Menu ngang

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Văn chương mang gương mặt nữ

   
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá cao đóng góp của các nhà văn nữ cho nền văn học Việt Nam đương đại.  Ảnh: PHAN HỮU ĐỐ
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá cao đóng góp của các nhà văn nữ cho nền văn học Việt Nam đương đại. Ảnh: PHAN HỮU ĐỐ

Ngày 11-6, tại Hội nhà văn Việt Nam đã diễn ra Hội thảo bộ sách Phái đẹp và Cuộc đời - tập hợp sáng tác tiêu biểu của gần 100 nhà văn nữ, những người đã góp phần làm nên diện mạo của văn học Việt Nam đương đại. Mười tham luận được viết công phu, cùng những ý kiến phát biểu của các nhà phê bình, nhà văn, nhà thơ đã mang lại cái nhìn đa diện, sâu sắc về phái đẹp và những phụ nữ viết văn, làm thơ. 
Dưới đây là tham luận của nhà văn BÙI VIỆT THẮNG.
Đọc Phái đẹp, cuộc đời và cây bút (NXB Hội Nhà văn, 2015) tôi nghĩ tới hình ảnh đội quân tóc dài trong văn chương. Trong chiến tranh đã có những khi đội quân tóc dài khiến kẻ thù khiếp sợ. Trong thời bình, đội quân tóc dài đã đem lại niềm tin về một tương lai của văn chương nước nhà. Ở nước ta, có một địa chỉ văn chương gắn với những thành công, thành danh của các nữ sĩ, đó là Tạp chí Văn nghệ quân đội. Cuộc thi truyện ngắn 2013 -2014 của tạp chí này, ngôi quán quân vẫn thuộc về "phái yếu" - nữ sĩ Nguyễn Thị Kim Hòa (xin nói rõ, đây là một cô gái tật nguyền ở xa tít tắp phía nam, vịn vào văn chương mà đứng dậy).
Trong số 96 nữ sĩ hiện diện trong tuyển tập này có những bậc "trưởng lão" trong làng văn như Nguyệt Tú (sinh 1926), Nguyễn Thị Cẩm Thạnh (sinh 1927), Thanh Hương (sinh 1929), Đặng Anh Đào (sinh 1934). Lại có những người "đầu xanh tuổi trẻ" như Nguyễn Ngọc Tư (sinh 1977), Vi Thùy Linh (sinh 1980). Tính chi ly ra, đội quân tóc dài trong văn chương nối tiếp đến năm thế hệ. Tôi nghĩ một trong những điều kiện tồn vong của văn chương là sự tiếp nối sáng tạo các thế hệ. Theo thống kê mới nhất của Hội Nhà văn Việt Nam, tính đến năm 2015, tổng số hội viên là 1.016, trong đó có 200 hội viên nữ. Đó thật sự là một "con số biết nói".
Từ trái tim đến trái tim là quy luật của sáng tạo nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật ngôn từ. Người nữ viết thơ tưởng chỉ có những lời thủ thỉ, tâm sự thường tình, ai ngờ: "Tôi là bông lúa vàng tươi/Cúi thấp xuống phù sa đến nỗi/Rạng đông lên tôi nhìn thấy bầu trời/Và ngôi sao mai như bóng trái tim tôi/In lên màu nước sáng/Những bạn bè tôi cúi xuống thấp hơn/Tấm thân nặng trĩu không đủ sức rì rào/Họ thầm thì những lời no ấm" (Lâm Thị Mỹ Dạ - Lời của bông lúa). Trừ một số rất ít, tôi tin độc giả ngày nay không thích một lối thơ hoặc là rền vang hả hê, hoặc là ủy mị ẩm ướt quá mức. Người phụ nữ truyền thống có nhiều ràng buộc, người phụ nữ hiện đại có nhiều khao khát tự do. Tôi thích bài thơ Tự do và ràng buộc của Nguyễn Thị Hồng Ngát là có cái lý do của nó: "Giống như con thuyền không neo/Muôn đợt gió thổi qua thổi lại/Thế đấy/ Ôi, ràng buộc và tự do/Cái nào hơn cái nào?". Người nữ và thơ nữ thường gợi ở độc giả phái mày râu cái cảm giác "dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi". Nhưng đôi khi ta lại thấy ở đâu đó, lúc nào đó họ bỗng trở nên "đanh đá" , thậm chí "ngang ngạnh" và mạnh mẽ một cách đáng yêu như Đoàn Thị Lam Luyến, dám Làm nhà trên lưng cá voi. Một người nữ mà cả gan: "Tôi mơ tát cạn biển này/Để tìm cho được tháng ngày đôi ta/Nhưng rồi biển quá bao la/Aibảo-làm-nhà-trên-lưng-cá-voi?". Một vài dẫn dụ như thế trong thơ để thấy dẫu cái tình là gốc của sáng tác nhưng cái tình đã thăng hoa, kết tinh, tỏa sáng, lan truyền nhờ vào cái chất trí tuệ được đốt cháy. Ai bảo người nữ chỉ biết "lụy tình", "dại tình"?
Đọc văn xuôi nữ, riêng tôi lại càng cảm thức được cái chất trí tuệ thấm đượm trong những trang văn. Có thể ai đó nghĩ rằng văn chương của phái đẹp thường ủy mị, sướt mướt. Hãy thử đọc một lần xem sao Kẻ nô tỳ được trang sức của Trần Thị Trường, bạn sẽ bớt đi cái định kiến ấy. Đừng nghĩ người nữ chỉ thích kể lể một câu chuyện buồn vui nào đó của chính mình hoặc người thân quen của mình. Có những khi sau câu chuyện được kể ra có vẻ như là "chuyện thường ngày ở huyện" lại lấp lánh một triết lý nào đó về cuộc đời, về con người kiểu như Quanh chuyện sống với người giàcủa Phan Thị Vàng Anh. Vấn đề quy luật "sinh lão bệnh tử", vấn đề thế hệ, vấn đề tồn tại theo cái nhìn hiện sinh, tôi nghĩ, đầy ắp trong một truyện ngắn vỏn vẹn 2.000 chữ. Có một Nguyễn Thị Minh Thái lúc nào cũng "tung tăng như cá tươi" (Hồ Anh Thái), đọc rộng biết nhiều, viết lý luận phê bình tinh tế và sắc sảo mấy ai bằng, nhưng bập vào viết truyện ngắn ngang ngửa với mấy người chuyên trụ hạng với thể loại "nhỏ" này trong văn chương. Tôi thấy thú vị khi chị tự nguyện đứng vào đội hình Văn với truyện ngắn Ngồi đợi ở bậc thềm. Một cái truyện trĩu nặng vì tâm trạng. Một lối kể như mũi khoan xoáy sâu vào nội tâm. Những đảo chiều không gian - thời gian như điện ảnh,... Tất cả nhào nặn thành một khối được dồn nén tối đa và bùng nổ tối đa. Triết lý mà cứ thoảng nhẹ như không bởi cái hơi thở đời sống đương đại phả vào từng câu chữ.
Người ta nói sinh ra nghệ thuật là để chống lại sự nhàm chán của cuộc đời. Chính vì thế, nghệ thuật bản thân nó không được phép lặp lại và thật đáng buồn nếu tất cả chủ thể sáng tạo rập khuôn, một mầu, một giọng, một cách lối thể hiện. Trong thơ độc giả nhận ra một lối "lặng lẽ tỏa hương" như Lệ Thu, Phan Thị Thanh Nhàn, Bùi Kim Anh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Tuyết Nga, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Bảo Chân, Phạm Thu Yến,... Thơ của các nữ sĩ này không "lắm điều", có vẻ như chỉ là những tiếng nói thầm, rất khiêm tốn, đôi khi cố tình giấu mình, nhưng rất nhiều những say mê, thổn thức. Lại có một lối thơ mạnh mẽ, quyết liệt kiểu như Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng, Vi Thùy Linh, Chu Thị Thơm, Huệ Triệu,... Họ "ăn sóng nói gió" nhưng trong sâu thẳm họ cô đơn và khát khao chia sẻ, cũng như rất nhiều những mềm lòng. Một lối viết lấy cái chân thật làm đầu nên thơ họ giản dị, mộc mạc như lúa ngô khoai sắn, gần gũi và thiết yếu như nắng gió khí trời. Đó là thơ của Hoàng Thị Minh Khanh, Đỗ Bạch Mai, Lê Thị Mây, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Trần Kim Anh, Nông Thị Ngọc Hòa, Trần Thị Nương,...
Trong văn xuôi nổi lên một lối viết giàu triết luận như Trần Thị Trường, Nguyễn Thị Minh Thái, Phan Thị Vàng Anh,... Tác phẩm của họ mạnh về "vấn đề", nghĩa là có xu hướng nghiêng triết lý đời sống, đôi khi như là những luận đề, nhưng đã cố kết được với chất sống tươi nguyên. Lối viết trữ tình thể hiện rõ ở Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Ngọc Hà, Vũ Minh Nguyệt, Trương Thị Thanh Huyền, Lê Thị Bích Hồng,... Truyện của họ không quá chú trọng cốt truyện mà nhiều chất thơ, nhiều những "nhánh" rẽ ngang giàu tính chất "trữ tình ngoại đề". Lối viết "tả chân" vốn được coi như một truyền thống của văn chương Việt Nam in dấu đậm trong truyện của Hà Thị Cẩm Anh, Lê Minh Khuê, Hiền Phương, Nguyễn Thị Anh Thư, Trầm Hương, Vũ Thảo Ngọc, Võ Diệu Thanh, Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp,... Truyện của họ nhiều tình huống gây cấn, nhiều chi tiết hay dễ "bắt mắt" độc giả.
Những nữ sĩ viết lý luận phê bình cũng rất đa thanh sắc: Một Đặng Anh Đào tài hoa, phóng khoáng in dấu trên từng trang viết về văn chương thế giới và Việt Nam. Một Lưu Khánh Thơ năng động, thậm chí có thể nói là "tả xung hữu đột", viết phê bình nhiều thể loại từ văn, thơ, kịch, chân dung. Một Lý Hoài Thu tinh tế và cẩn trọng. Một Tôn Phương Lan đắm đuối nhưng không kém phần sâu sắc trong tiếp nhận văn chương. Một Bích Thu lặng lẽ thành danh với những tiểu luận - phê bình bám sát thời sự văn chương đương đại Việt Nam.

Theo : NDDT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét