MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Nguyễn Thanh Tâm
Văn học thời kỳ đổi mới là một đối
tượng rộng lớn và chưa hoàn thành. Tuy nhiên, với hơn 25 năm từ thời điểm tiến
hành đổi mới đến nay, chúng ta đã hoàn toàn có thể nhìn lại một chặng đường
quan trọng của văn chương nước nhà, để phác họa diện mạo, để nhận ra những
thành tựu và hạn chế, những đổi mới thực sự của văn nghệ trong bối cảnh đối
mới của đất nước.
Nhìn lại 25
năm của nền văn học đổi mới, chúng ta nhận ra có những điểm hội tụ mà ở đó
tác giả, tác phẩm, sự tiếp nhận, phản hồi của công chúng văn học đang nói lên
sức sống sinh động của đời sống văn học. Những hiện tượng nổi bật như Nguyễn
Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Vi
Thùy Linh… chính là những điểm hội tụ như thế. Từ góc độ tiếp nhận văn học,
chúng ta có thể nhận ra bản chất của các hiện tượng vừa nêu cũng như thấy
được thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng, thời đại…
Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp đã đốt nóng văn đàn sau đổi mới bằng
những truyện ngắn “ghê gớm” của mình. Như một sự phản ứng với nền văn chương
kinh viện đã được nhào nặn trước đó, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là lời
tuyên chiến với những đạo mạo giả trang của đời. Với truyện ngắn Tướng
về hưu ra mắt độc giả trên báo Văn nghệ năm 1987,
Nguyễn Huy Thiệp đã thu hút mọi ánh nhìn và trường quan tâm của công chúng
văn học. Trên âm hưởng rất Shock của Tướng về hưu, Nguyễn Huy
Thiệp lại tiếp tục tung ra: Muối của rừng, Chảy đi sông
ơi, Con gái thủy thần, Chút thoáng Xuân Hương, Kiếm
sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết… làm sửng sốt văn
đàn. Ông “càng viết dư luận càng mạnh, truyện chưa ra thì người đọc đã kháo
nhau, truyện đăng rồi thì tranh nhau tìm đọc, đọc rồi thì tranh nhau bình
phẩm, bàn tán, chốn phòng văn cũng như chốn vỉa hè đâu đâu cũng kháo chuyện…
Văn đàn thời đổi mới đã khởi sắc bỗng khởi sắc hẳn.” (Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Xuân Nguyên sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội, 2001). Xuất hiện và buộc người ta phải nhắc đến mình, đi tìm mình,
Nguyễn Huy Thiệp phải có một sức hấp dẫn, sự lôi cuốn nào đó? Ở khía cạnh
này, Đỗ Ngọc Yên cho rằng: "Cái mới cuả Nguyễn Huy Thiệp không phải là ở
chỗ anh đã phát hiện ra bộ quần áo của Hoàng đế, mà điều quan trọng hơn là
anh đã biết cho Hoàng đế cần phải mặc quần áo vào lúc nào. Sự sòng phẳng có ý
nghĩa nhân bản đó, chỉ từng ấy thôi, cũng đủ để anh xứng đáng là một trong số
những người đứng ở ngôi đầu bảng của văn xuôi Việt Nam đương đại" (Cái
mới trong văn chương - Đỗ Ngọc Yên, Văn chương - những cuộc
truy tìm, NXB Quân đội Nhân dân, 2006).
Ở mức độ tổng
quát, tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp diễn ra trên hai bình diện lớn: đón nhận,
tôn vinh và phê phán, phủ nhận. Chỉ cần hình dung sức lan tỏa từ 54 bài viết
trong Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp chúng ta sẽ thấy được vấn đề
Nguyễn Huy Thiệp sôi nổi như thế nào trong đời sống văn học:
Mở đầu
với Lời giới thiệu (Phạm Xuân Nguyên), Tôi không
chúc bạn thuận buồm xuôi gió (Hoàng Ngọc Hiến), Khi ông
Tướng về hưu xuất hiện (Ðặng Anh Ðào), Ðôi điều cảm nhận sau
khi đọc truyện và xem phim Tướng về hưu (Nguyễn Mạnh Ðẩu), Các
vị tướng nói về phim Tướng về hưu (Lê Hà), Tướng về hưu một
tác phẩm có tính nghệ thuật (Trần Ðạo), Lời thoại trong
truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Thị
Hương), Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu các
truyền thuyết văn học (T. N. Philimonova), Ðọc Chút thoáng
Xuân Hương (Ðào Duy Hiệp), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Trần
Duy Thanh), Có nghệ thuật ba-rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp hay không? (Thái
Hòa), Tại sai tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh (Greg
Lockhart), Ðọc truyện Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Thanh
Sơn), Về cái ma lực trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Ðông
La), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Evelipe Pieller), Thơ
trong văn Nguyễn Huy Thiệp (T.N. Filimonova), Về truyện ngắn
Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp (Tạ Ngọc Liễn), Ðọc văn phải
khác với đọc sử (Lại Nguyên Ân), Có một cách đọc Vàng lửa (Ðỗ
Văn Khang), Về một cách hiểu truyện ngắn Vàng lửa (Thùy
Sương), Viết như thế cũng là một cách bắn súng lục vào quá khứ (Nguyễn
Thúy Ái), Bàn thêm về truyện ngắn Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp (Văn
Giá), Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp, triết học lịch sử hay là văn
xuôi nghệ thuật? (Trương Hồng Quang - Nguyễn Mai Xuân),Sự mơ mộng
và sự nghiêm khắc trong truyện ngắn Phẩm tiết (Ðỗ Văn Khang), Ðọc
Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Diệp), Ba lần đọc Phẩm
tiết của Nguyễn Huy Thiệp (Vũ Phan Nguyên), Mười lời bình về
truyện ngắn Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp (Trương Hồng
Quang), Kiếp luân hồi của Nguyễn Trãi qua Nguyễn Thị Lộ (Ðặng
Anh Ðào), Ðoản thiên về truyện Nguyễn Thị Lộ của Nguyễn Huy Thiệp (Ðỗ
Văn Khang), Một cây bút có tài, nhưng... (Hồng Diệu), "Ðọc"
Nguyễn Huy Thiệp (Văn Tâm),Về những cách đọc văn Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn
Văn Lưu), Sử-Văn, Văn-Sử và thái độ người phê bình (Ðỗ Trung
Lai), Về một lối cảm thụ và phê bình "bắt-vít" (Nguyễn
Hữu Sơn - Trịnh Bá Ðĩnh), Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy
Thiệp(Vương Anh Tuấn), Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp (T.N. Filimonova), Tư duy tiểu thuyết và folkhore
hiện đại (Hoàng Ngọc Hiến), Nguyễn Huy Thiệp: những chuyện
huyền kỳ, núi, sông và nước... (Nguyễn Vy Khanh), Biển không
có thủy thần (Ðặng Anh Ðào), Nguyễn Huy Thiệp, một tài năng
mới (Diệp Minh Tuyền), Tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp (Vương
Trí Nhàn), Vì sao văn của Nguyễn Huy Thiệp ngày càng sa sút (Ma
Văn Kháng), Cái tâm và cái tài của người viết (Mai
Ngữ), Ðể đánh giá đầy đủ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp... (Ngọc
Oanh), Chữ nghĩa với tâm hồn... (Trung Phương), Một
trường hợp đang bàn cãi (Nguyễn Văn Bổng), Xung quanh sáng
tác Nguyễn Huy Thiệp (Hồng Diệu), Về hiện tượng Nguyễn Huy
Thiệp/Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, vài cảm nghĩ (Nguyễn Ðăng
Mạnh), Về mối quan hệ giữa sử và văn (Tạ Ngọc Liễn), Ði
tìm Nguyễn Huy Thiệp (Ðỗ Ðức Hiểu), Chân dung nhà văn, từ
một thế nhìn (Lê Minh Hà), Trái tim Thiệp (Sean
Jamis Rose), Nguyễn Huy Thiệp (Trần Thị Mai Nhi), Xung
quanh hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Hải Hà - Nguyễn Thị Bình).
Những bài viết này bao gồm trong đấy những đánh giá về tác phẩm, tác giả, về
chủ đề tư tưởng, hình thức nghệ thuật, thi pháp, và không ít bài mang tính
chất điểm lại lịch sử tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp, những ý kiến ngổn ngang
xung quanh hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp. Đặt các bài viết trở lại bối cảnh văn
học thời kỳ Nguyễn Huy Thiệp mới xuất hiện, chúng ta thấy vấn đề Nguyễn Huy
Thiệp đã chiếm lĩnh diễn đàn của Văn nghệ trong nhiều số, nhiều năm (suốt
quãng 1987 đến 1990) và sau đó vẫn chưa nguôi trên nhiều phương tiện truyền
thông khác.
Nguyễn Huy Thiệp thu hút và có sự phân lập khá rõ rệt
công chúng tiếp nhận. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “…nét hấp
dẫn của văn Nguyễn Huy Thiệp. Một thứ ngôn ngữ táo tợn đôi khi như là đột
nhiên lột truồng những ý nghĩ, những thèm khát mà con người ta vẫn thường có
nhưng cứ phải che che đậy đậy”(Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, tr 459), Hoàng
Ngọc Hiến thì cho rằng: “truyện của Nguyễn Huy Thiệp có ý nghĩa cảnh tỉnh sâu
xa”, Phạm Xuân Nguyên cũng khẳng định: “Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” - đó là
thành quả của đổi mới”. Ở phía phê phán ta cũng gặp những tên tuổi quan trọng
và những lời nhận xét rất đáng để suy ngẫm: Nhà văn Hồ Phương cho rằng Nguyễn
Huy Thiệp có “…cái nhìn xã hội thiên về đen tối”, Đỗ Văn Khang nhấn mạnh:
“Đặc biệt cái tâm mà không sáng thì không thể làm văn được” (Đi tìm Nguyễn
Huy Thiệp, tr 242). Mai Ngữ “kết tội” Nguyễn Huy Thiệp: “… đã lăng nhục
cha ông, tổ tiên mình” (Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, tr 426). Tạ Ngọc Liễn
phản biện trên phương diện lịch sử - văn hóa: “Việt Nam nếu đích thực là một
nước nhược tiểu… thì con cháu làm gì có được một giang sơn như ngày nay”,
“Nước ta nhỏ… mà không yếu. Những cuộc phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, đánh
Thanh… chẳng lẽ chưa đủ… là một xứ sở mạnh mẽ sao?”, “càng kỳ quặc hơn khi
cho rằng văn hóa Việt Nam (mà biểu tượng là Nguyễn Du) chỉ là đứa con hoang
của nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp đẻ ra. Tôi không nghĩ tác giả luận điểm
này là người mắc bệnh tâm thần nhưng đó không phải là sự suy tưởng của một
đầu óc lành mạnh” (Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, tr 173).
Nguyễn Huy Thiệp là tác giả thu hút được nhiều sự quan
tâm từ phía trường học. Các khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn Ths đã
chọn Nguyễn Huy Thiệp làm đối tượng để nghiên cứu. Có thể kể đến một số luận
văn: Tư duy tiểu thuyết trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn
Mạnh Hà), Đặc điểm lời văn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Lê
Thị Nguyệt Trong), Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp (Vương Thị Thanh Hiền),… Ngoài ra còn nhiều công
trình nghiên cứu khác về Tư duy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Trần
Đình Sử), Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong Văn học
Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài (La Khắc
Hòa),…
Những công
trình nghiên cứu, những báo cáo khoa học, bài báo, tạp chí, ý kiến phẩm bình,
góp ý chính là sự hình hóa sự tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp của công chúng đương
đại. Cho đến bây giờ, việc nghiên cứu Nguyễn Huy Thiệp vẫn đang diễn ra với
nhiều vấn đề mới hơn được soi chiếu từ lý thuyết phương Tây hiện đại. Sự khen
chê kỳ thực có giá trị ngang nhau trong việc làm nên sức sống của tác phẩm.
Từ lý thuyết tiếp nhận, sự phản hồi của công chúng dù theo bất kỳ khuynh
hướng nào cũng là một biểu hiện của việc văn bản đã được sống đời sống tác
phẩm của mình. Đó là điều đáng nói hơn là trăn trở về những chê bai, hay ngợi
khen nhằm hạ gục đối tượng. Tất cả đã có thời gian minh xử và không quá nếu
nói rằng trong quá trình đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, có lẽ công chúng cũng sẽ
tìm được mình.
Bảo Ninh
Bảo Ninh cũng
là một nhà văn có tác phẩm gây được sự chú ý đặc biệt trong công chúng tiếp
nhận từ ngay sau đổi mới. KhiThân phận của tình yêu ra đời (1987)
tác phẩm đã thu hút được sự chú ý của công chúng. Sau đó, trong nhiều lần tái
bản, khi thì tác phẩm mang tên Nỗi buồn chiến tranh, khi lại trở
lại tên Thân phận của tình yêu. Tuy vậy, mức độ quen thuộc của
tác phẩm trong đời sống văn học đã giúp người đọc thoải mái với sự hiện hữu
của hai tên cho một tác phẩm.
Thân phận của tình yêu - Nỗi buồn chiến tranh đã thực sự phân hóa người đọc một cách mạnh mẽ. Ở
thời điểm tác phẩm ra đời (1987), cách nhìn nhận về chiến tranh, về cuộc sống
con người trong chiến tranh, tình yêu và những diễn biến tinh thần, tình cảm
của con người, sự sống và cái chết, niềm tin và những trượt ngã, xác tín hay
sự tha hóa, những chuyển biến của xã hội,… đang đứng trước nhiều ngả hướng
khác nhau để kiếm tìm một hướng chuyển dịch. Tác phẩm của Bảo Ninh dọi một
góc nhìn từ cái nhìn thế sự thời hậu chiến quả thực đã gây nên những phản ứng
đa chiều trong lòng người. Nỗi buồn chiến tranhquả đã có một thân
phận khá truân chuyên trong đời sống văn học. Ngay từ khi mới ra đời, được
đón nhận, được trao giải thưởng Hội Nhà văn, sau đó lại bị chỉ trích, dè
chừng,… Phạm Xuân Nguyên nhớ lại ngày ấy: “Nhưng chỉ ít lâu
sau giải thưởng, cuốn tiểu thuyết này đã bị phê phán vì bị cho là thể hiện u
ám, sai lạc cuộc kháng chiến chính nghĩa và vinh quang của dân tộc. Một sự
phê phán nặng nề, gay gắt. Tiêu biểu có thể lấy ý kiến của ông Đỗ Văn Khang,
tiến sĩ mỹ học và phó tiến sĩ ngữ văn. Ông Khang phẫn nộ vì Bảo Ninh đã gọi
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là "cuộc chiến tranh Việt - Mỹ",
đã thể hiện người lính quân đội nhân dân như một lũ thất trận chứ không phải
những người mang tinh thần "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước". Nhân
vật Kiên bị ông Khang kết tội như sau: "Đó là một kẻ chiến bại, tìm cách
chạy trốn vào quá khứ để khư khư ôm lấy tâm trạng đổ vỡ mà không dám nhìn
thẳng vào những khó khăn để dồn sức làm được một cái gì đó cho ngày
mai". Sự phê phán bị đẩy tới mức mà Hội Nhà văn Việt Nam đã trao giải
thưởng cho nó nhưng rồi lại phải tự lên tiếng phủ nhận giải thưởng đó thông
qua ý kiến của một số nhà văn ở trong ban giám khảo hồi ấy. (Mãi tới đại hội
Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII năm 2005 nhà văn Nguyễn Quang Sáng từ trên diễn
đàn đại hội mới phát biểu xin lỗi nhà văn Bảo Ninh về chuyện này). Vì vậy nó
chậm được tái bản, khác với hai cuốn tiểu thuyết cùng được giải nêu trên. Cho
đến tận bây giờ tác phẩm này vẫn còn bị "kiêng kị" ở một bộ phận
độc giả hay một tầng lớp nào đó". Tuy vậy, sau hơn 25 năm từ ngày
khai sinh, Nỗi buồn chiến tranh - Thân phận của tình yêu đã
trở thành đỉnh cao trong sự nghiệp văn chương của Bảo Ninh, cũng là một tượng
đài quan trọng của văn chương Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Từ góc độ tiếp nhận, ngay từ giai đoạn đầu đổi mới, Bảo
Ninh đã thu hút được sự chú ý của công chúng. Theo tác giả Lại Nguyên Ân và
Nguyễn Thị Bình trong công trình biên soạn Đời sống văn nghệ thời đầu
đổi mới, xung quanh Bảo Ninh và Nỗi buồn chiến tranh có
rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét, phê bình. Có thể điểm ra tại đây một số
ý kiến của Nguyên Ngọc (Cuốn tiểu thuyết về một cuốn tiểu thuyết),
Đào Hiếu (Thân phận của tình yêu), Hoàng Hưng (Xin gọi đúng tên),
Hoàng Ngọc Hiến (Những nghịch lý của chiến tranh), Đỗ Văn Khang (Nghĩ
gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu?), Phạm Xuân Nguyên (Nghĩ
gì khi đọc “Nghĩ gì khi đọc Thân phận của tình yêu?”), Đỗ Đức Hiểu (Những
nhịp mạnh của tiểu thuyết Thân phận của tình yêu), Trần Duy Châu (Từ
đâu đến "Nỗi buồn chiến tranh"?), Phạm Chí Dũng (Suy nghĩ về
cái tang tóc của Nỗi buồn chiến tranh), Nguyễn Quang Sáng (Trả lời
phỏng vấn của báo Công an thành phố HCM về quyển Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh), Nguyễn Khải, Vũ Tú Nam, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Vũ Quần Phương, Nguyễn
Đình Ước, Huỳnh Khái Vinh (Trả lời phỏng vấn của báo Công an thành phố HCM
về quyển Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh), Vũ Hạnh (Khi các vị giám
khảo xét lại lá phiếu của mình), Thanh Lê (Thấm đòn qua Nỗi buồn chiến
tranh), Linh Hoà (Luận bàn về Nỗi buồn chiến tranh),… Những ý kiến
này đã nói lên sức ảnh hưởng của Nỗi buồn chiến tranh trong
đời sống văn học thời kỳ đổi mới.
Con người dường như đã tìm thấy, hay chính xác hơn đã
gặp lại mình trong những khoảng khắc, trong những trường đoạn, những cảnh
huống của Nỗi buồn chiến tranh. Khi âm hưởng hào hứng của thời kỳ
đầu đổi mới lắng dần vào chiều sâu, tác phẩm của Bảo Ninh vẫn thu hút được sự
chú ý của giới nghiên cứu và công chúng phổ thông. Trong báo cáo tổng kết đề
tài khoa học cấp Bộ: Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ
thời điểm đổi mới đến nay (Mã số: B2006-17-29, Chủ nhiệm đề tài
PGS.TS. Nguyễn Thị Bình, ĐHSP HN) tác giả đã cho rằng: “Sau Thiên sứ, Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã làm xôn xao dư luận, phân lập người
đọc rất mạnh. Những tranh cãi phức tạp, gay gắt hầu hết liên quan đến câu hỏi
“có thể viết về chiến tranh như thế nào?” (Việc Bảo Ninh lựa chọn cái hiện
thực của tâm linh, hiện thực bên trong một con người - một số phận cụ thể -
với ý thức biểu đạt chiến tranh bằng kinh nghiệm cá nhân cũng bao hàm thái độ
khước từ cách viết theo kinh nghiệm cộng đồng và do đó, không tránh khỏi gây
shock cho khá nhiều bạn đọc). Nhưng chính việc tự giác trước câu hỏi “có thể
viết tiểu thuyết như thế nào?” mới thật sự đặt Nỗi buồn chiến tranh vào
vị trí những tác phẩm có đột phá về tư duy thể loại. Nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước coi cuốn sách này cùng Phía Tây không có gì lạ của
nhà văn Đức Erich Maria Remarque thuộc số tiểu thuyết hiện đại hay nhất về đề
tài chiến tranh”. Giá trị văn học, giá trị tư tưởng, thời đại cùng nhiều vấn
đề khác đặt ra trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã
thu hút công chúng. Cũng từ sự thu hút ấy, công chúng, giới nghiên cứu, những
người quan tâm nhận ra tầm vóc của tác phẩm. Tác phẩm được giới nghiên cứu
chú ý trên nhiều phương diện: vấn đề lịch sử, không gian nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật, cảm hứng nhân văn, chất thơ, chất tự truyện, hình tượng
người lính,… Các nhà nghiên cứu đã soi chiếu Nỗi buồn chiến tranh bằng
nhiều hệ pháp: Thi pháp học/tự sự học, Phân tâm học, Liên văn bản, nghệ thuật
học,… và vẫn chưa thôi tìm kiếm những cách thức tiếp cận, giải mã mới. Trên
bình diện tổng quát, các hướng nghiên cứu, các vấn đề được đặt ra từ Nỗi
buồn chiến tranh có thể được lý giải từ các bài viết của:
Phạm Xuân Thạch (Về tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Tiểu
thuyết Việt Nam đương đại - suy nghĩ từ những tác phẩm về chủ đề lịch sử, Nỗi
buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu chiến, từ chủ nghĩa anh hùng
đến nhu cầu đổi mới bút pháp), Trần Thanh Hà (Từ phân
tâm học tìm hiểu tính hiện đại thể hiện qua tiểu thuyết "Thân phận của
tình yêu" của Bảo Ninh - Sông Hương, số 195, tháng 5/2005), Trần Quốc Hội (“Trình tự”
trong thời gian nghệ thuật của Ăn mày dĩ vãng và Nỗi buồn chiến
tranh - tiếp cận từ lý thuyết thời gian của Genette, Sông Hương, số 225, tháng 11/2007),
Thụy Khuê (Nỗi buồn chiến tranh, Sóng từ trường, Đoàn Cầm Thi (Nỗi
buồn chiến tranh: tự truyện bất thành), Trần Xuân An (Thủ pháp
“Dòng ý thức” với ám ảnh về sự thật trong “Nỗi buồn chiến tranh”, http://edu.go.vn),...
Không chỉ thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu qua các bài
viết, Nỗi buồn chiến tranh còn được sinh viên, học viên cao
học, nghiên cứu sinh chọn làm đối tượng cho công trình nghiên cứu của mình.
Điều đó cho thấy công chúng văn học ở bộ phận ưu tú rất đề cao những giá trị,
những vấn đề nơi Nỗi buồn chiến tranh.
Sức hút của Nỗi buồn chiến tranh đối
với công chúng còn được thể hiện qua việc tác phẩm được dịch ra hơn mười thứ
tiếng trên thế giới (Anh, Nhật, Ba Tư, Iran,…). Tại những nơi Nỗi
buồn chiến tranh xuất hiện, công chúng đã đánh giá rất cao tác phẩm
này. Tác phẩm đã gây được hiệu ứng rất tốt, có sức lan tỏa trong sự chú ý của
cộng đồng tiếp nhận ở Mỹ (Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh nhìn từ Mỹ -
Phạm Xuân Nguyên), được trao giải thưởng Văn học Châu Á tại Nhật Bản, giải
thưởng sách hay năm 2011,… Cùng với những hoạt động văn học, sự “săn lùng” để
xuất bản của các NXB nước ngoài, những nhà làm phim nước ngoài,… đã cho thấy
sức hút của cuốn tiểu thuyết này. Một dẫn chứng được Phạm Xuân Nguyên đưa ra
đó là tác phẩm đã được “mổ xẻ”, tìm hiểu khá kỹ càng trong trường học của Mỹ,
trong các chương trình giới thiệu văn học, được các học giả Mỹ đánh giá cao,…
Có thể nói, Bảo Ninh và Nỗi buồn chiến tranh là
một sự kiện văn học quan trọng của Việt Nam từ sau đổi mới. Thân
phận của tác phẩm trong lòng độc giả cho thấy sức ảnh hưởng, khả năng tác
động của nó đến công chúng. Trải qua hơn 20 năm, càng ngày chúng ta càng nhận
thấy dấu ấn quan trọng của Nỗi buồn chiến tranh/Thân phận của tình
yêu trong đời sống văn học nước nhà.
Nguyễn Bình Phương
Nguyễn Bình Phương cũng là một hiện tượng rất đáng chú ý
trong đời sống văn học Việt Nam sau đổi mới. Có sáng tác
ngay từ những ngày đầu đổi mới, Nguyễn Bình Phương hiện diện trên cả thể loại
thơ, truyện ngắn và tiểu thuyết, tàn văn.
Nguyễn Bình
Phương thu hút sự chú ý của công chúng bởi sự mới lạ trong phương cách tư duy
và thực hành nghệ thuật của anh. Xuất hiện trên văn đàn, dù ở thể loại thơ,
truyện ngắn hay tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phương cũng làm xôn xao đời sống văn
học. Công chúng tìm đến thơ, truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương để
thể nghiệm một đời sống trong nghệ thuật với những khám phá vừa rất riêng
biệt của tác giả nhưng lại mang đầy tính phổ quát của cuộc đời và nhân sinh.
Giới nghiên cứu, phê bình đã chú ý đến những vấn đề thuộc về phong cách, thi
pháp cũng như hệ đề tại mà Nguyễn Bình Phương quan tâm. Điểm lại những khám
phá của học giới đối với tác giả này, có thể nhắc đến: Thụy Khuê (Thoạt kỳ
thủy trong vùng đất Cậm Cam hoang vu của Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Bình
Phương - Sóng từ trường II, Thế tĩnh tọa trong tác phẩm Ngồi
của Nguyễn Bình Phương), Phạm Xuân Thạch (Tiểu thuyết như là trạng
thái tìm kiếm ý nghĩa của đời sống - Văn nghệ, số 45, 11/11/2006),
Đoàn Cầm Thi (Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên (Đọc 'Thoạt kỳ thủy'
của Nguyễn Bình Phương - http://evan.vnexpress.net, Người đàn bà nằm:
từ “Thiếu nữ ngủ ngày”, đọc Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương (chuyên đềTình yêu và tình dục trong văn chương),
Dương Kiều Minh (Thơ ca và cuộc kiếm tìm có tên Nguyễn Bình Phương),
Đỗ Ngọc Thạch (Một vài đặc điểm văn xuôi hiện đại), Hoàng Cẩm Giang (Vấn
đề không gian - thời gian và sự xóa nhòa những đường biên trong tiểu thuyết
Việt Nam đầu thế kỷ XXI, http://www.hcmup.edu.vn),
Đoàn Minh Tâm (Nguyễn Bình Phương - Một hồn thơ “tinh quái” (Đọc “Buổi
câu hờ hững”, thơ Nguyễn Bình Phương, NXB Văn học, 2011, http://tapchinhavan.vn, Những
chấn động nhục cảm trong văn học gần đây, http”//nhavantphcm.com.vn), Lê
Hồ Quang (Đọc thơ Nguyễn Bình Phương), Nhã Thuyên (Chiếc áo sơ mi khoác hờ lên
bóng đêm/là anh đấy),
Hoàng Nguyên Vũ (Một lối đi riêng của Nguyễn Bình Phương, http://nld.com.vn),... Nhiều những bài viết
khác đề cập đến vấn đề ngôn ngữ, giọng điệu, thế giới nhân vật, hiện thực
trong tác phẩm Nguyễn Bình Phương. Cũng rất đáng chú ý là những luận văn Ths
và khóa luận tốt nghiệp đại học chọn tác phẩm của Nguyễn Bình Phương làm đối
tượng nghiên cứu.
Dù là thơ hay truyện, thế giới nghệ thuật Nguyễn Bình
Phương thường hiện lên như là một huyễn ảo, một giấc mơ, một sự vỡ ra của
tưởng tượng. Từ những tiểu thuyết Vào cõi, Những đứa trẻ chết già,
Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy, Ngồiđến các tác phẩm thơ
như Xa thân, Lam chướng, Buổi câu hờ hững, một số
truyện ngắn đăng trên báo (Đi, Dành dụm,…), Nguyễn Bình Phương đã
khiến công chúng không thể không nhắc đến mình khi nói về văn chương đương
đại. Dĩ nhiên, cũng như nhiều tác giả nổi bật khác, cá tính nghệ thuật cũng
như những “sáng tân” của Nguyễn Bình Phương đôi khi cũng vấp phải sự “kháng
cự” từ những hệ hình mỹ cảm truyền thống. Vấn đề nhục cảm, sex trong tác phẩm
Nguyễn Bình Phương có lẽ là thu hút được nhiều nhất những phản hồi đa chiều
từ công chúng. Truyền thống vốn chưa dung nạp được những quan niệm mới, vì
thế, phản ứng là điều có tính tất yếu, thường tình. Bộ phận độc giả phổ
thông, chiếm số đông vẫn chủ yếu tiếp nhận văn học bằng mỹ cảm truyền thống
(người đọc tiền hiện đại), ưa thích hay không, thấy hay hoặc dở,…phần nhiều
đều phát xuất từ những ấn tượng hết sức đời thường. Tuy nhiên, từ những
nghiên cứu, những bài viết của học giới, báo chí, đã cho thấy chân dung của
Nguyễn Bình Phương trong đời sống văn học và trong lòng công chúng đương đại.
Vi Thùy Linh
Vi Thùy Linh là một hiện tượng thơ trẻ nổi bật của nền
thơ ca đương đại Việt Nam.
Xuất hiện lần đầu tiên năm 1995 với những bài thơ đăng báo Văn nghệ sau
đó là tập Khát (NXB Hội Nhà văn 1999), Linh (NXB
Thanh niên, 2000), Đồng tử (NXB Văn nghệ, 2005), ViLi
in love (NXB Văn nghệ TP HCM, 2008), Phim đôi - tình tự chậm (NXB
Thanh niên, 2011), Chu du cùng ông nội (NXB Kim Đồng,
2011),… Vi Thùy Linh đã thu hút rất nhiều giấy mực, tâm trí của công chúng và
giới nghiên cứu, phê bình.
Vi Thùy Linh là một hiện tượng thu hút được khá nhiều sự
chú ý từ công chúng. Với những gì mà tác giả trình hiện, từ thơ ca đến hiện
thực đời sống và những tuyên ngôn, phát biểu bên ngoài thơ, Vi Thùy Linh quả
thực đã làm cho đời sống thơ ca đương đại trở trở nên sôi nổi hơn. Chỉ riêng
ở khía cạnh tiếp nhận thơ, có thể thấy hai hướng phân lập rất rõ: khen ngợi,
tôn vinh khẳng định và phủ nhận, phê phán, tẩy chay.
Trong hướng đón nhận, động viên, ngợi ca, tôn vinh thơ
Vi Thùy Linh, ta có thể điểm ra đây những tên tuổi: Nguyễn Trọng Tạo (cuối
tập Khát, tái bản 2007), Nguyễn Huy Thiệp (Hiện tượng Vi Thùy Linh),
Trần Đăng Khoa (Đọc lại Vi Thùy Linh), Vũ Mão (Lời giới thiệu Đồng
Tử), Phạm Xuân Nguyên (Người “tận lực tham ô
tuổi trẻ” để sống
thơ), Thanh Thảo (Một
ước mơ dữ dội: làm mẹ), Dương Tường (nhận định đầu tập Đồng Tử),
Nguyễn Việt Chiến (Thơ Vi Thùy Linh cơn cuồng lưu từ những mê-lộ-chữ),
Nguyễn Đăng Điệp (Màu yêu trong đồng tử thơ Linh), Lưu Khánh Thơ (Vi Thùy
Linh phiêu du cùng "Phim đôi tình tự chậm"), Chu Văn Sơn (Vi Thùy Linh thi sĩ
ái quyền), Văn Giá (Vi Thùy Linh - Những trận bạo động chữ), Thụy
Khê (Vi Thùy Linh, nhục cảm sáng tạo), Trần Thiện Khanh (Vili là
ai?), Nhã Thuyên (Thơ nữ: giới là một vấn đề), Nhụy Nguyên (Tìm
tòi và cách tân một lối thẩm thơ), Nguyễn Thị Mai Anh (Luận văn Thạc
sĩ: Thơ trẻ Việt Nam đương đại qua 3 tác giả Vi Thùy Linh, Phan Huyền
Thư, Ly Hoàng Ly)… Nhìn chung, những bài viết này đại diện cho dòng ý
kiến đánh giá cao những thực hành nghệ thuật của Vi Thùy Linh. Trên tinh thần
chung, những lời chào đón, tôn vinh, khích lệ cho thấy những nỗ lực ghi nhận
dấu ấn của Vi Thùy Linh trong nền thơ đương đại Việt Nam. Trong đó
đáng kể nhất vẫn là những diễn ngôn hình hóa chân dung nghệ thuật Vi Thùy
Linh (ái quyền, nữ quyền, tính nữ, tự yêu mình và tòng thuộc nam quyền,…).
Cùng với đó là những phân định bước đầu về cách thức biểu đạt mỹ cảm và tư
duy của Vi Thùy Linh. Thực tế, Vi Thùy Linh đã được nghiên cứu trên nhiều
bình diện: thi pháp học, phong cách học, ngôn ngữ học, hậu cấu trúc luận và
cả phân tâm học… Công chúng phổ thông hẳn không có sự giới thuyết nào trên cơ
sở lý thuyết về hiện tượng Vi Thùy Linh, tuy nhiên, những đặt định của giới
nghiên cứu cũng có thể nói hộ nhiều ấn tượng của công chúng đại chúng.
Hướng thứ hai trong tiếp nhận Vi Thùy Linh chính là sự phủ
nhận, phê phán, thậm chí tẩy chay hiện tượng này. Điểm qua những tên tuổi
trên “mặt trận” này, có thể gặp những bài viết của Trần Mạnh Hảo (Từ “thơ
vọt trào” đến hội chứng khen trào vọt: “Cứ tiếp tục đanh đá, lắm lời, cứ xổ
hết ra đi!”), Chu Thị
Thơm (Khi nhục cảm đã vượt qua con chữ -
GD&TĐ số 27 ngày 3 - 3 - 2001), Nguyễn Thanh Sơn (Linh ơi), Nguyễn
Hoàng Đức (Sự khả tín, khả ngờ về “hiện tượng thơ mới - trẻ thứ thiệt),
Nguyễn Trọng Bình (Văn chương trẻ - rất cần một chiều sâu và tầm nhìn văn
hóa; Thơ Vi Thùy Linh - “Những trận bạo động… tình; Thử
bàn về trách nhiệm của “người đi trước” qua trường hợp Vi Thùy Linh... Ngoài ra cũng có thể kể đến một số
bài viết của Trần Wũ Khang, Lê Thị Huệ, Nguyễn Mạnh Trinh,
Hoàng Anh Tuấn,… Có
thể nói, ở hướng tiếp nhận này, sự “nồng nhiệt” cũng không thua kém, khi mà
Nguyễn Hoàng Đức, Hoàng Xuân Tuyền, Chu Thị Thơm, Nguyễn Thanh Sơn… đã phê
phán Vi Thùy Linh một cách hết sức nặng nề. Theo Nguyễn Thanh Sơn, trong
thơ Linh đầy những từ ngữ to tát, những đại ngôn, hàm ngôn, những diễn dịch
tối nghĩa. Đó là sản phẩm của “mặc cảm chưa thành người lớn”. Nguyễn Thanh
Sơn quả quyết “Dù rằng ngôn ngữ có vẻ hiện đại, chất đầy những phần
mềm, cập nhật, mã hoá, nhưng không vì thế mà rõ ràng hơn, và nhất là,
hay hơn”. Từ chối gọi những
dòng như thế trong thơ Linh là thơ, Nguyễn Thanh Sơn hy vọng những sáng tác
sau trên con đường thi ca của Vi Thùy Linh sẽ hạn chế dần đại ngôn sáo rỗng
và có được những vẫn thơ chân thành, có giá trị.
Một trong những ý kiến phản đối mạnh mẽ nhất là Nguyễn
Hoàng Đức với bài viết Sự khả tín, khả ngờ về “hiện tượng thơ mới -
trẻ thứ thiệt. Sự phủ bác, biếm trích là tâm thế bao trùm bài tranh luận
của nhà nghiên cứu này. Tác giả tỏ ra nghi ngờ “ống phóng” Nguyễn Trọng Tạo,
người đã “có công” phát hiện ra hiện tượng Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải,…
Hai hướng tiếp
nhận Vi Thùy Linh được phân lập trong đời sống thơ ca đương đại (có lẽ cũng
nên hình dung thêm một hướng khác đó là thái độ dè chừng, im lặng quan sát
hay bộc lộ sự “nửa vời” trong tiếp nhận các hiện tượng văn học mới) đã nói
lên diễn biến tinh thần, thái độ của công chúng đối với Vi Thùy Linh. Sẽ cần
thời gian cho hiện tượng thơ ca này và bài toán vẫn còn chưa có lời giải cuối
cùng, công chúng vẫn tiếp tục đồng hành cùng văn học, với những đánh giá đa
dạng, nhiều chiều, làm nên đời sống văn học sinh động, giảm bớt những ám ảnh
về sự ảm đạm của tiếp nhận thơ ca những năm gần đây.
Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976 ở tỉnh Cà Mau. Đây là một
cây bút trẻ của văn đàn Việt Nam và là hiện tượng nổi bật
của văn chương 10 năm đầu thế kỷ XXI.
Xuất hiện trên văn đàn năm 2000 với
truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, Nguyễn Ngọc Tư ngay lập tức thu
hút được sự chú ý của công chúng. Với truyện ngắn này, Nguyễn Ngọc Tư đã nhận
được Giải Nhất trong Cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần
II. Công chúng càng quan
tâm nhiều hơn đến cô gái miền Tây này khi truyện ngắn Cánh đồng bất
tận ra đời. Có thể nói đây là tác phẩm làm nên tên tuổi Nguyễn Ngọc
Tư.
Giai đoạn trước khi Cánh đồng bất tận ra
đời, công chúng yêu mến Nguyễn Ngọc Tư bởi chất thuần hậu, dân dã, nhẹ nhàng
của nông thôn Nam Bộ. Nhưng, khi đến Cánh đồng bất tận, cũng là
lúc những luồng ý kiến trái chiều xuất hiện. Sự đồng tình, tán dương, khẳng
định cũng có mà sự phê phán, tẩy chay cũng có. Văn đàn Việt Nam năm 2005
(năm Cánh đồng bất tậnđược đăng trên báo Văn nghệ,
năm 2006 tác phẩm đạt giải của Hội Nhà văn) sôi nổi với những tranh luận về
hiện tượng Nguyễn Ngọc Tư. Những ý kiến ủng hộ chủ yếu xoay quanh việc tán
thành cái nhìn sắc sảo, chân thực đến mức trần trụi, quyết liệt của Nguyễn
Ngọc Tư, phía phê phán lại xoáy vào những chi tiết bi quan về thân phận con
người, sự đổ vỡ niềm tin hay cái nhìn tiêu cực,… Cũng có độc giả tiếc nuối
một Nguyễn Ngọc Tư thuần hậu, dịu dàng thuở Ngọn đèn không tắt. Quả
thực, sự chuyển đổi đột ngột về phong cách từ Ngọn đèn không tắt sang Cánh
đồng bất tận đã gây nên cơn sốt trong đời sống văn học.
Nhìn lại dư
luận về Cánh đồng bất tận, ta hiểu rõ tại sao Nguyễn Ngọc Tư trở
thành hiện tượng văn học nổi bật của khoảng 10 năm đầu thế kỷ XXI. Sự tiếp
nhận của công chúng hết sức đa dạng: Vũ Long - 70 tuổi, cán bộ hưu trí (Nguyễn
Ngọc Tư cho ta một góc nhìn khác), Nguyễn Văn A (Kết Cánh đồng bất tận
có hậu và có tính toán), Nguyễn Ngọc Cảnh (Bất ngờ cho Cánh đồng bất
tận), Chu Tước (Cánh đồng bất tận quá thành công), TT Huynh (Một
cây bút trẻ nhưng không hề non tay), Tương Lai (Phản đối cách nhìn
nhận trong Cánh đồng bất tận), Xuân Khoa (Đã đến lúc không còn chỗ cho
những tác phẩm sáo rỗng), Nguyễn Tuân (Cánh đồng bất tận hay và không
hay), NCC (Cánh đồng bất tận không gợi mở sự vươn lên), Lê Huy (Cánh
đồng bất tận chỉ là một tác phẩm), Hồ Văn Can (Cứ bị kiểm điểm như vậy
thì chẳng ai dám viết văn nữa), Hoàng Anh Thi (Văn học ca ngợi cái
tốt, cũng phải phê phán cái xấu), Lý Quốc Nam (Kết của Cánh đồng bất
tận rất đời), lien trang nguyen (Kết của Cánh đồng bất tận thiếu tính
nhân bản), Nguyễn Bá Hùng (Văn Ngọc Tư không đại ngôn, không màu mè),
Lê Sĩ Quang (Tài tình gì ở một cái kết như vậy), huypham (Đọc Cánh
đồng bất tận để nhìn thẳng vào sự thật), Lê Thu (Cánh đồng bất tận
hoàn toàn vô hại), Vo Nam Linh (Nên hạn chế đối tượng đọc Cánh đồng
bất tận), Lê Duy (Vì sao không thử tiếp nhận những làn sóng văn học
mới), Trần Thị Hồng Thanh (Không nên gắn cái nhìn tiêu cực vào trẻ con),…
Theo thống kê của http://tuoitre.vn, sau năm
ngày mở ra diễn đàn Đối
thoại về Cánh đồng bất tận, tính đến chiều 12/4/2006 đã có 868 bạn đọc tham gia góp ý
kiến, viết bài bày tỏ thái độ của một người đọc sách. Trong đó có 13 phê
phán/855 ủng hộ tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư. Đây là biểu hiện cụ thể nhất của
sự tiếp nhận Nguyễn Ngọc Tư trong bộ phận công chúng phổ thông.
Ở bộ phận “độc giả tinh anh”, tình hình tiếp nhận Nguyễn
Ngọc Tư cũng khá sôi nổi. Ở địa hạt này, có thể gặp Trần Hữu Dũng (Nguyễn
Ngọc Tư - đặc sản miền Nam), Huỳnh Công Tín (Nguyễn Ngọc Tư - Một nhà
văn trẻ Nam bộ) Thụy Khuê (Không gian sông nước trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư), Phạm Xuân Nguyên (Cánh đồng bất tận: dữ dội và nhân
tính), Đoàn Thị Cảnh (Đọc 'Gió lẻ' nhớ Jean Paul Sartre
và Albert Camus),
Hoàng Đăng Khoa (Cánh đồng bất tận - từ góc nhìn nữ quyền luận), Hà
Ngọc Yến (Đối chiếu các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư), Ngô My (“Gió lẻ” không chịu
ảnh hưởng của J.P. Sartre và A. Camus), Dạ Ngân (Nguyễn Ngọc Tư, điềm đạm mà thấu đáo), Mai
Hồng (Thời gian huyền thoại trong truyện ngắn cánh đồng bất tận của Nguyễn
Ngọc Tư), Phạm Thái Lê (Hình tượng con người cô đơn trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư)… Nguyễn Ngọc Tư cũng trở thành đối tượng của các luận văn
và khóa luận tốt nghiệp. Các vấn đề về nhân vật, chất trữ tình trong truyện
ngắn, cảm hứng nhân văn, phương ngữ Nam Bộ, những dấu vết của nữ quyền luận,
chủ nghĩa hiện sinh trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư đã được bàn đến trong những
bài viết vừa nêu.
Có thể nói,
Nguyễn Ngọc Tư là một hiện tượng nổi bật trong đời sống văn học sau đổi mới,
nhất là khoảng 10 năm đầu thế kỷ XXI. Công chúng đại chúng và công chúng tinh
anh đã có những ý kiến, quan điểm trái ngược nhau. Điều đó là những động thái
tốt cho một nền văn học đang chuyển mình đổi mới.
Đỗ Hoàng Diệu
Đời sống văn học đương đại Việt Nam còn
có dịp rộ lên xung quanh tác phẩm Bóng đè của nhà văn nữ Đỗ
Hoàng Diệu. Năm 2005 quả thực là một năm rộn ràng của văn chương Việt. Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh và một số cây bút nữ khác đã khuấy động
sự im ắng của văn chương. Bóng đè ra đời năm 2005 và kéo
theo nó một chuỗi những bàn thảo, tranh luận. Nhìn chung, có hai luồng ý
kiến: khen ngợi, đánh giá cao và phê phán, đả kích. Mọi vấn đề của tác phẩm:
nội dung tư tưởng, đề tài, dục tính, ẩn dụ vực thẳm, ám ảnh và tưởng tượng,
người phụ nữ,… được công chúng chú ý và bàn bạc, tranh luận. Không chỉ bàn về
tác phẩm, ý kiến của công chúng còn liên quan tới tác giả, cuộc đời tác giả,
nhân cách, đạo đức, lối sống và nhiều thứ khác ngoài văn học. Ở hướng khen
ngợi, đánh giá tốt sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu có thể gặp những tên tuổi
như: Dương Tường, Nguyên Ngọc, Nguyễn Việt Hà, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Mậu Hùng Kiệt,
Phạm Toàn, Đông La, Phạm Ngọc Tiến,… Theo nhận định của Phạm Xuân Nguyên
“… truyện ngắn Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu đang gây hai luồng
trái ngược nhau. Tôi phải nói ngay, với tôi, đây là một truyện
ngắn hay, hay cả ở cách viết và nội dung. Trong tâm thế, tâm
thức giải mã lịch sử và truyền thống Việt, một xu hướng đã được dấy lên từ
thời văn học đổi mới, Đỗ Hoàng Diệu đã tạo được một hình tượng “bóng đè” đầy
ám ảnh và dằn vặt” (Tác phẩm hay: phải hết mình - hay là điều kiện cần và
đủ để có tác phẩm hay). Phạm Toàn cũng đưa ra nhận định của mình: “truyện
ngắn Ðỗ Hoàng Diệu có cách biểu đạt phóng túng hơn, gần gụi hơn với cách đọc
của lớp bạn đọc trẻ. Người ta nhắc nhiều đến lối sử dụng ẩn dụ tình dục để
biểu đạt những tâm trạng mang những nội dung xã hội” (Thử phân giải một
thành công nghệ thuật qua tập truyện ngắn Bóng đè),…
Ở hướng ngược lại phải đặc biệt kể đến Nguyễn Thanh Sơn
(Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu), Bùi Tân Uyên (Một trận Bóng đè tan nát
văn chương),… Nguyễn Thanh Sơn quả đã không tiếc lời “mạt sát” Đỗ Hoàng
Diệu và Bóng đè. Ngoài đời, tình cảm của hai người rất tốt, nhưng
câu chuyện văn chương và cuộc đời khác nhau chỗ ấy. Chính Đỗ Hoàng Diệu cũng
nhận thấy rằng Nguyễn Thanh Sơn có những lời rất ác. Nhưng họ không giận nhau.
Nguyễn Thanh Sơn cho rằng: “Đỗ Hoàng Diệu là nhà văn của một nền văn chương
già nua đang hấp hối… Đỗ Hoàng Diệu là nhà văn đại diện cho một lớp người trẻ
lười biếng không mang trong mình một phông văn hoá nào đủ mạnh… Đỗ Hoàng Diệu
viết về tình dục, trong cái nghĩa thấp kém của từ này…. Những truyện ngắn của
Đỗ Hoàng Diệu chỉ vật vã trong sự huyễn hoặc ích kỷ về bản thân, một bản thân
không có chiều sâu của cả văn hoá lẫn tình cảm” (lược dẫn từ bài viết của
Nguyễn Thanh Sơn - Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu). Còn Bùi Tân Uyên
thì cho rằng: “Tiếc thay đọc Bóng đè và một số truyện khác
của Đỗ Hoàng Diệu, người ta thấy những “thông điệp” cô muốn gửi gắm chỉ giống
như một thứ “chửi xéo”, những ‘trái nổ” được đặt theo kiểu “gài mìn” của
những người bị cấm bút thời bao cấp. Và còn lâu Đỗ Hoàng Diệu mới đạt được
mong muốn như cô nói, người ta vẫn chỉ thấy “lông lá của những con vật” còn
hồn vía của chúng vẫn vật vờ cõi âm ti địa ngục nào đó”(Một trận Bóng đè
tan nát văn chương).
Đỗ Hoàng Diệu
và Bóng đè, Vu Quy, Dòng sông hủi… thực sự đã đem lại một sự sôi
động cho văn đàn Việt Nam đương
đại. Tại thời điểm tác phẩm ra đời, nó đã thu hút được sự chú ý của công
chúng. Khen chê là lẽ đương nhiên trước những hiện tượng văn học như vậy.
Công chúng văn học vẫn tìm đọc Bóng đè - bị bóng đè, dù có
nhận ra hay không nhận ra/thừa nhận hoặc không thừa nhận ẩn dụ tính của tác
phẩm.
Đổi mới là sự kiện trọng đại để chúng
ta có được những hiện tượng văn học khiến văn đàn phải xôn xao, công chúng
phải chú ý, báo chí phải tốn nhiều giấy mực… Nhìn lại chặng đường hơn 25 năm
qua, chúng ta thấy không chỉ có Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Bình
Phương, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Vi Thùy Linh mà còn có Ma Văn Kháng,
Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Duy, Mai Văn Phấn, Phan Huyền Thư và nhiều những tên
tuổi khác cùng các thể nghiệm nghệ thuật đã làm rộn ràng đời sống văn học.
Trong những giới hạn có thể của việc khảo sát, điểm lại tình hình tiếp nhận
một số hiện tượng nổi bật của văn chương Việt Nam sau đổi mới là thao tác có
tính tương đối, nhằm nhận diện một số điểm nhấn của văn học giai đoạn này.
Công chúng bao giờ cũng thế, đó là một hợp thể những thị hiếu thẩm mỹ, nhu
cầu văn hóa hết sức đa dạng. Trong bối cảnh xã hội đổi mới, những cánh cửa
được mở ra, những chân trời mới được vẫy gọi, cái mới/lạ là câu chuyện dễ thu
hút con người. Các hiện tượng văn học trên cũng thế, nghĩa là họ đã được quan
tâm, chú ý bởi chính cái mới mẻ, lạ lẫm mà họ trình hiện trên văn đàn đổi
mới. Khen chê là điều tất yếu trong cơ chế tiếp nhận của công chúng khi các
giá trị không tìm được tiếng nói đồng thuận. Con đường đi lên của văn học
phải chấp nhận điều đó như một quy luật. Quy luật của sự sinh thành và phát
triển./.
Nguồn: Tổ Quốc
|
Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013
DIỄN ĐÀN VĂN NGHỆ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét