NGUYỄN VĂN HIẾU (1746-1835)
VỊ QUAN THANH LIÊM
Cương quốc công Nguyễn Xí : Tộc phả - Di huấn - Phụ lục (tái bản
và nâng cấp) do Hội đồng Gia tộc Đại tôn Nguyễn Đình biên soạn, Nhà xuất bản
Nghệ An ấn hành năm 2013 là tập sách quí viết về truyền thống lịch sử hơn 600
năm của một dòng họ lớn, Thủy tổ là Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí. Trong
tập sách có bài Thượng Xá cựu Lê công thần
Nguyễn tộc phổ ký (Bản tộc phả của họ Nguyễn Công thần ở Thượng Xá thời cựu
Lê), tác giả là Nguyễn Văn Hiếu. Bản tộc phả ký với áng văn chương sâu sắc, trữ tình nói
lên tấm lòng, cảm xúc của tác giả về dòng tộc, quê hương - đặc biệt về Thủy tổ
của mình.
Nguyễn Văn Hiếu là ai?
Theo
Gia phả họ Nguyễn Đình: Tín đạt đại phu Nguyễn Phúc Xà là con trai thứ 11 của Thái
sư Cương quốc Nguyễn Xí, sinh ở Thăng Long, lớn lên từng theo vua Lê Thánh Tông
đi đánh Chiêm Thành khi chúng gây rối bờ cõi phía Nam nước Đại Việt. Sau thắng
lợi, ông được cử giữ chức Trẩn thủ trấn Quảng Nam (bao gồm vùng đất từ Đà Nẵng
đến Tuy Hòa), lấy vợ và định cư tại đây.
Cũng
theo Gia phả đó, thì: Nguyễn Văn Hiếu,
tước Hiếu Thuận hầu, là cháu đời thứ 12 của Nguyễn
Xí, cháu đời thứ 11 của Nguyễn Phúc Xà, làm quan dưới triều Gia Long, Minh Mạng. Trong thời gian được Triều đình điều
ra giữ chức Trấn thủ Nghệ An, năm 1816, Nguyễn Văn Hiếu đã tìm về thăm quê cha đất
tổ ở làng Thượng Xá (nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) và đã viết
bản tộc phả ký bằng chữ Hán, theo thể phú.
Sử cũ ghi lại rằng, Nguyễn Văn Hiếu sinh năm
1764 tại huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Tiếng là con
trai của Chưởng y cấm vệ Nguyễn Văn Đán nhưng gia đình ông rất nghèo. Thuở nhỏ,
Nguyễn Văn Hiếu phải đi cắt cỏ thuê để kiếm sống. Lớn lên, ông theo nghiệp
binh, lần lượt được giao đảm nhiệm các chức: Hữu quân Phó tướng, Lưu thủ Bình
Định, Trấn thủ các trấn: Sơn Nam Hạ (Nam Định), Thanh Hoa (Thanh Hóa), Nghệ An, được phong Đô thống trung
doanh quân Thần sách.
Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn
Văn Hiếu có nhiều công lớn. Năm Đinh Hợi (1827), ông được cử đi làm Kinh lược sứ ở Nam Định. Chỉ
trong hai tháng, ông và các quan đã xử lý hàng loạt các quan lại vùng này tham
nhũng, ức hiếp dân chúng, ổn định tình hình, được Vua Minh Mạng khen ngợi. Đến
tháng 11 năm 1831, khi tỉnh Hà Nội được thành lập, Nguyễn Văn Hiếu được bổ làm
Tổng đốc Hà - Ninh. Từ tháng Giêng năm
Nhâm Thìn (1832), ông còn kiêm chức Tuần phủ Hà Nội - ông là quân đầu tỉnh đầu tiên của Hà Nội. Đến tháng Bảy cùng năm,
được triệu về Kinh; được thăng Tả quân Đô thống phủ, Chưởng phủ sự, tước Lương
Năng bá.
Nguyễn Văn Hiếu có chính sự tốt,
làm quan ở đâu cũng cần mẫn, quả quyết, thận trọng trong việc dùng quyền hành,
sâu sát với thực tế. Trong thời gian làm Tổng đốc Hà - Ninh kiêm Tuần phủ Hà
Nội, ông có bốn đề xuất đối với tỉnh, được Vua Minh Mạng khen ngợi và cho thực
thi; trong đó, quan trọng nhất là cho dời lỵ sở của phủ Hoài Đức ở phố
Phủ Doãn nhỏ hẹp về Dịch Vọng thuộc huyện Từ Liêm (nay là khu vực Học viện Báo
chí tuyên truyền thuộc quận Cầu Giấy). Khi Nguyễn Văn Hiếu mất, Vua Minh Mạng rất thương xót, cho thực thụ chức Tả quân phủ Đô thống, Chưởng Phủ sự, cấp cho
1000 quan tiền, sai quan đến tế. Năm Tự Đức thứ ba (Canh Tuất, 1850), ông được
đưa vào thờ ở miếu Trung hưng công thần.
Nguyễn Văn Hiếu là người khiêm tốn, giản dị, đối đãi với mọi người hòa
nhã, lại hay nghiêm trị các lại dịch làm bậy khiến họ phải kính sợ; được dân
tin yêu, cả những kẻ trộm cướp cũng phải nể sợ.
Nguyễn Văn Hiếu còn nổi tiếng là người thanh liêm. Ông nghiêm cấm người
nhà không được tự tiện giao thiệp với người ngoài. Hàng năm vào dịp Tết, các quan lại
dưới quyền và dân chúng mang tiền đến biếu xén nhưng ông đều từ chối. Vì ông
sống thanh liêm nên cửa nhà rất bình thường; lương bổng của ông chỉ đủ chi
tiêu, vợ ông nhiều lần đem việc đó than phiền, nhưng ông chỉ cười mà bảo rằng :
“Phu nhân không nhớ lúc còn cắt cỏ ư? Lấy nay so với xưa gấp hai, gấp năm như
thế, lại muốn lấy của bất nghĩa để làm giàu ư?”. Từ đó, vợ ông không dám nói
đến lợi lộc nữa.
Sự thanh liêm của Nguyễn Văn Hiếu được biểu hiện cụ thể nhất qua câu
chuyện vào dịp giáp Tết năm Quý Mùi đời vua Minh Mạng (năm 1823), khi ông đang
là Trấn thủ Thanh Hoa, có viên thổ ty xin đến nhà ông để “yết kiến”. Khi bàn
xong xuôi công việc, viên thổ ty trình ra trước mặt Nguyễn Văn Hiếu một lễ rất
hậu, gọi là “của núi rừng”, xin được biếu và mong quan Trấn thủ vui lòng nhận,
nhân dịp Tết cổ truyền sắp đến. Song, Nguyễn Văn Hiếu ôn tồn khước từ, bắt mang
về. Sau khi Nguyễn Văn Hiếu đã vào nhà, viên thổ ty còn đang lừng chừng đứng
trước cửa nhà thì tên đầy tớ nhà bếp lẻn ra dọa nạt, lấy lại một nửa phần lễ.
Qua Tết ít ngày, Nguyễn Văn Hiếu
mới được biết chuyện tên đầy tớ làm chuyện ăn chặn. Ông rất giận, lập tức cho
gọi ra tra hỏi. Tên đầy tớ thú nhận tất cả. Nguyễn Văn Hiếu liền lôi y ra chém.
Người nhà và các quan lại dưới quyền đang có mặt tại nhà ông khi đó ra sức can
ngăn cũng không được. Sau đó, Nguyễn Văn Hiếu dâng Sớ lên vua Minh Mạng xin
chịu tội. Vua cho rằng, Nguyễn Văn Hiếu làm như vậy để khuyến khích việc thanh
liêm là đúng, nhưng lại tự tiện đem giết tên đầy tớ là phạm luật, nên
giáng ông ba cấp; song vẫn cho ông được lưu chức.
Sách Gò
Công xưa chép:
”...Ông Hiếu tuy xuất thân võ biền, nhưng có
phong thái của một nho thần. Một lần, các vị tân khoa đến nhà chào, ông tiếp
đãi rất ân cần, rồi nói rằng: "Mười năm đèn sách mới có ngày nay, tôi xin
mừng cho các thầy. Nhớ ngày sau được bổ dụng làm quan, cũng nên giữ gìn như lúc
tân khổ, chớ có xa xỉ quá để mang tiếng xấu cho thân danh, và phụ ý tốt (tuyển
chọn nhân tài) của triều đình".
Khi làm quan, ông được dân
thương mến, lại nghiêm trị thuộc lại, nên họ đều sợ. Trong hạt nhiều trộm, ông
Hiếu đến, bọn trộm bảo nhau rằng: Ông Trấn thủ là người nhân huệ, ta phải tránh
đi...".
Dưới
triều Minh Mạng, có lần cùng các đồng liêu xét án. Thấy có tên trộm đã thú tội
rồi, mà vẫn còn bị tra tấn. Ông Hiếu chậm rãi nói:
"Chúng nó vì cùng cực nên phải làm việc gian phi, đêm khuya
xoi tường khoét vách, khó nhọc mới lấy được tiền người ta. Nay nó đã nhận
tội, thì cứ chiếu theo luật mà trị, hà tất phải vẽ vời thêm làm gì? Thử hỏi:
Ở các nha môn, có những kẻ trên nhà cao, ngồi nệm, dựa gối; giữa ban ngày,
vẫy ngòi bút mà làm tiền người ta không chút khó nhọc, các người ấy sánh với
bọn ăn trộm kia, tội ai nặng hơn?"
|
Nghe ông nói, ai nấy đều
giật mình.
Sưu tầm, biên soạn ngày 5/3/2014
NMĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét