Những kỷ niệm
về
Thượng tướng Trần Văn Quang
Nguyễn Mạnh Đẩu
(Bài đăng Báo Cựu chiến binh Việt Nam, ngày 14/11/2013)
(Bài đăng Báo Cựu chiến binh Việt Nam, ngày 14/11/2013)
Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên trong Tổng tiến công Mậu Thân, 1968 Hàng trước từ trái sang: Đặng Kinh, Trần Văn Quang, Lê Chưởng, Thanh Quảng |
Thế là Thượng tướng Trần Văn Quang không còn nữa!
Mấy ngày nay không mấy khi tôi không nghĩ về ông. Chiều ngày 9-11-2013, trong đoàn người lặng lẽ tiễn đưa ông
về nơi an nghỉ cuối cùng ở Nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội, với nỗi tiếc thương, lòng
tôi bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm về Thượng tướng Trần Văn Quang.
Là người cùng quê, ông coi tôi vừa là cấp dưới, vừa như con cháu trong nhà. Ông thường chỉ bảo tôi những điều hay, lẽ phải
trong công tác và trong đời sống. Thời kỳ từ năm 1982 đến 1988, Cục Chính sách
trực thuộc Bộ Quốc phòng. Là Thứ trưởng
Bộ Quốc phòng, ngoài các trọng trách như chỉ đạo công tác đối ngoại quân sự,
lịch sử và tổng kết chiến tranh,… ông
Trần Văn Quang còn trực tiếp theo dõi, chỉ đạo công tác chính sách quân đội. Hồi đó, tôi là Phó trưởng phòng rồi Trưởng
phòng Nghiên cứu - Tổng hợp của Cục nên thường được Thiếu tướng, Cục trưởng Lê Tiến Phục,
tiếp đến là Thiếu tướng, Cục trưởng Doãn Sửu
giao nhiệm vụ báo cáo công việc trực tiếp với ông, lĩnh hội ý kiến chỉ
đạo của ông đối với Cục Chính sách. Nhiều lần tôi “cắp cặp” tháp tùng ông dự các hội nghị chuyên
đề công tác chính sách tại các bộ, ngành và Chính phủ; đi nắm tình hình công
tác ở các đơn vị, địa phương, hoặc xuống cơ sở… Bởi thế, tôi có nhiều kỷ niệm
về ông. Có những kỷ niệm, có những lời ông căn dặn tôi khắc ghi, làm theo hằng
ngày.
Còn nhớ, năm
1982, tôi được Cục trưởng Cục Chính sách giao nhiệm vụ lên nhà “Con Rồng” thông qua ông dự thảo Báo
cáo Công tác chính sách của Bộ Quốc phòng trình lên Chính phủ, do Cục chuẩn bị.
Báo cáo dài 15 trang đánh máy, khổ A4. Thoạt
đầu, ông cầm bản báo cáo trên tay xem
lướt rất nhanh một lượt, rồi nói:
- Cháu đọc đi.
Tôi mới đọc được 3 trang, thì ông đột ngột đứng dậy, nét mặt không bằng lòng.
Ông nói :
- Viết thế là chưa được. Dài dòng văn tự. Thôi! Để lại
bản báo cáo, về đi.
Tôi vừa về đến Cục, thì Cục trưởng Lê Tiến Phục đã sốt sắng hỏi:
- Thông qua nhanh thế. Xong rồi à?
Tôi buồn bã nói:
- Dạ, không phải thế ạ. Bác Quang chưa nghe xong đã “đuổi”
cháu về.
Hiểu được tâm trạng tôi, Cục trưởng động viên:
- Không sao đâu. Cùng làm việc với nhau nhiều năm tôi
biết, thủ trưởng Quang là người thẳng thắn bộc trực thế đấy. Cái gì không bằng
lòng là “cụ” nói ngay, nhưng không hề để bụng đâu.
Khoảng một giờ
sau điện thoại ở phòng trực ban Cục reo
lên. Trực ban nói, Thủ trưởng Quang gọi anh lên ngay. Tôi nghĩ là lần này thế
nào cũng bị thủ trưởng “quạt” cho một trận. Nhưng vừa bước vào phòng ông đã
đứng dậy vừa rót nước cho tôi, vừa ân cần nói:
- Cháu uống nước đi. Bác đọc, sửa lại rồi. Phần sau
viết tốt đấy. “Chữ , nghĩa” quan trọng lắm, phải phản ánh đúng nội dung. Bản
báo cáo cũng như bài văn ấy, có mở đầu, thân bài, kết luận. Đoạn đầu phải viết
gọn lại…
Thật khó mà diễn tả được hết niềm vui của tôi khi được
nghe thủ trưởng nhận xét như thế. Nhận tài liệu từ tay ông, tôi xin phép ra về.
Quãng đường từ nhà “Con Rồng” về Cục khoảng 500 mét, tôi đi thật nhanh về phòng,
cài kín cửa lại rồi mở bản báo cáo ra xem. Cứ như cậu học trò đọc lại bài thi
của mình với lời phê của thầy giáo vậy.
Thật bất ngờ, bản báo cáo đã được ông sửa rất cẩn thận
từ trang đầu đến trang cuối. Chữ viết của ông rất đẹp và sang. Ông không góp ý
chung chung mà thể hiện cụ thể, chính kiến rõ ràng. Có những câu ông chỉ đổi
một từ, thay một chữ là rõ hẳn ngữ nghĩa. Nhất là đoạn mở đầu ông gợi ý ra lề cho chúng tôi chuẩn bị lại thật là dễ
hiểu, dễ viết. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần những câu ông sửa. Càng đọc, càng
ngẫm nghĩ, càng kính phục. Ông không chỉ
là người nêu ý tưởng, chỉ đạo nội dung mà còn là người thể hiện văn bản rất sắc
sảo, chi tiết, cụ thể, văn phong trong sáng, mạch lạc.
Sau
này cứ mỗi lần đặt bút viết là tôi nhớ những lời ông căn dặn, nhớ những câu,
những chữ mà ông sửa.
Kỷ niệm nữa là cuối năm 1984, Tạp chí Cộng sản đặt bài
ông viết về chủ đề về Công tác chính
sách đối với quân đội và hậu phương quân đội. Ông không giao cho thư ký hoặc cơ quan chuẩn bị
mà tự mình trực tiếp viết bài bằng bút mực trên 4 trang giấy khổ A4. Ông gọi
tôi sang bảo:
- Cháu cầm về đọc và sửa giúp bác.
Về nhà tôi đọc lại mấy lần. Sau đó, cũng nghĩ đơn giản
là Thủ trưởng đã tin tưởng giao thì mình cứ làm, miễn là phải đúng. Thế là, cầm
chiếc bút mực đỏ trong tay tôi đọc và
sửa trực tiếp vào bản thảo. Tôi mới sửa được chưa đẩy nửa trang, thì anh Nguyễn
Hữu Quyền, Phó Cục trưởng bước vào phòng hỏi tôi:
- Cậu đang làm gì thế?
Tôi báo cáo
lại. Anh Quyền tròn mắt nói:
- Chết. Không được đâu. Cậu không thấy bản thảo thủ
trưởng viết cẩn thận, chữ đẹp đến thế này mà cậu lại cả gan sửa trực tiếp vào
đó sao. Phải chép lại một bản khác để
tham gia. Nhưng chú ý rằng, cái gì thật cần thiết thì mới được sửa.
Ngày đó sao chép thủ công, chưa có Photocophy như bây
giờ. Tôi phải tẩy đi những chỗ đã sửa và nhờ anh Hồ Ngọc Vận là người viết chữ đẹp nhất
của Phòng chép lại, rồi mới tham gia. Xong, tôi kẹp cẩn thận cả hai bản lại, để bản
thủ trưởng viết lên trên. Chiều hôm đó, tôi
mang sang nộp cho ông.
Cầm lại bản thảo ông hỏi:
- Ơ hay! Cháu không tham gia gì cả à?
Tôi báo cáo. Ông mới lật bản dưới lên xem. Rồi vỗ vào vai
tôi ông vừa cười vừa nói:
- Cháu cẩn thận quá, máy móc quá. Bác không coi bản
thảo của mình đã là hoàn chỉnh, nên mới nhờ cháu xem và sửa giúp - cả nội dung
và văn phong. Sao cháu không sửa ngay vào bản thảo bác viết. Chép lại rồi mới
sửa thế này là hình thức mà lại lãng phí.
Dừng lại độ nửa phút, ông đổi giọng, nói chắc từng từ:
- Nên nhớ là, với mọi việc, khi soạn thảo văn bản, dù chỉ
là một bài báo, cũng đều cần phải tranh thủ ý kiến của chuyên gia, dù họ là cấp
dưới xa. Và thêm điều này nữa, không bao giờ được lãng phí.
Thật là nhẹ nhàng, nhưng cũng thật sâu sắc và thấm
thía. Sau này trên từng cương vị công tác của mình, tôi luôn nhớ câu nói của
ông - một lời dạy bảo ân tình.
Tôi được biết, ông còn có một thói quen chú trọng ghi
chép công việc hàng ngày. Chỗ nào quan trọng cần ghi nhớ ông dùng bút mực đỏ
đánh dấu lại và lưu giữ rất cẩn thận. Có lần tôi hỏi, ông vui vẻ nói “đây là tư
liệu, là cẩm nang rất quý đấy, cháu ạ”. Lúc đó tôi chưa hiểu. Nhưng sau này,
khi được Trung ương giao đảm trách cương vị Chủ tịch đầu tiên của Hội Cựu Chiến
binh Việt Nam, ông đã chỉ đạo triển khai rất kịp thời và thành công hàng loạt
các quy định như Điều lệ; Chức năng, nhiệm vụ; Quy chế hoạt động… của Hội, tôi
mới biết rằng, ông đã đúc kết kinh nghiệm, tích lũy trong suốt chiều dài lãnh
đạo chỉ đạo các mặt công tác trong quân đội để vận dụng đúng đắn trong điều
kiện mới.
Giữa năm 2009, khi ông điều trị ở Khoa A11- Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108, có lần tôi vào thăm. Hai bác cháu chuyện trò hơn một tiếng
đồng hồ. Ngày đó ông còn rất minh mẫn, tỉnh táo. Ông kể với tôi nhiều chuyện
hoạt động cách mạng, chuyện quê hương, gia đình. Ông kể, vào tháng 3 năm 1941, khi
ông vượt ngục, bắt liên lạc được với Xứ ủy Trung kỳ. Ông Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy
Trung kỳ giao cho ông về Nghệ An củng cố, xây dựng lại Tỉnh ủy Nghệ An, sau một
thời gian dài bị khủng bố. Ông đã cùng ông Nguyến Văn Linh (Mười Cúc) về hoạt
động bí mật ở huyện Nghi Lộc. Có lần, hai ông phải ra ngủ giữa ruộng khoai lang
ở cánh đồng Choàng, gần làng tôi. Đang đêm bất chợt trời mưa rào, cả hai ông
ngủ giữa rãnh khoai ướt sũng hết. Và nhiều chuyện khác nữa…
Tôi nói với ông:
- Cả cuộc đời hoạt
động phong phú, sôi động, trải qua nhiều chiến trường, đảm nhiệm nhiều trọng
trách, là người có rất nhiều công tích gắn với biết bao sự kiện lịch sử, bác nên viết một cuốn hồi ký để lưu lại cho
đời và cho con cháu.
Ông ưu tư chậm
rãi nói:
- Thôi cháu ạ, nhiều nội dung trong cuộc đời của bác
đã được thể hiện trên một số trang lịch sử của một số địa phương, đơn vị, cơ
quan nơi bác đã từng tham gia hoạt động. Bác không có ý định viết hồi ký đâu.
Nghe ông nói, tôi thầm nghĩ, vẫn biết ông là người có nhiều điều kiện và khả năng để thể hiện một tập hồi ký thật phong phú
và có giá trị sâu sắc. Nhưng ông không muốn nói về mình.
Mấy kỷ niệm nhỏ đều là bài học sâu sắc mà Thượng tướng
Trần Văn Quang đã chỉ bảo cho tôi. Tôi không bao giờ quên, luôn luôn cố gắng
học tập và làm theo.
Ông
không còn nữa, song tấm gương mẫu mực về một vị tướng tài cao, đức rộng, “quân
sự, chính trị song toàn” của ông thì còn mãi trong niềm kính trọng, thương tiếc
của chúng tôi - những người lính Bộ đội Cụ Hồ được ông góp phần giáo dục, rèn
luyện./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét