giá
trị như: Nam thành ký đắc
tập, Đoạn trường lục,Thạch Động tiên sinh thi tập, Độc sử si tướng, lưu lại dấu
ấn khó phai mờ trong lịch sử văn học Việt Nam. Kế đến là Họa sỹ Lê Văn Miến người xã Nghi Long, tốt
nghiệp Đại học tại Pháp, nổi tiếng hay chữ, về sau được giao rèn dạy vua Tự
Đức. Thầy Nguyễn Thức Tự người xã Nghi Trường, bỏ quan về nhà làm Cụ Đồ, nhiều
học trò của Cụ để lại sự nghiệp vẻ vang như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý,
Nguyễn Sinh Sắc thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong một gia đình của dòng
họ Nguyễn Đức ở xã Nghi Trung có đến mấy Nhà văn: Hoài Thanh. Hoài Chân ( tác
giả Thi nhân Việt Nam”,
Từ Sơn, tiến sỹ Phan Hồng Giang,Nguyễn Đức Vân, Anh Ngọc, Thuý Bắc... Ở Nghi Long có họ
Đinh sinh ra Tiến sỹ, là một trong những chống Pháp đầu tiên của Việt Nam Đinh Văn Chất, thân phụ Tiến sĩ thượng thư
Đinh Văn Chấp. Con trai ông Đinh Văn Chấp là Tiến sỹ thần học Đinh Văn Nam (tức
Hoà thượng Thích Minh Châu) nổi tiếng về Phật học.
Võ tướng lừng danh người Nghi Lộc,
trước hết là Nguyễn Xí, một trong những khai quốc công thần, cùng Lê Lợi nếm
mật nằm gai, tiến hành cuộc kháng chiến, đánh bại quân xâm lược nhà Minh, khai
lập triều Lê, được Lê Thái tổ ban chiểu phong Thượng, thượng, thượng đẳng thần. Ông có tài điều binh khiển
tướng, luyện chó đánh giặc lập nhiều chiến công rạng ngời trong sử sách...Nhà
thờ Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí hiện ở xã Nghi Hợp, một trong rất ít Di tích lịch
sử văn hoá cấp quốc gia trên xứ Nghệ còn giữ được quy mô hoàn hảo, kiến trúc cổ
kính, đặc biệt là không hề bị sóng đời xâm hại trong suốt hơn 600 năm qua.
Văn võ song toàn, trước hết lại phải
kẻ đến Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh người làng Cổ Đan xã Phúc Thọ. Về thi
trường ông chỉ đậu Hương cống (người đời thân thiện gọi là Cống Chỉnh), về tài
nghệ chỉ huy thủy binh của ông đạt tới độ quái kiệt, ông là mưu sỹ đắc lực giúp
Quang Trung Nguyễn Huệ lập Vương. Khi Nguyễn Huệ rời Bắc hà trở về Phú Xuân lần
thứ nhất có ý bỏ lại ông, nhưng vừa về tới Phú Xuân đã thấy ông đến trình diện
vấn an, tài đi biển như ông thật hiếm có. Căn cứ thuỷ quân tại Cửa Hội (nay gọi
là Cảng K34) có từ thời Đông hải đại tướng quân Hoàng Tá Thốn, được Nguyễn Sư
Hồi (con trưởng của Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí) kế thừa, đến thời Hậu Lê
giao ông Chỉnh. Ông đã khôi phục và xây lại, căn cứ thuộc đất làng Cổ Đan
ven sông Lam quê ông, có lẽ vì vậy căn cứ hải quân này càng được ông củng cố mở
rộng. Lúc đắc thế, ông Chỉnh tự sung tiền góp của, vận động dân, binh lên tới
10 vạn người vào nâng cấp xây dựng Đền Đông Hải (cư dân gọi là Điện Đông Hải).
Tòa Điện lộng lẫy nguy nga được người đời liệt vào bậc nhất xứ Nghệ thời ấy.
Năm 1962 một phái đoàn chuyên gia hải quân Liên Xô đến tham quan khảo sát, họ
trầm trộ khen hết lời bởi khả năng phòng thủ lẫn tấn công của căn cứ hải quân
này. Chị gái của ông Chỉnh là vợ của Danh sỹ Phạm Nguyễn Du, người làng Xuân
Hồ, nhà ở dưới chân núi Lập Thạch bây giờ là Nghi Xuân, chị gái mất giữa lúc 29
tuổi, bài thơ Khóc chị của ông Chỉnh được nhiều thế hệ thuộc lòng, và theo đánh
giá của PGS TS Trần Ngọc Vương (Khoa Ngữ văn ĐHQG Hà Nội), đó là bài thơ viết
về chị hay nhất trong suốt 10 thế kỷ thi ca Việt Nam. Tiếc rằng thiên tài
Nguyễn Hữu Chỉnh không được Quang Trung tín dụng nên cho thủ túc sát hại, hơn
300 năm sau cái chết thảm khốc của một bậc đại tài để lại một nghi án, day dứt
lương tâm giới nghiên cứu sử học nước nhà.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, không ở đâu cung cấp cho
đất nước nhiều tướng quân bằng Nghi Lộc, có tới khoảng hơn 20 người. Nói chuyện với Trung tướng Nguyễn Quốc
Thước quê xã Nghi Diên, hỏi ông về người Nghi Lộc tham gia giải phóng miền Nam
như thế nào? Ông nói với tôi rằng: Chú biết không, khi Bộ Tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng họp bàn Chiến
lược giải phóng Miền Nam để trình lên Bộ Chính trị, dân Nghi Lộc đã có 11 người
là cán bộ quân sự cao cấp. Có tỉnh rất đông
dân mà chỉ có 1 người thôi, chú ạ. Người Nghi Lộc có cấp hàm cao nhất là
Thượng tướng Trần Văn Quang nguyên Thứ trưởng Bộ quốc phòng, từng là Cục trưởng
Cục Tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Nhưng có một điều khá
đặc biệt là từ đó đến giờ ông chưa một lần phát biểu với giới truyền thống báo
chí một nhận định, hay một tình huống nào về chiến dịch lịch sử vẻ vang được
đánh giá mang tầm thời đại mà ông là người trực tiếp bên cạnh Võ đại tướng cách
nay 56 năm.
Người
Nghi Lộc trong cuộc họp lịch sử trước tháng 3.1975 gồm: Trung tướng Nguyễn Quốc
Thước vị đại biểu Quốc hội thường xuyên đốt nóng hội trường Ba Đình với những
tranh luận nảy lửa nguyên là Sư đoàn trưởng sư 10 tây Nguyên, Tư lệnh quân khu
4. Hai anh em cùng chi họ Hoàng ở Nghi Thuận là Hoàng Niệm, Thiếu tướng Tư lênh
bộ đội thông tin và Thiếu tướng Hoàng Đan, vị tướng trận mạc lập nhiều chiến
công hiển hách, có nhiều giai thoại ở chiến trường thời chống Mỹ, Thiếu tướng
Phùng Bá Thường (hậu duệ của Tướng công Phùng Quốc Kiều thời hậu Lê người xã
Nghi Thu). Ông Thường nguyên Sư đoàn trưởng sư đoàn 10 Tây Nguyên sau ông Nguyễn
Quốc Thước, nguyên Hiệu trưởng trường Sỹ quan hậu cần. Phó đô đốc hải quân Lê Kế Lâm
người Nghi Hoà. Đó là những người tôi đã có dịp gặp, còn những người khác tôi
chỉ được nghe tên qua những đồng hương khác kể lại như Tướng Lê Xuân Kiện Tư
lệnh bộ đội tăng thiết giáp, thiếu tướng Triệu Huy Hùng Cục trưởng Cục Quân
lực - Bộ Tổng tham mưu...và nhiều người khác nữa. Người Nghi Lộc có Ủy viên BCT, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao Nguyến Duy Trinh, ở xã Phúc Thọ, hậu duệ của Thái sư Cương quốc
công Nguyễn Xí, đồng hương cùng xã với Cụ hương cổng Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông
Trinh với bố tôi cùng học lớp chữ Nho của Thầy Hàn Thao người xã Nghi Phong. Cụ
Hàn Thao là học trò của Thầy Nguyễn Thức Tự, cháu của hoàng giáp Phạm Nguyễn Du
đã nói ở trên.
Sinh thời, cha tôi Hoàng Khắc Hanh( tức
Hoàng Long Hải) hay nhắc tới bácTrinh bởi chuyện thầy Hàn Thao khi lập tử vi cho
học trò, thầy phán rằng “thằng Trinh sau nay hiển vinh ít kẻ phân bì, hắn phải
làm đến tứ trụ triều đình". Còn bố tôi giỏi lắm cũng chỉ đến chức quan huyện,
mặc dù học hành chữ nghĩa hai anh ngang ngửa với nhau. Lời thầy ứng nghiệm như
thần, ông Trinh làm Phó tThủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, đúng là “tứ trụ
triều đình”. Ông làm lớn cũng có cơ duyên của nó. Khi phong trào xô viết Nghệ
Tĩnh nổ ra, ông là Bí thư huyện bộ nông Nghi Lộc (Hội nông dân huyện), bố tôi
làm phó. Tính chậm chạp ông Trinh sớm bị địch bắt cuối năm 1930, nhốt chung nhà
tù với nhiều nhà lãnh đạo TW. Cha tôi nói “Băng đảng ở tù chung thì tin nhau,
chọn nhau thôi”. Ông Trinh nổi tiếng nhất có lẽ là thời hội đàm Pari 1968-1973,
làm lãnh đạo cuộc đoàn phán suốt 4 năm ông chỉ nói duy nhất một câu chân lý
“Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam là chính nghĩa, Đế
quốc Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam là phi nghĩa. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh
Việt Nam". Hồi chiến tranh Mỹ ném bom miền bắc Việt Nam
lần thứ nhất 5/8/1964 - 3/11/1968. Có lần về Nghệ An truyền đạt ý kiến TW với
tỉnh nhà, ông Trinh ghé về quê thắp hương cho nhà thờ họ. Thăm lại xóm giềng có người
bạn nối khổ thuở chăn trâu cắt cỏ mắt mù loà chống gây qua thăm. Bạn ông nói “
Mi cho tau sờ mặt, chứ tau giừ không nhìn chộ” Hai đồng chí bảo vệ kiên
quyết không cho đến gần. Ông nói hai chú để cho anh ấy lại tôi, không có việc
gì đâu. Bạn ông đến sờ lên mặt lên mũi ông rồi nói “ Béo hầy, béo hầy ăn chi mà
béo rứa”. Tính ông giản dị và chân thật không câu nệ những tiểu tiết của cuộc
sống. Sau khi
ông mất 1985, ngoài thành phố Hà Nôi ra, tên ông được chính quyền thành phố Hồ
Chí Minh chọn đặt tên một con đường dài hơn chục cây số, từ Cầu Giồng Ông Tố
(quận 2), đến xã Long Trường (quận 9). Có lẽ con cháu ông ít người biết có con
đường này vì từ sau ngày giải phóng 1975 họ đã chọn nước Pháp và Châu Âu làm
nơi cư trú. Ông không để lại văn chương thơ phú, nếu có là những bài viết về
đường lối ngoại giao của Nhà nước thời ông phụ trách.
Người
quê tôi có tính cực đoan bao đồng lắm nỗi như câu thơ nhà thơ Nguyễn Sỹ Đại
người Hà Tĩnh tổng kết “ Chưa từng đến được Thủ đô/Nghe đài báo mất Liên Xô thì
buồn”. Huyện tổ chức mít tinh mừng độc lập năm 1945 tại Cồn Vàng, đại biểu của xã Phúc Thọ khi chào Quốc kì
họ hô rõ to: “ Chào cờ xã ta chào” dứt khoát không chào cờ xã khác. Trong chiến
tranh chống Mỹ họ luôn tự hào với câu nói nổi tiếng “ Phúc, Thái, Thọ là tiền
tiêu Tổ quốc” làm như các xã khác là hậu phương không bằng.
Dân quê tôi tin yêu Đảng như mẹ tin
con. Chuyện kể: Có lần, trong Đại hội Đảng bộ Quân đội, có hai ông tướng người
Nghi Lộc ngồi cạnh nhau. Ông Trung tướng làm ở một Tổng cục thuộc Bộ Quốc
phòng, ông Thiếu tướng là Chỉnh uỷ một Trường sỹ quan Lục quân ở phía nam. Ông
Thiếu tướng ghé tai nói vui với ông Trung tướng: Anh này, tôi thấy tuyên huấn
ngoài này vẽ ông Mác và ông Lê Nin chẳng giống. Ông Trung tướng mỉm cười nói
lại: Thế thì, anh gặp Mác và Lê Nin khi nào mà biết giống hay không? Vả lại,
đây là ảnh ghép chứ có phải ảnh thật đâu. Này nhé, ông Mác mất năm 1863 ở Anh,
mãi 7 năm sau (1870) ông Lê Nin mới sinh ra ở Nga. Có bao giờ hai ông đứng sát
nhau đâu. Ông Thiếu tướng nghĩ lại, gật gù, đúng thật, mình chưa thấy Mác và Lê Nin
bao giờ thì mần răng mà biết giống hay không. Quen nhìn hình ảnh hai ông ở Trường Sỹ quan Lục quân nên ông cứ nghĩ ảnh Mác và Lê Nin ở Hà Nội không giống.
Nhà báo Đại tá Đặng Thọ Truật, người
Nghi Long, mấy lần đề nghị nhưng chưa được phong Anh hùng, nổi tiếng với trận
đánh tại điểm cao 1478 dãy núi Cô Pung
phía tây Thừa Thiên Huế ngày 30/07/ 1970 bắn rơi 24 máy bay trực thăng chở đầy lính của Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của
Mỹ, góp phần đập tan chiến thuật trực thăng vận. Trận đánh được ghi vào lịch sử
chiến tranh Quân đội nhân dân Viêt nam. Anh Thuật có bà mẹ thọ hơn trăm tuổi. Khi còn minh mẫn,
lúc nào kể chuyện cho con cháu nghe, bà cũng nhắc chuyện được vào Đảng năm 1936 .
Bà nói “ Tau nhờ từ việc mặc mấn chuyển sang mặc quần mà được kết nạp vào Đảng, vì được
đánh giá là phụ nữ tiên tiến . Không biết bây giừ Đảng mần rằng mà chúng nó bỏ
quần mà mặc mấn cả, lại còn đưa lên ti vi nữa”.
(Tiếng Nghi Lộc gọi váy là mấn).
Một trong 7 người tham gia thành lập chi bộ
Đảng CSVN đầu tiên tại Hà Nội được ghi trong sử Đảng là ông Trần Văn Cung,
người xã Nghi Hoa. Khi nói về nhà ông, người quê tôi có câu “Cung, Quang, Bành
huynh đệ nhất gia, tam tỉnh uỷ”. Ba anh em trai nhà ông Trần Văn Cung, Trần Văn
Quang, Trần Văn Bành, ông thì Thường trực Quốc hội, ông thì Thượng tướng Thứ trưởng, ông thì Cục trưởng, cũng là hiếm có về Nhân, Trí, Dũng thời này. Trước kháng chiến
chống Pháp ba anh em đều tham gia tỉnh ủy Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá ở cương
vị cao. Hoà bình lập lại có một đoàn nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Quảng
Nam về Nghi Lộc xin xác nhận về trường hơp liệt sỹ Trần Thăng bí thư đầu tiên
của tỉnh uỷ Quảng Nam đó chính lại là anh ruột của ba ông Cung, Quang, Bành như
vậy phải cải chính lai nhà họ Trần “Tứ huynh đệ nhất gia, tứ tỉnh uỷ mới chính
xác” Cụ Hàn Dung thân mẫu của các ông là một phụ nữ cương cường , thông minh,
nhân hậu . Hồi Cải cách ruộng đất cụ bị đưa ra đất tố. Anh Ph cán bộ Đội cải
cách lên chỉ mặt cụ hỏi xấc xược “ Mi có biết tau là ai không?”. Cụ vừa nhai
trầu vừa nói “ Có, anh là đứa ở trong nhà tui ăn cơm hàng ngày với tui mà” Ph
quát không được láo rồi lấy roi quất vào mấn( váy) cụ. Cụ trừng mắt nhưng lại nói
mát “khéo làm rách mấn tui đó”. Nghe tin mẹ bị đấu tố, ông Quang đi xe ô tô về
đón mẹ ra đơn vị. Vừa về đến nhà, bà bảo “ Con ơi cả nhà ta đi mần cách mạng
răng giừ họ lại đưa mẹ ra đấu tố rứa, chúng nó nói mẹ bóc lột, có chi trong nhà
tịch thu hết. Mẹ mà bóc lột à. Bay đi hết mẹ ở nhà sôi cấy nậy nước mới có nuôi
bay ăn học, nuôi bay ở tù, Đi cày, bừa, cấy hái hỏi có ai bằng mẹ không? Răng
hồi trước thằng Thăng, thằng Cung nói với mẹ đi làm cách mạng để đuổi Tây, lật
đổ bọn bóc lột ngồi mát ăn bát vàng, mẹ làm ruộng làm vườn, răng nói mẹ là bóc
lột?". Ông Quang phải nói khéo, bà mới chịu đi. Khi ra xe bà dứt khoát bắt phải
mang theo chiếc áo tơi bà nói, áo ni tau mới mua ở chợ Quán về loại tốt nhứt,
mới chằm lại. Ông Quang phải nói nhỏ với công vụ giả vờ cột chiếu áo tơi lên
nóc xe, Bà mới chịu đi. Bà cụ Hàn ra Hà Nội một thời gian rồi nằng nặc đòi con
đưa về quê. Anh cu Hiên người trong xóm hỏi bà ở Hà Nội thích không bà? Bà đáp
thích nhưng không bằng ở nhà tau nhởi với bay. Lại hỏi rứa rằng bà không ở
ngoài nớ cho sướng. Bà cười : nói rứa chớ khổ chết cha, ngoài nớ nó bắt mặc
quần nỏ cho mặc mấn(váy), nỏ biết nói chuyện với ai. Cu Hiên nói: mặc quần lụa
thì đẹp chớ bà. Bà cười ra bộ nạt nộ “ Bay con nít biết cứt chi, mặc quần thì
nóng l... chứ sướng chi” Rồi bà lại ra vươn hái mấy bó rau lá lốt, rau thơm đi
ra chợ Quán, Chợ Cầu bán mua về chục cá ve, cá nục. Bà sống vậy ở quê cho đến
lúc quy tiên. Cháu nội của bà, con ông Trợ Thăng ( liệt sỹ Trần văn Thăng bí
thư tỉnh uỷ Quảng Nam)
là Trần văn Minh, Trần văn Hợp. Anh Hợp kháng chiến chống pháp làm đến tiểu
đoàn trưởng. 1958 cấp trên phong quân hàm cho anh là thượng uý, trong lúc chính
tri viên tiểu đoàn thì phong đại uý, tức mình xin về phục viên làm chủ nhiệm hợp
tác xã nông nghiệp. Anh Trần văn Minh thông thạo bốn ngoại ngữ Anh , Pháp, Nga,
Trung là y sỹ thời pháp thuộc. Tham gia quân đội làm hiệu trưởng trường trong quân đội. Hồi ở Việt Bắc làm phiên dịch cho ông Trường Chinh. Vợ anh là hoa
khôi của Nghi Lộc thời đó, yêu thích văn thơ. Anh kể rằng hồi mới nghỉ hưu
không thấy anh đi sinh hoạt Đảng vợ anh hỏi, anh bảo tớ có vào Đảng bao giờ đâu
mà phải sinh hoạt. Vợ anh không tin, tức mình anh đi từ Sài Gòn ra sở y tế Nghệ
Tĩnh ở thành phố Vinh rồi cầm về cho vợ một tờ giấy xin xác nhận có nội dung:
Sở y tế Nghệ Tĩnh xác nhận “ông Trần Văn Minh chưa bao giờ được kết nạp vào
Đảng cộng sản Việt Nam” có đóng dấu đỏ hẳn hỏi.
Người
là hoa của đất, là đặc sản số một. còn đặc sản thứ hai của quê tôi đó là khoai
lang. Hồi tôi còn làm thuê cho một công ty của Mỹ US Global trading company,
nhiều dịp làm quen với một chuyên gia hàng đầu của hãng Sengging chuyên bán
nhân sâm Hàn quốc tên là CHOI. Có lần ngồi ở khách sạn DAEWOO trà dư tửu hậu,
hai bên tiếng Anh đều lõm bõm phải nhờ phiên dịch tiếng Hàn. Tôi nói nhân sâm
của Hàn không bằng khoai lang quê choa. Choi trố mắt nhìn tôi rồi nói nhân sâm
Triều Tiên nổi tiếng thể giới đã được các nhà khoa học dược phẩm phân tích đánh
giá, có thể cho người sắp chết ngậm một miếng sâm sẽ sống thêm mấy ngày, mà nay
Mr HOÀNG nói gì kỳ vậy? Khoai lang quê ông như thể nào mà bảo hơn nhân sâm của
nước tôi. Tôi chậm rãi bảo CHOI, thứ nhất khoai lang quê tôi không có mà xuất
khẩu như nhân sâm Hàn quốc vì không đủ tiêu thụ nội địa. Thứ nữa là …CHOI đòi
dẫn chứng phân tích khoa học về lý hoá, tôi đọc cho tay phiên dịnh tiếng Hàn
người của Choi mấy câu ca mà người quê tôi tổng kết đánh giá về giá trị của
khoai lang “ Trăng lên đỉnh núi mu Rùa /
Cho anh đ... chịu đến mùa trả khoai / Khoai
anh lông ở trên cồn / Em ăn một củ nứng l... ba năm.” Ông thấy đấy, khoai quê
tôi có thể thay tiền trực tiếp thanh toán tín dụng, còn tính chất lý hoá gì tớ
không biết nhưng khoản bổ âm mà chị em sướng đến ba năm thì sâm Hàn Quốc của
chú chỉ là đồ đinh rỉ. Về sau CHOI khá sõi tiếng Việt, nhiều lần hắn rủ tôi về
Cửa Lò Nghi Lộc chơi, tôi vẫn đãi khoai lang quê hương, mùa hè khoai củ, mùa
thu khoai xéo, hắn ăn và khen ngon quá trời. Ngoài khoai, Nghi Lộc chỉ còn một
đặc sản nữa đó là cà, nói cho đầy đủ trọn gói là cà có cuống, chứ không phải là
cà có đuôi, để phân biệt với cá. Cà Nghi Lộc cùi dày phơi cho héo, muối ăn giòn
tan, mỗi nhà mỗi vại là thực phẩm chính nuôi dưỡng những người con xứ Nghệ.
Vùng gần biển quê tôi còn muối cà vào mắm chợp vừa ngon vừa giàu dinh dưỡng,
khoai lang ăn với cà pháo , hay với cá mu, cá ve thì hết ý vừa bổ vừa nhuận
trường, vừa không mắc bệnh đường tiểu. Chẳng nói ai xa, người cung cấp cà cho
Bác Hồ kính yêu là đệ tử phục vụ cho Bác, đó là ông Cần người đứng đầu trong
“Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Ông Cần người xã Nghi Hợp cùng quê với Cương quốc
công Nguyễn Xí…
Chuyện quê hương biết mấy vui buồn,
chỉ tiếc tôi không là người viết văn, làm sử để ghi chép lại. Mấy dòng này như
là những giọt màu góp vào bức tranh quê hương, bạn đọc và những người cùng quê
có xem qua cũng rộng lòng lượng thứ về độ chính xác, hoặc có điều bất cập là do
kiến văn của ngừơi viết còn rất nông cạn./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét