Ai là khai quốc công thần nhà Lê?
Không chỉ là một võ tướng, Nguyễn Xí còn là một nhà chính trị lỗi lạc, là một trong các khai quốc công thần của nhà Lê.
Tuổi nhỏ phi thường
Nguyễn
Xí sinh năm Đinh Sửu (1397) là con của ông Nguyễn Hội và bà Vũ Thị Hạnh. Ông
nội của Nguyễn Xí là Nguyễn Hợp vốn quê ở làng Cương Gián (nay là xã Xuân Song,
huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) ở phía Nam sông Lam dưới chân núi Hồng Lĩnh, làm nghề
ruộng và làm muối. Sau đó Nguyễn Hợp đã dời ra ở làng Thượng Xá (nay thuộc xã Nghi
Hợp, huyện Nghi Lộc) khai khẩn ruộng hoang và tiếp tục nghề làm muối. Từ nhỏ
Nguyễn Xí cùng với anh cả là Nguyễn Biện theo cha đem muối ra vùng thượng du
Thanh Hoá bán và nghe tiếng tăm của Lê Lợi ở đất Lam Sơn.
Năm
1405, Nguyễn Xí mới 9 tuổi thì mồ côi cha và sau đó không lâu mẹ cũng qua đời.
Hai anh em Nguyễn Biện và Nguyễn Xí tìm ra Lam Sơn xin làm gia thần của Lê Lợi.
Lê Lợi thu nạp hai anh em Nguyễn Biện và Nguyễn Xí, nuôi dưỡng như người trong
nhà. Lê Lợi giao cho Nguyễn Xí nuôi dạy đàn chó săn gần 100 con. Nguyễn Xí đã
dùng tiếng chuông, tiếng mõ làm hiệu lệnh để điều khiển bầy chó khi cho ăn, khi
nằm, khi tiến khi lùi. Dần dà đàn chó nghe tiếng chuông, tiếng mõ đều răm rắp
làm theo hiệu lệnh của chủ.
Nhìn
thấy đàn chó vâng lệnh chủ, Lê Lợi rất mừng, khen ngợi Nguyễn Xí và nói:
"Loài vật vô tri còn nuôi dạy được như thế, huống hồ là việc luyện tập và
cai quản quân sĩ. Ngày nay có việc làm phi thường thì ắt mai sau sẽ có hành
động phi thường".
Gia thần thân tín
Năm
Bính Thân (1416), Lê Lợi cùng 18 người bạn chiến đấu đã làm lễ thề tại Lũng
Nhai, nguyện dốc sức đồng lòng, sống chết có nhau, đuổi giặc cứu nước. Từ đó
một bộ chỉ huy khởi nghĩa đã hình thành và một cuộc chiến tranh yêu nước đang
được xây dựng lên. Đầu năm Mậu Tuất (1418), ngọn cờ khởi nghĩa của Bình Định
vương Lê Lợi đã bắt đầu giương lên ở núi rừng Lam Sơn. Nguyễn Xí với tư cách là
gia thần thân tín của Lê Lợi, đã tham gia vào công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa và
được chủ soái Lê Lợi giao cho chỉ huy một đội quân thiết đột là lực lượng xung
kích nòng cốt của nghĩa quân.
Từ
năm 1418 đến năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở vùng núi rừng Thanh Hoá trong
một hoàn cảnh vô cùng khó khăn gian khổ. "Quân lính chỉ độ vài ngàn, khí
giới thật là tay không, cơm không đủ ngày hai bữa, áo không phân biệt đông
hè". Trong hoàn cảnh gian khổ đó, Nguyễn Xí luôn có mặt bên cạnh Lê Lợi và
thường được giao nhiệm vụ bảo vệ chủ soái và bộ chỉ huy.
Ngày
14 tháng 4 năm Mậu Tuất (21/5/1418), quân Minh được tên phản bội là Lê Ái dẫn
đường mở một cuộc vây quét lớn vào căn cứ địa Lam Sơn. Quân giặc lùng bắt thân
nhân của Lê Lợi (trong đó có người con gái 9 tuổi), vợ con của nghĩa quân hòng
uy hiếp tinh thần chiến đấu của nhân dân ta. Nguyễn Xí cùng các tướng Đinh Lễ,
Phạm Vấn, Đỗ Bí, Trương Lôi... đã chỉ huy nghĩa quân chống trả quyết liệt bảo
vệ Lê Lợi và bộ chỉ huy rút lên núi Chí Linh an toàn.
Cuối
năm Canh Tý (1420), tổng binh Lý Bân và đô đốc Phương Chính đem 10 vạn quân
tiến công căn cứ Mường Thôi. Được tên đồng tri Quỳ Châu là Cầm Lãn dẫn đường
cho quân giặc. Lê Lợi phái Nguyễn Xí và các tướng Lý Triệu, Phạm Vấn,
Nguyễn Đình Lý đem quân ra mai phục sẵn ở Bồ Mộng. Quân giặc lọt vào trận địa
mai phục của Nguyễn Xí bị giết hơn nghìn tên. Trận Bồ Mộng đã giáng một đòn phủ
đầu bất ngờ vào quân giặc, tạo điều kiện cho nghĩa quân sau đó thừa thắng xông
lên đập tan một cuộc tiến công lớn của quân Minh.
“Hổ
tinh” và cái chết oan của cha danh tướng Nguyễn Xí
Dân làng và vợ con ông Hội vào đưa xác ông về
chôn thì con hổ nhe răng và gầm gừ nhất quyết không cho mang xác chủ đi…
Nguyễn Xí là đại danh tướng của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng ở đây, chúng tôi xin ghi lại câu chuyện dân gian về
cha ông - Nguyễn Hội.
Ông cũng là người đã cùng các tướng lĩnh phò tá, đưa Lê Tư Thành lên ngôi Hoàng đế (Lê Thánh Tông) mở ra một giai đoạn phát triển cực thịnh của nhà nước phong kiến Việt Nam dưới triều Lê.
Chuyện
kể rằng: Ông nội của Nguyễn Xí tên là Nguyễn Hợp, làm nghề nấu muối tại làng
Cương Giản, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Vợ chồng ông có 2 người con: Con
trai cả là Nguyễn Khai và con trai thứ là Nguyễn Hội. Vào khoảng thế kỷ 14, để
anh con trai cả ở lại quê cha đất tổ, cụ Hợp đưa vợ chồng con trai thứ là
Nguyễn Hội (vợ là Vũ Thị Hạch) đến làng Hải Tân, xã Thượng Xá (nay là xã Nghi
Hợp, Nghi Lộc, Nghệ An) mở thêm 1 lò nấu muối để mở mang nghề nghiệp.
Tại
vùng quê mới, vợ chồng ông Nguyễn Hội - Vũ Thị Hạch cũng sinh hạ được 2 người
con trai là Nguyễn Biện (1394) và Nguyễn Xí (1397). Tương truyền, thủa đó nghề
nấu muối của vợ chồng ông rất phát đạt. Muối của ông Hội bán khắp mọi nơi, lên
đến vùng thượng du của tỉnh Thanh Hóa. Nhờ hàng ngày mang sản phẩm của mình đi bán
khắp nơi nên ông Nguyễn Hội đã kết tình thân giao với cụ Lê Khoáng (cụ thân
sinh ra vua Lê Thái Tổ) ở Lam Sơn, huyện Lương Sơn (nay là xã Xuân Lam, huyện
Thọ Xuân, Thanh Hóa)…một hào trưởng của địa phương, có tới hàng nghìn nông nô.
Theo truyền thuyết còn lưu giữ tại địa phương, thì làng Thượng Xá hồi cuối thế kỷ 14 còn là một vùng đất rất hoang vu, ruộng đất canh tác còn rất ít ỏi, dân cư thưa thớt. Ông Nguyễn Hội vừa làm nghề nấu muối vừa canh giữ chùa Kim Tự, còn gọi là chùa Vàng (một ngôi chùa cổ tại làng Thượng Xá). Thường ngày, tầm canh tư, ông Nguyễn Hội thức dậy đi vào chùa điểm chuông chùa. Tiếng chuông chùa Kim Tự, trở thành tiếng chuông báo thức cho bàn dân trong vùng tỉnh giấc chuẩn bị cho một ngày làm việc mới.
Một
đêm nọ, ông Hội nằm mộng thấy một người phụ nữ quỳ gối trước mặt mình và cầu
xin rằng: "Sáng ngày mai, xin ngài gia ân, đừng điểm chuông chùa! Nếu ngài
vẫn điểm chuông thì mẹ con nhà thiếp sẽ bị họ giết oan!". Ông Nguyễn Hội
sực tỉnh thì hóa ra đó là một giấc chiêm bao. Thế nhưng giấc mộng kỳ lạ ấy đã
làm ông thao thức mãi không ngủ được. Mờ sáng hôm đó ông quyết định không vào
chùa điểm chuông thì ông gặp ngay sự cố: Mới mở mắt ông hàng thịt ở cạnh nhà
chạy sang trách: "Ông làm tôi lỡ việc rồi! Sáng nay, không nghe tiếng chuông
chùa nên tôi không dậy làm thịt lợn để đưa ra chợ bán được. Khốn khổ là con lợn
tôi mua về thả trong chuồng chiều qua, sáng nay bỗng sinh ra một đàn lợn con.
Không tin ông sang mà xem!".
Ông Nguyễn Hội lật đật sang nhà anh hàng thịt thì quả đúng con lợn nái trong chuồng đã sinh ra một đàn lợn con thật. Hai người bỗng phát hiện ra một chú lợn con trông lạ hoắc: Vừa giống lợn, vừa giống hổ. Ông hàng thịt phát hoảng liền nói với vợ đem giết nó đi. Ông Nguyễn Hội đã một mực xin tha mạng cho nó và bảo ông hàng thịt nuôi nó thêm một thời gian rồi để cho ông mang nó về nhà nuôi. Sau khi con vật rời mẹ, về nhà ông Nguyễn Hội, được chăm sóc chu đáo nên nó lớn nhanh như thổi. Chỉ một thời gian sau nó trở thành một con hổ thực sự vạm vỡ.
Hàng ngày ông Hội dắt nó bên mình và dạy cho hổ cách canh đó (dụng cụ đánh bắt tôm, cá) và canh lò nấu muối mỗi khi ông đi vắng. Vào ngày 23 tháng 3 năm Ất Dậu (1405), trong một lần ông được bạn mời sang dự đám tiệc ở làng bên. Trước khi ra đi, ông Hội dắt hổ ra đập Hạng, nơi ông đang đặt đó đơm tôm cá, rồi vỗ vào lưng hổ và âu yếm dặn: "Con ở nhà canh đó và lò muối cẩn thận cho ta nhé!". Bữa tiệc hôm ấy kéo dài đến tận khuya mới tàn, khi trở về làng trong tình trạng rượu đã ngà ngà say, ông nảy ra ý định ra đập Hạng thử kiểm tra xem chú hổ mà ông yêu quý có vâng lời mình hay không.
Đêm
đó trời tối, trời vần vũ chuyển mưa, khi ông đang lầm lũi vào nơi đặt đó thì
con hổ đang canh chừng ở đó phát hiện ra. Tưởng có kẻ gian đang ăn trộm cá của
chủ mình, hổ liền lao thẳng vào vồ khiến ông Hội chết ngay tại chỗ. Sau khi vồ
chết người, con hổ mới nhận ra đó là ông chủ của mình. Nó liền vác cụ lên lưng
cõng vào khu Đồng Lầm, thuộc làng Mượu Nậy (nay là xóm 3, xã Nghi Hợp) rồi bới
đất để an táng cho chủ.
Sáng hôm sau, không thấy ông Hội trở về, cũng chẳng thấy con hổ đâu. Bà Hạch cùng gia nhân và bà con làng xóm bủa đi tìm thì tìm thấy xác cụ đã được hổ chôn lấp một các sơ sài ngay tại Đồng Lầm. Con hổ nằm canh giữ bên cạnh mộ. Dân làng và vợ con ông Hội vào đưa xác ông về chôn thì con hổ nhe răng và gầm gừ nhất quyết không cho mang xác chủ đi…Gia đình tìm cách đưa thi hài cụ đến nơi khác an táng, nhưng ban đêm hổ lại mang xác cụ về vùi lấp ở chỗ cũ. Thế là gia đình đành phải để nguyên ông lại đó. Điều kỳ lạ là nơi ông Hội được hổ vùi, đất cứ nổi dần lên thành một nấm mộ lớn. Sau khi ông Hội chết được 100 ngày thì con hổ bỏ đi vào núi Riềng, thuộc xã Nghi Thiết ngày nay.
Thương
chồng, buồn phiền, bà Võ Thị Hạch lâm bệnh nặng rồi đột ngột qua đời sau đó 45
ngày để lại 2 người con trai côi cút: Nguyễn Biện lúc đó mới 11 tuổi, Nguyễn Xí
mới 8 tuổi. Ông Nguyễn Hợp tuổi đã già, thương con, đưa 2 cháu nội là Nguyễn
Biện và Nguyễn Xí ra trại Lam Sơn nhờ Hào trưởng Lê Khoáng cưu mang rồi quay
trở về quê cũ…
Nguyễn
Xí: Sống oanh liệt, chết được vua thương
tiếc
Nguyễn Xí có mặt
trong đội ngũ nghĩa quân Lam Sơn tiến vào giải phóng Nghệ An.
26 tuổi lập công lớn
Ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Dần (6/1/1423), quân Minh do Mã Kỳ chỉ
huy từ hai phía đánh vào Quan Du (Quan Hoá, Thanh Hoá) nghĩa quân của Lê Lợi
phải rút ra Sách Khôi (Nho Quan, Ninh Bình). Một tuần sau quân giặc lại huy
động một lực lượng lớn, từ thành Đông Quan đến bao vây nghĩa quân ở Sách
Khôi.
Lê Lợi nhận định: "Giặc bốn mặt bủa vây - đây là nơi mà binh
pháp gọi là đất chết (tử địa), đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì
chết". Lê Lợi động viên quân sĩ liều chết phá vây, tìm cách thoát khỏi đất
chết. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Xí và các tướng Phạm Vấn, Lê Triệu, Lê Hào, Lê
Lĩnh, Trương Lôi, Trịnh Khả, Lê Trí, nghĩa quân đã đánh một trận hết sức ngoan
cường, đẩy lùi cuộc vây quét của giặc Minh. Nghĩa quân đã giết chết tả tham
tướng Phùng Quý và hơn nghìn tên địch, bắt hơn 100 con ngựa. Trận Sách Khôi là
một trận đánh oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Xí là người có công lớn
trong trận đánh này và lúc đó ông mới 26 tuổi.
Trong những năm hoạt động trên quê hương xứ Nghệ, trận đánh lớn mà
Nguyễn Xí tham gia là trận Khả Lưu - Bồ Ải đầu năm 1425. Trong trận đánh này,
nghĩa quân đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng trong sinh lực địch, giết chết
tướng tiên phong là đô ty Hoàng Thành, bắt sống đô ty Chu Kiệt và trên 1.000 tù
binh. Sau trận thắng ấy, nghĩa quân bắt đầu vây hãm thành Nghệ An và cùng với
nhân dân nhanh chóng giải phóng các châu huyện, biến phủ Nghệ An thành đất đứng
chân của cuộc khởi nghĩa.
Từ căn cứ địa Nghệ An, nghĩa quân tiến ra giải phóng Diễn Châu,
Thanh Hoá, tiến vào giải phóng phủ Tân Bình, Thuận Hoá, làm chủ một vùng rộng
lớn từ đèo Tam Điệp đến đèo Hải Vân. Đến cuối năm 1425, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
đã phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc sâu rộng. Tháng 9
năm Bính Ngọ (1426), nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu mở cuộc tấn công ra các lộ phía
Bắc, đưa cuộc chiến tranh giải phóng lên quy mô toàn quốc và giành thắng lợi
quyết định.
Sống oanh liệt, chết
được vua thương tiếc
Giai đoạn này có 3 chiến dịch lớn mang ý nghĩa chiến dịch trọng
yếu đưa đến thắng lợi vẻ vang của cuộc chiến tranh yêu nước. Đó là các chiến
dịch Tốt Động - Chúc Động đầu tháng 11/1426, chiến dịch vây hãm và dụ hàng
thành Đông Quan từ 22/11/1426 - 10/12/1427. Trong ba chiến dịch lớn đó, Nguyễn
Xí đều có mặt và đã góp phần tạo nên thắng lợi chung của quân dân ta. Có thể
nói đây là giai đoạn thành công và cống hiến nhiều nhất của Nguyễn Xí, là đỉnh
cao trong sự nghiệp chống quân Minh xâm lược.
Kể từ ngày tham gia nghĩa quân Lam Sơn (1418) đến năm 1427 tham
gia trận Xương Giang, Nguyễn Xí đã có 10 năm tuổi trẻ hào hùng với nhiều chiến
tích huy hoàng.
Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, triều Lê được chính
thức thành lập năm 1428. Trong vương triều mới, Nguyễn Xí là một khai quốc công
thần, đã từng giữ nhiều chức vụ trọng yếu. Ông đã phục vụ triều Lê trải qua 4
đời vua: Thái Tổ (1428 - 1433), Thái Tông (1433 - 1442), Nhân Tông (1442 -
1459) và Thánh Tông (1460 - 1497).
Năm 1464, Nguyễn Xí ốm nặng, Lê Thánh Tông sai sứ mang một đạo dụ
đến nhà riêng thăm hỏi và biếu 1.000 quan tiền để thuốc thang. Trong đạo dụ có
đoạn: "Công của khanh, trẫm chưa báo đền mà bệnh của khanh sao đã trầm
trọng. Nghĩ đến nước, cơm cháo khanh phải cố ăn. Lo cho trẫm, thuốc thang khanh
phải cố chữa".
Ngày 30 tháng 10 năm Ất Dậu (18/11/1465), Nguyễn Xí mất hưởng thọ
69 tuổi. Lê Thánh Tông rất thương tiếc cho đưa linh cữu về quê an táng, truy
tặng hàm Thái sư Cương quốc công và sai lập đền thờ tại Thượng Xá. Đền thờ
Nguyễn Xí được xây dựng từ năm Quang Thuận thứ 8 đời Lê (1467). Qua bao thăng
trầm của thời gian và đạn bom của Pháp và Mỹ, đền thờ ngài vẫn uy nghi tồn tại
và là di tích lịch sử của quốc gia, cách Cửa Lò khoảng hơn 2km.
Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam
/ Trịnh Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét