TRỞ VỀ THƯƠNG LẤY NHAU THÔI
Nhà thơ Hồng Thanh Quang
Trở về thương lấy nhau thôi,
Một năm đời lại qua rồi còn đâu....
Trở về ngắm lại hàng cau,
Mẹ cha trồng thuở mái đầu còn xanh...
Trở về em nhé cùng anh,
Hát câu quan họ thơm lành gió non.
Đành rằng đã hết thời son,
Yêu nhau nhàu áo vẫn còn mê nhau...
Trở về với nụ hôn đầu
Ta gieo lục bát toàn câu thiệt thà.
Ngõ chiều em rắc dư ca
Chân đi nát lối chẳng ra khỏi tình...
Gắng cùng tìm tới bình minh,
Dù trong khoảnh khắc lại mình với ta.
Nắng lên, tri kỷ liên nhà,
Dẫu đang cuối vận vẫn là bén xuân...
Trở về với thực niềm thân,
Trút đi mọi nỗi nhuốm sân si buồn.
Rót vào đầy chén hoàng hôn,
Thế thôi cũng đủ lại hường mắt nâu...
31-12-2013
H T Q
Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013
Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013
HÒA NHẬP
VÀO THẾ SỰ
ĐỂ TÌM VỀ BẢN CHẤT
(Về tập thơ Mùa của Phương Việt,
NXB Văn học, 2013)
ĐỂ TÌM VỀ BẢN CHẤT
(Về tập thơ Mùa của Phương Việt,
NXB Văn học, 2013)
Nhà thơ Bằng Việt
Có loại thơ chỉ phù hợp để ngâm
ngợi hay thù tạc. có loại thơ để chiêm nghiệm và cứ dần dà thấu vào ta lặng lẽ,
lâu bền. Thơ Phương Việt, theo tôi nghĩ thuộc loại thứ hai. Nhưng chọn cách làm
này, người viết không dược buông thả theo sự tuôn trào của cảm xúc, cũng không dễ
dàng mặc cho ma lực của ngôn từ và vần điệu lôi kéo mình. Trái lại, nhà thơ lúc
nào cũng phải tỉnh táo tự kiểm soát mình một cách nghiêm ngặt và tiết chế. Có lẽ
vì thế mà Phương Việt không dễ đọc và chất thơ của anh cũng không bao giờ muốn
tự khoe mình, ồn ã, phô phang. Để bù lại cho xu thế dễ trở nên khô khan và lý sự
đó, anh biết cách mở rộng lòng mình vào mọi lẽ đời bề bộn, đầy ắp nỗi niềm thế
sự, đầy ắp cung bậc bi hài của thế thái nhân tình. Và chính cách tiếp cận ấy với
hiện thực đã tạo cho thơ anh một thế mạnh, có ý thức tìm tòi, khám phá, rồi có
khi khám phá ra rồi thì lại là sự thật đau lòng!
Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013
Chuyện 'tế nhị' và những chuyến đi 'quá trời'

Những con số "tế nhị"
Ngày 3/10/2013, bản tin trên một tờ báo điện tử dẫn lời chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh nói: "Tôi vừa từ nước ngoài về, Đại sứ Việt Nam tại Liên Bang Nga Phạm Xuân Sơn cho biết bình quân một năm đón tiếp từ 200- 220 đoàn công tác từ Việt Nam sang, có đoàn tới 60 người". Nhưng cũng chỉ rất nhanh sau đó, câu trên đã được sửa lại thành "một Đại sứ cho biết...".
Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013
Malaysia - Singapore,
một thoáng du ký
I- MALAYSIA
12 giờ
ngày 26 tháng 8 năm 2013, chiếc xe ca bắt đầu lăn bánh từ Văn phòng Saigontourist
- số nhà 55 B phố Phan Chu Trinh, Hà Nội - chở đoàn du lịch lên sân bay Nội Bài.
Sau buổi sáng mưa rào tầm tã, trời rạng rỡ nắng, những làn gió thổi nhẹ dịu
mát. Cảnh quan làm tôi nhớ đến hai câu thơ trữ tình của một người bạn:“ Ngọn gió nào đi qua mùa thu cũng thành
gió biếc / Một cơn mưa tháng bảy về bất chợt / đi qua mùa thu thành tâm sự muôn
đời”. Còn gần một tháng nữa là đến Tết Trung Thu, các quầy bánh Hữu Nghị,
Kinh Đô,… với đủ chủng loại, sắc màu, kiểu dáng đã tràn ra trên các vỉa hè.
Giữa giờ ngọ mà phố phường Hà Nội vẫn tấp nập người, xe.
Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013
Tình người trên từng trang viết
Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu
Báo Công an nhân dân số ra ngày 22/12/2013
Một buổi chiều, tôi nhận được cuốn sách Những kỷ niệm đời tôi do Nguyễn Mạnh Đẩu gửi tặng. Tôi vui, pha chút tự hào về ông bạn mình, một Trung tướng từ khi cận hưu đến giờ, mới qua mấy năm mà đã ra ba đầu sách. Đầu tiên là tập thơ Một chữ tình, tập hợp nhiều bài thơ của ông - thơ về tình người, tình đời và cả tình yêu của một người giàu trải nghiệm, cảm xúc.

Nguyễn Mạnh Đẩu
Mới hay chỉ một chữ tình
Mà ta đổi nửa đời mình, em ơi
Tiếp đó là cuốn hồi ký Những nẻo đường thời gian. Hồi ký về một chàng trai từ khi khai tăng tuổi để được đi bộ đội, qua bao trận mạc, vào sinh ra tử, rồi trở thành một vị tướng. Các tướng lĩnh viết hồi ký cũng nhiều, nhưng trực tiếp cầm bút để rưng rưng với từng ký ức cuộc đời từ đầu đến cuối cuốn sách như Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu thì thực sự hiếm.
Những kỷ niệm đời tôi là cuốn sách thứ ba của Nguyễn Mạnh Đẩu. Đây là cuốn sách tập hợp các bài viết của ông, hầu hết trong đó được viết lúc đã rời khỏi chốn quan trường. Bài trong cuốn sách gồm nhiều thể loại: Hồi ức, bình luận, truyện ngắn, phê bình văn học, ký sự, văn tế… Ngoài bài du ký Lãng đãng xứ người viết về chuyến du lịch Trung Quốc và hai bài bình luận văn học, thì những bài còn lại, mặc dù tôi đã được tác giả chia sẻ, vậy mà khi chúng xếp lại bên nhau, lại cảm thấy những điều tươi mới. Điều có thể nhận thấy nhất là tư tưởng ẩn sau các bài viết, dưới cách này hay cách khác đã làm nên một cái nền nhân bản.
Nhân bản xét cho cùng là cái gốc con người. Một vị tướng rời quê hương từ năm mười sáu tuổi, trải bao chinh chiến, rồi biết bao bộn bề công việc, mà lòng vẫn luôn đau đáu về quê cha đất Tổ. Trong Làng Đại Xá quê tôi, ông đã khắc họa làng quê mình bé nhỏ, bình dị. “Đất cát pha bạc màu, khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Mùa hè nắng chói chang, gió Lào hầm hập bỏng rát… Mùa đông gió từ biển thổi vào, giá lạnh rét buốt”. Dân làng lam lũ vất vả quanh năm. Cái làng bé nhỏ đó có nghĩa trang mà “Khi trở về cát bụi, bao thế hệ người bất phân địa vị nơi trần thế được sắp xếp theo thứ bậc trong từng chi họ”. Một làng quê như thế dường như mang nét chung của những làng quê xứ Nghệ. Tuy nhiên, làng quê ấy vẫn chẳng thể lẫn vào bất cứ làng quê nào khác bởi lịch sử hình thành với những cụ Tổ, những dòng họ gắn kết keo sơn, nhưng cũng có lúc mâu thuẫn nội tộc phải nói chuyện với nhau bằng gậy gộc trước khi mọi việc trở nên thái hòa. Ông tự hào nhắc tới câu truyền đời trong làng: “Đến bao giờ ai chặt ngang một cây chuối rồi đem trồng mà sống được, thì làng Đại Xá mới hết người cương cường”. Câu nói đó được đúc kết bằng suốt cả một quá trình hình thành và phát triển hơn bảy trăm năm của làng quê bé nhỏ. Người dân nghèo khó, bình dị, nhưng vẫn thuộc những câu triết lý của các bậc Thánh hiền. Làng quê ấy đã sinh ra Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí, một trong số đệ nhất khai quốc công thần của thời Hậu Lê, được vua ban quốc tính - người đã có công đưa Lê Tư Thành, tức Lê Thánh Tông lên ngôi báu, dựng nên triều đại huy hoàng nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam. Làng quê bình dị ấy trải bao thăng trầm lịch sử, đã bao lớp lớp thanh niên ra trận, nhiều người bỏ mình nơi chiến địa, và cũng có những người thành danh như ông. Quê hương trong ký ức của một vị tướng về hưu không chỉ là làng quê Đại Xá, mà đọng lại trong ông còn là hồi ức về tuổi thơ cùng bè bạn (Chơi cùng bạn trẻ quê nhà), về những người bạn thân từ tấm bé (Bạn quê), về những ngày tết với các tục lệ mà bây giờ đã có phần phai nhạt (Tết ở quê).
Cái nhân bản trong cuốn sách này còn thể hiện qua cách nhìn của tác giả về con người. Ngoài đời, Nguyễn Mạnh Đẩu có một trí nhớ tuyệt vời về những người bạn, những người có quan hệ công tác. Đó không chỉ là kết quả nghề nghiệp của người đã từng làm Cục trưởng Cục Chính sách, mà chủ yếu, đó là tài trời phú. Với cương vị là Cục trưởng Cục Chính sách - Bộ Quốc phòng, Nguyễn Mạnh Đẩu đã có những đóng góp không nhỏ cho công tác chính sách trong quân đội và cho những người có công, như việc xây dựng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng (Về phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”), và cho công tác bảo hiểm xã hội trong Bộ Quốc phòng (Chỗ dựa niềm tin của cán bộ, chiến sỹ trong quân đội).
Trong những bài viết về con người cụ thể thì Cha tôi là một bài hết sức ấn tượng. Tác giả đã kể lại một cách giản dị cuộc đời của cha mình từ khi còn là một trai làng, vào bộ đội, đánh trận Điện Biên, bị thương, rồi phục viên trong đợt “tám vạn quân”. Khi trở về làng, cha hăng hái tham gia xây dựng quê hương. Khi chiến tranh phá hoại, cha đau đớn chứng kiến người vợ sinh con trong hầm tránh bom, rồi bị hậu sản mà qua đời. Một mình cha bươn chải, gà trống nuôi con, để chúng khôn lớn trưởng thành. Cho đến cuối đời vẫn dạy các con “Phụ từ, tử hiếu; huynh lương, đệ đễ” (Làm cha phải bao dung nhân từ, làm con phải hiếu thảo; làm anh phải tốt với em, làm em phải kính trọng anh). Cuộc đời của cha bình dị như bao người đàn ông Việt Nam trong một giai đoạn khắc nghiệt của lịch sử. Nhưng đến cuối bài, tác giả đã khái quát lên một triết lý khiến người đọc bất ngờ, cảm động: “Cha tôi - một người nông dân, có quãng đời là Bộ đội Cụ Hồ - như hàng triệu con người Việt Nam ta… Những con người bình dân, không danh hiệu, chức tước trong xã hội… Số phận của mỗi một con người - của cả lớp người như thế - gắn liền với lịch sử dân tộc ta trong mấy chục năm qua. Họ là những giọt nước mặn mòi, trong lành giữa đại dương bao la, là những thân cây nhỏ mà rắn rỏi kiên cường giữa đại ngàn điệp trùng hùng vĩ. Chính họ đã góp phần làm nên lịch sử!”.
Trong xã hội, mỗi người chọn bạn thân quí đều xuất phát từ cái căn bản của mình. Nguyễn Mạnh Đẩu là một chàng trai xứ Nghệ. Bởi vậy, cũng có thể nhìn thấy tính cách của ông qua những người ông liệt vào hàng tri âm, tri kỷ. “Tính cách anh Tần thẳng thắn trung thực. Anh ghét nhất là hạng người dối trá, đạo đức giả. Sự thẳng thắn, bộc trực của anh có lúc làm mất lòng người khác - kể cả là ruột thịt. Với anh, hoặc là thế này, hoặc là thế khác, không có chuyện chung chung, nước lợ, nửa vời. Mọi điều, anh thích sự chính xác, ngắn gọn, rõ ràng” (Anh Tần). Một người bạn khác của ông - Nguyễn Đăng Giáp, Anh hùng thời kỳ đổi mới, vừa là đồng đội, vừa là đồng hương cũng có đầy đủ chất xứ Nghệ, nhưng lại đậm hơn bởi cá tính “Thẳng băng, bạch thoại, đốp chát, gai góc”, thì ông bình luận: “Thử nghĩ, nếu mọi người đều vo tròn lại, đều giống nhau ở sự nhàn nhạt, bờn bợt, nửa vời, không góc cạnh, không cá tính, thì đời sống xã hội sẽ thế nào nhỉ?” (Xứng danh Anh hùng).
Một cung bậc khác là tình người qua một đời chiến trận. Nguyễn Mạnh Đẩu đã dành sự tôn trọng của mình với người đồng đội vốn là cấp dưới xuất ngũ về, bị quăng quật trong cơ chế thị trường mà vẫn biết cách tri ân người thủ trưởng năm xưa (Đồng đội cũ). Sự trân trọng với những người thuộc bậc đàn anh trong những ngày lửa đạn (Trang sách - Trang đời. Viết về cuốn hồi ký của Đại tá Hồ Hữu Lạn). Và cả sự kính mến, cảm phục với những vị tướng nổi danh mà ông đã từng là cấp dưới của họ, hoặc từng vinh dự được tiếp kiến (Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp - những điều tôi biết; Đại tướng Chu Huy Mân - những kỷ niệm trong đời tôi; Ba lần được tiếp kiến Đại tướng Võ Nguyên Giáp).
Tiền nhân đã dạy: “Mộc xuất thiên chi do hữu bản” (Cây sinh ngàn nhánh do từ gốc). Khi không còn bộn bề công việc quan trường nữa, Nguyễn Mạnh Đẩu không chỉ dành tâm sức cho việc tìm về nguồn cội mà còn tìm cách dạy dỗ chữ NHÂN cho cháu con để những chi, cành nẩy nở trên thân cây dòng họ của mình luôn tươi xanh và không hổ thẹn với đời. Đôi lời tâm sự với các cháu thân yêu ông viết đúng vào ngày sinh bước sang tuổi sáu mươi lăm. Con người suốt đời sôi động đã lắng lại khi nhận ra chỉ dăm năm nữa là trở thành lớp người xưa nay hiếm. “Ông khát khao truyền lại cho các cháu thân yêu trong nhà ta những điều mà ông cho là rất quan trọng và rất cần thiết”. Đó là những điều “Khi về già, con người ta thường hoài niệm quá khứ rồi gút lại thành kinh nghiệm”. Ông dặn các cháu bằng lời Phật Tổ: “Kẻ thù lớn nhất của đời mình là chính mình”, và ở đời cần tránh bảy tật xấu: “Lười, dối, tham, chê, xen, kiêu, sỹ”. Khi Nguyễn Mạnh Đẩu viết những dòng này, các cháu của ông đều đang tuổi nhi đồng, nên chưa dễ gì hiểu hết. Nhưng một con người muốn giữ gìn nhân bản cho mai hậu, thì viết lại để cho lớp trẻ ngày nay suy ngẫm, và con cháu đọc khi khôn lớn tưởng cũng là điều cần thiết vậy.
Giáo sư Nguyễn Đình Chú khi đọc cuốn sách này đã nhận ra cái nhân bản ngay từ việc sắp xếp các bài: Mở đầu là Cha tôi, kết thúc là bài Văn tế trong ngày nhập họ. Tôi cũng rất tâm đắc với điều này, bởi tình cảm với cha mẹ, tổ tiên chính là thước đo thứ nhất về nhân bản của mỗi người. Nguyễn Mạnh Đẩu đã cất công tìm lại cội nguồn (Lời giải cội nguồn sau mấy trăm năm thất truyền gia phả). Ông trực tiếp phụng soạn Bài văn tế trong ngày nhập họ, rồi chính ông đứng vai chủ tế kính cáo tổ tiên.
Những câu dưới đây trong bài văn tế đã phần nào nói lên tấm lòng nhân bản của một vị tướng đã trở về với đời thường:
“Một lạy này, chúng con xin nguyện/ Đời tiếp đời đoàn kết keo sơn/ Tu chí làm ăn, chăm chỉ học hành/ Rèn đức, luyện tài, dưỡng tâm, khai trí/ Sống cao đẹp, trọn tình vẹn nghĩa…”.
Xin được lấy những lời gan ruột ấy của tác giả thay cho lời kết của bài viết này
H.S.H.
Báo Công an nhân dân số ra ngày 22/12/2013
Một buổi chiều, tôi nhận được cuốn sách Những kỷ niệm đời tôi do Nguyễn Mạnh Đẩu gửi tặng. Tôi vui, pha chút tự hào về ông bạn mình, một Trung tướng từ khi cận hưu đến giờ, mới qua mấy năm mà đã ra ba đầu sách. Đầu tiên là tập thơ Một chữ tình, tập hợp nhiều bài thơ của ông - thơ về tình người, tình đời và cả tình yêu của một người giàu trải nghiệm, cảm xúc.
![]() |
Nguyễn Mạnh Đẩu |
Mới hay chỉ một chữ tình
Mà ta đổi nửa đời mình, em ơi
Tiếp đó là cuốn hồi ký Những nẻo đường thời gian. Hồi ký về một chàng trai từ khi khai tăng tuổi để được đi bộ đội, qua bao trận mạc, vào sinh ra tử, rồi trở thành một vị tướng. Các tướng lĩnh viết hồi ký cũng nhiều, nhưng trực tiếp cầm bút để rưng rưng với từng ký ức cuộc đời từ đầu đến cuối cuốn sách như Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu thì thực sự hiếm.
Những kỷ niệm đời tôi là cuốn sách thứ ba của Nguyễn Mạnh Đẩu. Đây là cuốn sách tập hợp các bài viết của ông, hầu hết trong đó được viết lúc đã rời khỏi chốn quan trường. Bài trong cuốn sách gồm nhiều thể loại: Hồi ức, bình luận, truyện ngắn, phê bình văn học, ký sự, văn tế… Ngoài bài du ký Lãng đãng xứ người viết về chuyến du lịch Trung Quốc và hai bài bình luận văn học, thì những bài còn lại, mặc dù tôi đã được tác giả chia sẻ, vậy mà khi chúng xếp lại bên nhau, lại cảm thấy những điều tươi mới. Điều có thể nhận thấy nhất là tư tưởng ẩn sau các bài viết, dưới cách này hay cách khác đã làm nên một cái nền nhân bản.
Nhân bản xét cho cùng là cái gốc con người. Một vị tướng rời quê hương từ năm mười sáu tuổi, trải bao chinh chiến, rồi biết bao bộn bề công việc, mà lòng vẫn luôn đau đáu về quê cha đất Tổ. Trong Làng Đại Xá quê tôi, ông đã khắc họa làng quê mình bé nhỏ, bình dị. “Đất cát pha bạc màu, khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Mùa hè nắng chói chang, gió Lào hầm hập bỏng rát… Mùa đông gió từ biển thổi vào, giá lạnh rét buốt”. Dân làng lam lũ vất vả quanh năm. Cái làng bé nhỏ đó có nghĩa trang mà “Khi trở về cát bụi, bao thế hệ người bất phân địa vị nơi trần thế được sắp xếp theo thứ bậc trong từng chi họ”. Một làng quê như thế dường như mang nét chung của những làng quê xứ Nghệ. Tuy nhiên, làng quê ấy vẫn chẳng thể lẫn vào bất cứ làng quê nào khác bởi lịch sử hình thành với những cụ Tổ, những dòng họ gắn kết keo sơn, nhưng cũng có lúc mâu thuẫn nội tộc phải nói chuyện với nhau bằng gậy gộc trước khi mọi việc trở nên thái hòa. Ông tự hào nhắc tới câu truyền đời trong làng: “Đến bao giờ ai chặt ngang một cây chuối rồi đem trồng mà sống được, thì làng Đại Xá mới hết người cương cường”. Câu nói đó được đúc kết bằng suốt cả một quá trình hình thành và phát triển hơn bảy trăm năm của làng quê bé nhỏ. Người dân nghèo khó, bình dị, nhưng vẫn thuộc những câu triết lý của các bậc Thánh hiền. Làng quê ấy đã sinh ra Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí, một trong số đệ nhất khai quốc công thần của thời Hậu Lê, được vua ban quốc tính - người đã có công đưa Lê Tư Thành, tức Lê Thánh Tông lên ngôi báu, dựng nên triều đại huy hoàng nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam. Làng quê bình dị ấy trải bao thăng trầm lịch sử, đã bao lớp lớp thanh niên ra trận, nhiều người bỏ mình nơi chiến địa, và cũng có những người thành danh như ông. Quê hương trong ký ức của một vị tướng về hưu không chỉ là làng quê Đại Xá, mà đọng lại trong ông còn là hồi ức về tuổi thơ cùng bè bạn (Chơi cùng bạn trẻ quê nhà), về những người bạn thân từ tấm bé (Bạn quê), về những ngày tết với các tục lệ mà bây giờ đã có phần phai nhạt (Tết ở quê).
Cái nhân bản trong cuốn sách này còn thể hiện qua cách nhìn của tác giả về con người. Ngoài đời, Nguyễn Mạnh Đẩu có một trí nhớ tuyệt vời về những người bạn, những người có quan hệ công tác. Đó không chỉ là kết quả nghề nghiệp của người đã từng làm Cục trưởng Cục Chính sách, mà chủ yếu, đó là tài trời phú. Với cương vị là Cục trưởng Cục Chính sách - Bộ Quốc phòng, Nguyễn Mạnh Đẩu đã có những đóng góp không nhỏ cho công tác chính sách trong quân đội và cho những người có công, như việc xây dựng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng (Về phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”), và cho công tác bảo hiểm xã hội trong Bộ Quốc phòng (Chỗ dựa niềm tin của cán bộ, chiến sỹ trong quân đội).
Trong những bài viết về con người cụ thể thì Cha tôi là một bài hết sức ấn tượng. Tác giả đã kể lại một cách giản dị cuộc đời của cha mình từ khi còn là một trai làng, vào bộ đội, đánh trận Điện Biên, bị thương, rồi phục viên trong đợt “tám vạn quân”. Khi trở về làng, cha hăng hái tham gia xây dựng quê hương. Khi chiến tranh phá hoại, cha đau đớn chứng kiến người vợ sinh con trong hầm tránh bom, rồi bị hậu sản mà qua đời. Một mình cha bươn chải, gà trống nuôi con, để chúng khôn lớn trưởng thành. Cho đến cuối đời vẫn dạy các con “Phụ từ, tử hiếu; huynh lương, đệ đễ” (Làm cha phải bao dung nhân từ, làm con phải hiếu thảo; làm anh phải tốt với em, làm em phải kính trọng anh). Cuộc đời của cha bình dị như bao người đàn ông Việt Nam trong một giai đoạn khắc nghiệt của lịch sử. Nhưng đến cuối bài, tác giả đã khái quát lên một triết lý khiến người đọc bất ngờ, cảm động: “Cha tôi - một người nông dân, có quãng đời là Bộ đội Cụ Hồ - như hàng triệu con người Việt Nam ta… Những con người bình dân, không danh hiệu, chức tước trong xã hội… Số phận của mỗi một con người - của cả lớp người như thế - gắn liền với lịch sử dân tộc ta trong mấy chục năm qua. Họ là những giọt nước mặn mòi, trong lành giữa đại dương bao la, là những thân cây nhỏ mà rắn rỏi kiên cường giữa đại ngàn điệp trùng hùng vĩ. Chính họ đã góp phần làm nên lịch sử!”.
Trong xã hội, mỗi người chọn bạn thân quí đều xuất phát từ cái căn bản của mình. Nguyễn Mạnh Đẩu là một chàng trai xứ Nghệ. Bởi vậy, cũng có thể nhìn thấy tính cách của ông qua những người ông liệt vào hàng tri âm, tri kỷ. “Tính cách anh Tần thẳng thắn trung thực. Anh ghét nhất là hạng người dối trá, đạo đức giả. Sự thẳng thắn, bộc trực của anh có lúc làm mất lòng người khác - kể cả là ruột thịt. Với anh, hoặc là thế này, hoặc là thế khác, không có chuyện chung chung, nước lợ, nửa vời. Mọi điều, anh thích sự chính xác, ngắn gọn, rõ ràng” (Anh Tần). Một người bạn khác của ông - Nguyễn Đăng Giáp, Anh hùng thời kỳ đổi mới, vừa là đồng đội, vừa là đồng hương cũng có đầy đủ chất xứ Nghệ, nhưng lại đậm hơn bởi cá tính “Thẳng băng, bạch thoại, đốp chát, gai góc”, thì ông bình luận: “Thử nghĩ, nếu mọi người đều vo tròn lại, đều giống nhau ở sự nhàn nhạt, bờn bợt, nửa vời, không góc cạnh, không cá tính, thì đời sống xã hội sẽ thế nào nhỉ?” (Xứng danh Anh hùng).
Một cung bậc khác là tình người qua một đời chiến trận. Nguyễn Mạnh Đẩu đã dành sự tôn trọng của mình với người đồng đội vốn là cấp dưới xuất ngũ về, bị quăng quật trong cơ chế thị trường mà vẫn biết cách tri ân người thủ trưởng năm xưa (Đồng đội cũ). Sự trân trọng với những người thuộc bậc đàn anh trong những ngày lửa đạn (Trang sách - Trang đời. Viết về cuốn hồi ký của Đại tá Hồ Hữu Lạn). Và cả sự kính mến, cảm phục với những vị tướng nổi danh mà ông đã từng là cấp dưới của họ, hoặc từng vinh dự được tiếp kiến (Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp - những điều tôi biết; Đại tướng Chu Huy Mân - những kỷ niệm trong đời tôi; Ba lần được tiếp kiến Đại tướng Võ Nguyên Giáp).
Tiền nhân đã dạy: “Mộc xuất thiên chi do hữu bản” (Cây sinh ngàn nhánh do từ gốc). Khi không còn bộn bề công việc quan trường nữa, Nguyễn Mạnh Đẩu không chỉ dành tâm sức cho việc tìm về nguồn cội mà còn tìm cách dạy dỗ chữ NHÂN cho cháu con để những chi, cành nẩy nở trên thân cây dòng họ của mình luôn tươi xanh và không hổ thẹn với đời. Đôi lời tâm sự với các cháu thân yêu ông viết đúng vào ngày sinh bước sang tuổi sáu mươi lăm. Con người suốt đời sôi động đã lắng lại khi nhận ra chỉ dăm năm nữa là trở thành lớp người xưa nay hiếm. “Ông khát khao truyền lại cho các cháu thân yêu trong nhà ta những điều mà ông cho là rất quan trọng và rất cần thiết”. Đó là những điều “Khi về già, con người ta thường hoài niệm quá khứ rồi gút lại thành kinh nghiệm”. Ông dặn các cháu bằng lời Phật Tổ: “Kẻ thù lớn nhất của đời mình là chính mình”, và ở đời cần tránh bảy tật xấu: “Lười, dối, tham, chê, xen, kiêu, sỹ”. Khi Nguyễn Mạnh Đẩu viết những dòng này, các cháu của ông đều đang tuổi nhi đồng, nên chưa dễ gì hiểu hết. Nhưng một con người muốn giữ gìn nhân bản cho mai hậu, thì viết lại để cho lớp trẻ ngày nay suy ngẫm, và con cháu đọc khi khôn lớn tưởng cũng là điều cần thiết vậy.
Giáo sư Nguyễn Đình Chú khi đọc cuốn sách này đã nhận ra cái nhân bản ngay từ việc sắp xếp các bài: Mở đầu là Cha tôi, kết thúc là bài Văn tế trong ngày nhập họ. Tôi cũng rất tâm đắc với điều này, bởi tình cảm với cha mẹ, tổ tiên chính là thước đo thứ nhất về nhân bản của mỗi người. Nguyễn Mạnh Đẩu đã cất công tìm lại cội nguồn (Lời giải cội nguồn sau mấy trăm năm thất truyền gia phả). Ông trực tiếp phụng soạn Bài văn tế trong ngày nhập họ, rồi chính ông đứng vai chủ tế kính cáo tổ tiên.
Những câu dưới đây trong bài văn tế đã phần nào nói lên tấm lòng nhân bản của một vị tướng đã trở về với đời thường:
“Một lạy này, chúng con xin nguyện/ Đời tiếp đời đoàn kết keo sơn/ Tu chí làm ăn, chăm chỉ học hành/ Rèn đức, luyện tài, dưỡng tâm, khai trí/ Sống cao đẹp, trọn tình vẹn nghĩa…”.
Xin được lấy những lời gan ruột ấy của tác giả thay cho lời kết của bài viết này
H.S.H.
Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013
Nguy cơ hình thành tầng lớp
“người lớn chưa trưởng thành”

•Thanh niên nên rút ngắn thời gian lập nghiệp
Do đâu mà ông cho rằng thanh niên Việt Nam bắt đầu tự lực và lập nghiệp muộn so với thanh niên thế giới?
-Theo hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam hiện nay, đa phần học hết bậc phổ thông ở độ tuổi 18 và chưa thể làm được việc gì theo hướng nghề nghiệp.
Sau đó mất 4 năm đại học hoặc 2-3 năm theo các hệ nghề nghiệp.
Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013
NGƯỜI NGHỆ CHỐN KINH KỲ
Nguyễn Chí Tình
Tôi đã cố nhưng chẳng tìm ra trên văn bản
Ai đó ghi dùm gốc tích họ tên
Con người ly hương coi như người xứ Nghệ đầu tiên
Đến lập nghiệp ở Hà thành đô hội.
Vâng, đó có thể là một thầy đồ áo dài tóc bối
Đường công danh không xứng với tài hoa
Quảy gánh cầm thơ dứt áo đi ra
Gửi tâm sự vào dặm dài sương gió
Một sớm dừng chân bên con phố nhỏ
Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013
LỜI DẠY TIỀN NHÂN - HỌC HỎI, SUY NGẪM
-
“Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Nghĩa là: Trời không phụ người tốt.
- “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Nghĩa là :
Lấy cái bản chất, cái nguyên tắc không bao giờ thay đổi để ứng (đối phó) với
cái vạn biến trong cuộc đời.
- “Kiến dị tác nan/ Kiến nan tác dị”. Nghĩa
là: Ở đời mọi việc đứng ngoài nhìn thì dễ, nhưng khi làm thì khó. Ngược lại, có
việc chưa làm thì thấy khó nhưng khi bắt tay làm thì thuận lợi. Điều này khắc
phục cả hai loại tư tưởng tiêu cực: Hoặc là, chủ quan đơn giản, không học hỏi
nghiên cứu thấu đáo mọi việc để làm; Hoặc là, ngại ngần không dám làm bất cứ
điều gì.
- “Tri vi tri, bất tri vi
bất tri, vị tri giả”. Nghĩa là: Biết thì bảo là biết, không biết thì bảo là
không biết - Đó chính là người có hiểu biết!
Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013
Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013
Những kỷ niệm
về
Thượng tướng Trần Văn Quang
Nguyễn Mạnh Đẩu
(Bài đăng Báo Cựu chiến binh Việt Nam, ngày 14/11/2013)
(Bài đăng Báo Cựu chiến binh Việt Nam, ngày 14/11/2013)
![]() |
Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên trong Tổng tiến công Mậu Thân, 1968 Hàng trước từ trái sang: Đặng Kinh, Trần Văn Quang, Lê Chưởng, Thanh Quảng |
Thế là Thượng tướng Trần Văn Quang không còn nữa!
Mấy ngày nay không mấy khi tôi không nghĩ về ông. Chiều ngày 9-11-2013, trong đoàn người lặng lẽ tiễn đưa ông
về nơi an nghỉ cuối cùng ở Nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội, với nỗi tiếc thương, lòng
tôi bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm về Thượng tướng Trần Văn Quang.
Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013
Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2013
Thương tiếc vị tướng
tài năng, đức độ, văn võ song toàn
Nguyễn Mạnh Đẩu
(Bài đăng Báo Quân đội nhân dân, ngày 7/11/2013)
Hồi 9 giờ 30 phút ngày 4-11-2013, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước điện thoại cho tôi xúc động báo tin: "Đẩu ơi, bác Trần Văn Quang đi rồi. Đi lúc 23 giờ 15 phút ngày mồng 3 tháng 11".
Dù đã biết Thượng tướng Trần Văn Quang tuổi cao, mấy năm nay bị bệnh nặng, sức khỏe giảm sút, phải điều trị liên tục tại Khoa A11, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nhưng khi nhận được tin, tôi không khỏi bàng hoàng, xúc động, thương tiếc ông - một con người tài năng, đức độ, trọn đời cống hiến cho cách mạng.
(Bài đăng Báo Quân đội nhân dân, ngày 7/11/2013)
Hồi 9 giờ 30 phút ngày 4-11-2013, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước điện thoại cho tôi xúc động báo tin: "Đẩu ơi, bác Trần Văn Quang đi rồi. Đi lúc 23 giờ 15 phút ngày mồng 3 tháng 11".
Dù đã biết Thượng tướng Trần Văn Quang tuổi cao, mấy năm nay bị bệnh nặng, sức khỏe giảm sút, phải điều trị liên tục tại Khoa A11, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nhưng khi nhận được tin, tôi không khỏi bàng hoàng, xúc động, thương tiếc ông - một con người tài năng, đức độ, trọn đời cống hiến cho cách mạng.
Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2013
CHÍ SĨ YÊU NƯỚC HOÀNG TRỌNG MẬU
Nguyễn Mạnh Đẩu
(Bài đăng Nguyệt san Sự kiện & Nhân chứng Báo QĐND, tháng 11/2012)
(Bài đăng Nguyệt san Sự kiện & Nhân chứng Báo QĐND, tháng 11/2012)
Hoàng Trọng
Mậu tên thật là Nguyễn Đức Công, tự là Báu Thụ, sinh năm 1874 trong một gia
đình nho học tại xã Cẩm Trường, tổng Kim Nguyên, nay là xã Nghi Trung, huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An - Một miền quê nghèo khó nhưng hiếu học và cách mạng. Thân
phụ ông là cụ Nguyễn Đức Tân, đậu cử nhân, làm quan Hành Tẩu trong triều đình
nhà Nguyễn - một nhà nho yêu nước từng tích cực hưởng ứng phong trào Cần Vương
chống Pháp. Gặp cảnh nước mất nhà tan, cụ bỏ quan về quê. Cụ có công lớn với
dân làng nên khi còn sống được lập đền thờ (sinh từ). Gia đình của cụ có nhiều người
khoa bảng, yêu nước và cách mạng.
Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013
Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013
Tuong ve huu...
Tướng về hưu Nguyễn Công Trứ
GIAO HƯỞNG
Dưới triều Nguyễn xứ Nghệ có ông Tướng
về hưu tuyệt vời, đó là Danh nhân Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, là nhà
quân sự, nhà
kinh tế, nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại. Cụ Trứ xuất thân từ quan văn, nhưng khi triều
đình yêu cầu làm tướng võ thì Cụ vẫn sẵn sàng cầm quân đánh đâu thắng đó.
Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013
Vang
Vắng
Lưu Vạn Kha
Từ ngày vắng em,
Căn nhà của chúng mình
tưởng như gầy và già đi vài tuổi,
Lúc nào cũng im lìm,
Cửa sổ mờ mờ phủ bụi,
Bếp thiếu lửa hồng,
Nhà thưa tiếng nói.
Gió
Gió
N.Ghiden (Cuba)

Bạn không thể hình dung nổi
Đêm qua gió thổi thế nào
Người ta nhìn thấy gió
Đuôi cứng dài và mắt như sao
*
**
Không có gì làm gió lạc đường đâu
(kể cả nguyện cầu và bỏ phiếu)
Gió ào đến túp lều
đến con thuyền đơn
chiếc
đến vườn cây, đến những gì cần thiết
Gió phá đi, mà gió chẳng biết gì
*
**
Cho đến sáng nay họ trói
gió đem về
Họ bất ngờ bắt được
Gió đang lang thang trên đồng lầy thược dược
Gió đang mơ màng
Như những kẻ đang
yêu.
Lưu Vạn Kha dịch
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)