Menu ngang

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2014

  NGUYỄN VĂN HIẾU (1746-1835)
  VỊ QUAN THANH LIÊM

                                                          

  Cương quốc công Nguyễn  Xí : Tộc phả - Di huấn - Phụ lục (tái bản và nâng cấp) do Hội đồng Gia tộc Đại tôn Nguyễn Đình biên soạn, Nhà xuất bản Nghệ An ấn hành năm 2013 là tập sách quí viết về truyền thống lịch sử hơn 600 năm của một dòng họ lớn, Thủy tổ là Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí. Trong tập sách có bài Thượng Xá cựu Lê công thần Nguyễn tộc phổ ký (Bản tộc phả của họ Nguyễn Công thần ở Thượng Xá thời cựu Lê), tác giả là Nguyễn Văn Hiếu. Bản tộc phả ký với áng văn chương sâu sắc, trữ tình nói lên tấm lòng, cảm xúc của tác giả về dòng tộc, quê hương - đặc biệt về Thủy tổ của mình.
 Nguyễn Văn Hiếu là ai?
Theo Gia phả họ Nguyễn Đình: Tín đạt đại phu Nguyễn Phúc Xà là con trai thứ 11 của Thái sư Cương quốc Nguyễn Xí, sinh ở Thăng Long, lớn lên từng theo vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành khi chúng gây rối bờ cõi phía Nam nước Đại Việt. Sau thắng lợi, ông được cử giữ chức Trẩn thủ trấn Quảng Nam (bao gồm vùng đất từ Đà Nẵng đến Tuy Hòa), lấy vợ và định cư tại đây.
Cũng theo Gia phả đó, thì: Nguyễn Văn Hiếu, tước Hiếu Thuận hầu, là cháu đời thứ 12 của Nguyễn Xí, cháu đời thứ 11 của Nguyễn Phúc Xà, làm quan dưới triều Gia Long, Minh Mạng. Trong thời gian được Triều đình điều ra giữ chức Trấn thủ Nghệ An, năm 1816, Nguyễn Văn Hiếu đã tìm về thăm quê cha đất tổ ở làng Thượng Xá (nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) và đã viết bản tộc phả ký bằng chữ Hán, theo thể phú.
 Sử cũ ghi lại rằng, Nguyễn Văn Hiếu sinh năm 1764 tại huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Tiếng là con trai của Chưởng y cấm vệ Nguyễn Văn Đán nhưng gia đình ông rất nghèo. Thuở nhỏ, Nguyễn Văn Hiếu phải đi cắt cỏ thuê để kiếm sống. Lớn lên, ông theo nghiệp binh, lần lượt được giao đảm nhiệm các chức: Hữu quân Phó tướng, Lưu thủ Bình Định, Trấn thủ các trấn: Sơn Nam Hạ (Nam Định), Thanh Hoa (Thanh Hóa), Nghệ An, được phong Đô thống trung doanh quân Thần sách.

                  Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Văn Hiếu có nhiều công lớn. Năm Đinh Hợi (1827), ông được cử đi làm Kinh lược sứ ở Nam Định. Chỉ trong hai tháng, ông và các quan đã xử lý hàng loạt các quan lại vùng này tham nhũng, ức hiếp dân chúng, ổn định tình hình, được Vua Minh Mạng khen ngợi. Đến tháng 11 năm 1831, khi tỉnh Hà Nội được thành lập, Nguyễn Văn Hiếu được bổ làm Tổng đốc Hà - Ninh. Từ tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1832), ông còn kiêm chức Tuần phủ Hà Nội - ông là quân đầu tỉnh đầu tiên của Hà Nội. Đến tháng Bảy cùng năm, được triệu về Kinh; được thăng Tả quân Đô thống phủ, Chưởng phủ sự, tước Lương Năng bá.
              Nguyễn Văn Hiếu có chính sự tốt, làm quan ở đâu cũng cần mẫn, quả quyết, thận trọng trong việc dùng quyền hành, sâu sát với thực tế. Trong thời gian làm Tổng đốc Hà - Ninh kiêm Tuần phủ Hà Nội, ông có bốn đề xuất đối với tỉnh, được Vua Minh Mạng khen ngợi và cho thực thi; trong đó, quan trọng nhất là cho dời lỵ sở của phủ Hoài Đức ở phố Phủ Doãn nhỏ hẹp về Dịch Vọng thuộc huyện Từ Liêm (nay là khu vực Học viện Báo chí tuyên truyền thuộc quận Cầu Giấy). Khi Nguyễn Văn Hiếu mất, Vua Minh Mạng rất thương xót, cho thực thụ chức Tả quân phủ Đô thống, Chưởng Phủ sự, cấp cho 1000 quan tiền, sai quan đến tế. Năm Tự Đức thứ ba (Canh Tuất, 1850), ông được đưa vào thờ ở miếu Trung hưng công thần.
                Nguyễn Văn Hiếu là người khiêm tốn, giản dị, đối đãi với mọi người hòa nhã, lại hay nghiêm trị các lại dịch làm bậy khiến họ phải kính sợ; được dân tin yêu, cả những kẻ trộm cướp cũng phải nể sợ.
             Nguyễn Văn Hiếu còn nổi tiếng là người thanh liêm. Ông nghiêm cấm người nhà không được tự tiện giao thiệp với người ngoài. Hàng năm vào dịp Tết, các quan lại dưới quyền và dân chúng mang tiền đến biếu xén nhưng ông đều từ chối. Vì ông sống thanh liêm nên cửa nhà rất bình thường; lương bổng của ông chỉ đủ chi tiêu, vợ ông nhiều lần đem việc đó than phiền, nhưng ông chỉ cười mà bảo rằng : “Phu nhân không nhớ lúc còn cắt cỏ ư? Lấy nay so với xưa gấp hai, gấp năm như thế, lại muốn lấy của bất nghĩa để làm giàu ư?”. Từ đó, vợ ông không dám nói đến lợi lộc nữa.
            Sự thanh liêm của Nguyễn Văn Hiếu được biểu hiện cụ thể nhất qua câu chuyện vào dịp giáp Tết năm Quý Mùi đời vua Minh Mạng (năm 1823), khi ông đang là Trấn thủ Thanh Hoa, có viên thổ ty xin đến nhà ông để “yết kiến”. Khi bàn xong xuôi công việc, viên thổ ty trình ra trước mặt Nguyễn Văn Hiếu một lễ rất hậu, gọi là “của núi rừng”, xin được biếu và mong quan Trấn thủ vui lòng nhận, nhân dịp Tết cổ truyền sắp đến. Song, Nguyễn Văn Hiếu ôn tồn khước từ, bắt mang về. Sau khi Nguyễn Văn Hiếu đã vào nhà, viên thổ ty còn đang lừng chừng đứng trước cửa nhà thì tên đầy tớ nhà bếp lẻn ra dọa nạt, lấy lại một nửa phần lễ.
            Qua Tết ít ngày, Nguyễn Văn Hiếu mới được biết chuyện tên đầy tớ làm chuyện ăn chặn. Ông rất giận, lập tức cho gọi ra tra hỏi. Tên đầy tớ thú nhận tất cả. Nguyễn Văn Hiếu liền lôi y ra chém. Người nhà và các quan lại dưới quyền đang có mặt tại nhà ông khi đó ra sức can ngăn cũng không được. Sau đó, Nguyễn Văn Hiếu dâng Sớ lên vua Minh Mạng xin chịu tội. Vua cho rằng, Nguyễn Văn Hiếu làm như vậy để khuyến khích việc thanh liêm là đúng, nhưng lại tự tiện đem giết tên đầy tớ là phạm luật, nên giáng ông ba cấp; song vẫn cho ông được lưu chức.
            Sách Gò Công xưa chép:
...Ông Hiếu tuy xuất thân võ biền, nhưng có phong thái của một nho thần. Một lần, các vị tân khoa đến nhà chào, ông tiếp đãi rất ân cần, rồi nói rằng: "Mười năm đèn sách mới có ngày nay, tôi xin mừng cho các thầy. Nhớ ngày sau được bổ dụng làm quan, cũng nên giữ gìn như lúc tân khổ, chớ có xa xỉ quá để mang tiếng xấu cho thân danh, và phụ ý tốt (tuyển chọn nhân tài) của triều đình".
Khi làm quan, ông được dân thương mến, lại nghiêm trị thuộc lại, nên họ đều sợ. Trong hạt nhiều trộm, ông Hiếu đến, bọn trộm bảo nhau rằng: Ông Trấn thủ là người nhân huệ, ta phải tránh đi...".

                    Dưới triều Minh Mạng, có lần cùng các đồng liêu xét án. Thấy có tên trộm đã thú tội rồi, mà vẫn còn bị tra tấn. Ông Hiếu chậm rãi nói:

"Chúng nó vì cùng cực nên phải làm việc gian phi, đêm khuya xoi tường khoét vách, khó nhọc mới lấy được tiền người ta. Nay nó đã nhận tội, thì cứ chiếu theo luật mà trị, hà tất phải vẽ vời thêm làm gì? Thử hỏi: Ở các nha môn, có những kẻ trên nhà cao, ngồi nệm, dựa gối; giữa ban ngày, vẫy ngòi bút mà làm tiền người ta không chút khó nhọc, các người ấy sánh với bọn ăn trộm kia, tội ai nặng hơn?"

                   Nghe ông nói, ai nấy đều giật mình.

                                                                          Sưu tầm, biên soạn ngày 5/3/2014
                                                                                             NMĐ







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét