Hào quang Thánh
Tiên Điền
GIAO HƯỞNG
Năm 1965, UNESCO vinh danh Nguyễn Du là Đại thi hào thế giới, lập tức
tạo ra "cơn địa chấn" Truyện Kiều tại
nhiều nước Âu, Á... Ngày 12.4.2013, Ban chấp hành UNESCO thông qua Nghị quyết đề nghị, và tháng
11.2013 Đại hội đồng UNESCO ra QĐ vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân Văn hóa Thế giới,
QĐ về mọi hoạt động tôn vinh Nguyễn Du tiến hành trong hai năm 2014, 2015, tại 195
nước thành viên.
Tác giả Giao Hưởng |
Miếng sắt và khối
vàng ròng
Người Việt không vật chất hóa giá trị tinh thần, họ coi tuyệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du là khối vàng
ròng đúc bằng chữ Nôm. Năm 1965 khi cụ
Tiên Điền được vinh danh là Đại thi hào
thế giới, cơn “địa chấn" Nguyễn Du lan đến cố hương của tích
"Thúy Kiều”, bấy giờ dân bản địa mới vỡ nhẽ Kim Vân Kiều truyện
cùng tác giả Thanh Tâm Tài Nhân là của nước mình. Thời trường huyện tôi được
thầy Tú Tý cho biết Thúy Kiều phát tích từ Hàng Châu, Trung Quốc, khi cụ Nguyễn
Du đi sứ thì trước đó bên Tàu đã có trên nửa tá văn nhân bản địa dựa trên đề
tài "Thúy Kiều" viết ra nhiều tiểu thuyết khác nhau. Năm 1977 tôi theo nhóm sinh viên Ngữ Văn vào Thư
viện quốc gia Hà Nội, tìm đọc bài của học giả Phạm Quỳnh đăng trên Tạp chí
Nam Phong số 30 tháng 12.1919. Ngày ấy ý kiến "lạc điệu"của
cụ Phạm Quỳnh về Truyện Kiều vẫn bị đắp chiếu càng khiến chúng tôi nắn nót chép
giữ lời vàng của cụ: Nguyên bộ tiểu
thuyết Tàu mà cụ (Nguyễn Du) phỏng
theo để đặt ra truyện Kiều đề là “Thanh Tâm tài nhân lục”, không biết rõ tác giả
là ai, soạn vào đời nào, nhưng truyện với lời văn cũng tầm thường, ngoài mấy
bài từ điệu có vẻ thanh tao lưu loát, không có đặc sắc gì....
Cụ Phạm
viết những dòng này khi cả dân tộc đang dưới ách nô lệ lầm than, cụ vẫn chưa
biết tên thật của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân
là Từ Văn Trường, sống khoảng
cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17 đời nhà Thanh, trước Từ Văn Trường đã có loạt tên tuổi như Dư Hoài, Đới Sĩ Lâm, Mộng Giác Đạo
Nhân…và sau Từ Văn Trường còn có
Diệp Trĩ Phỉ, Hạ Bỉnh Hoành cũng dựa vào tích
"Thúy Kiều" để dựng thành tác phẩm. Nhưng cụ Phạm Quỳnh rất đúng
trong đánh giá cuốn Kim Vân Kiều truyện “...
truyện với lời văn cũng tầm thường, ngoài mấy bài từ điệu có vẻ thanh tao lưu
loát, không có đặc sắc gì…”. Lạt mềm buộc chặt, cụ Phạm tế nhị đóng nắp
quan tài cho nó bằng hai chữ tầm thường, mà
không gay gắt toạc móng heo như đánh giá sau đây của GS Đổng Văn Thành dạy
trường đại học Liêu Ninh (Trung Quốc): “Cuốn sách của tác giả Thanh Tâm Tài
Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỷ trong văn học sử Trung Quốc; Từ cuối đời Thanh
cho tới những năm 50 của thế kỷ XX, cuốn tiểu thuyết ấy hầu như được ít người biết đến. Trong tất cả các sách về lịch
sử tiểu thuyết, lịch sử văn học...đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó…Cuốn sách hầu như
bị sổ toẹt, từ đó tiếng xấu lan xa trong ngoài nước. Lúc được phát hiện thì
đồng thời cũng là lúc dường như bị phán quyết án tử hình. Truyện Kim Vân Kiều
khó mà thay đổi được số phận đáng buồn là bị vứt bỏ. Sau khi người Trung Quốc
tự đẩy cuốn tiểu thuyết của mình xuống vực, học giả nước ngoài nghiên cứu văn
học Trung Quốc càng không thèm để ý đến nữa…Phải chăng tác giả Trung Quốc Thanh
Tâm tài nhân-con người “tầm thường”, “không thể cứu chữa”- đã làm hỏng đề tài
Vương Thúy Kiều đến nỗi không một chỗ nào coi được, phải hoàn toàn nhờ sự gia
công thiên tài của tác giả Việt Nam Nguyễn Du mới biến miếng sắt bỏ đi thành
vàng ròng lấp lánh ?...”
Núi Hồng sông Lam |
Có tích mới
dịch nên tuồng, đúc kết dân gian xem ra không
đúng với tích "Thúy Kiều" và với nửa tá tác phẩm tác giả bản địa, khi
họ chỉ làm nên lượng tác phẩm hùng hậu để rồi sớm bị thời gian và biển đời chôn
vùi.Trái khoáy đã xảy ra ở nơi cách xứ Nghệ quê Nguyễn Du hàng vạn dặm. Đến nay ta
vẫn chưa biết trong thời gian đi sứ Trung Quốc, bằng cách nào cụ Tiên Điền tầm
được Kim Vân Kiều truyện-cuốn tiểu thuyết chương hôì của
Thanh Tâm Tài Nhân. Thường thì của hiếm là của quý, song với cuốn này hiếm nhưng không quý, vì
không quý nên nó bị
độc giả người Trung Quốc vứt bỏ không thương tiếc, nên về sau nó thành "của
hiếm" tại Trung Quốc sau là tại Việt Nam. Nó hiếm tới mức các nhà Kiều học
nước ta đầu thế kỷ 20 cũng không có nguyên bản Kim Vân Kiều truyện để tham chiếu, để biết cụ Nguyễn Du hơn Thanh
Tâm Tài Nhân và các tác giả bản địa bao nhiêu thang bậc về Tâm-Tài. Cũng tích ấy các văn nhân bản
địa làm ra miếng sắt bỏ đi, chỉ siêu văn nhân Nguyễn Du của Việt Nam mới chế thành vàng ròng lấp lánh. Khác biệt nữa là, các sách từ tích "Thúy Kiều" của các tác giả
sở tại đều không có phần Kim-Kiều tái hợp, chỉ Nguyễn Du của Việt Nam mới sáng tạo phần Kim-Kiều tái hợp, về sau giới Kiều học
phải mất nhiều chục năm, tốn nhiều giấy mực phân tích mổ xẻ coi phần tái hợp Kim-Kiều là sáng tạo nghệ thuật tuyệt
vời nhằm khẳng định tính tất yếu của luật nhân-quả, một luận thuyết nhà Phật đã
2500 năm rễ sâu gốc vững trong tâm thức các thế hệ người Việt.
Kế thừa tiếp biến, sáng tạo luận
thuyết nhân-quả của nhà Phật vào trong tác phẩm, nên nhiều ý kiến cho rằng
thuyết nhân-quả là tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm Truyện Kiều. Nhà nghiên cứu Trần
Trọng Kim cho rằng, Nguyễn Du ứng dụng lý thuyết nhân-quả với quan niệm nhân
nào quả ấy, hết quả này lại đeo cái nhân đã gây nên mà có cái quả khác. Nhân
tốt thì quả tốt, nhân xấu thì quả xấu, cứ luân chuyển mãi như thế trong cõi
hồng trần. Theo cái thuyết ấy thì phúc hay họa là ở tự mình gây ra cho mình. Làm
việc thiện hay việc ác, trước hết mình phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc
ấy. Quan niệm "nhân nào quả ấy" như một tất yếu trong suy nghĩ, tình
cảm, nó được thể hiện qua văn hóa ứng xử thường ngày của các thế hệ người Việt.
Chưa một tác phẩm văn học nào của
nước ta với sự lý giải của người viết về nhân-quả; tài-mệnh; trời-người; ác giả
ác báo… vv… lại được người đọc đồng thuận cao như Truyện Kiều, đó cũng là căn
nguyên để dân vùng bãi ngang xứ Nghệ đồng cảm với quan niệm trong tác phẩm
Truyện Kiều. Đồng cảm tới mức họ luôn
“tin trời có mắt" để cứu nhân độ thế, phù hộ những người tự giác tu
tâm lấy chữ Hiếu chữ Đức làm đầu. Những phụ nữ cao tuổi vùng biển chưa một ngày
tới trường vẫn thuộc lòng hằng trăm câu Kiều, trước thiên tai chướng họa luôn
rình rập, các bà các mẹ lại bói Kiều, lại gọi Nguyễn Du là " ông Thánh
Tiên Điền" để cầu xin tai qua nạn khỏi, mưa thuận gió hòa, cầu cho con
cháu biết tích đức tu tâm thành người có ích của gia đình, xã hội. Trong dòng
chảy ngàn năm văn học viết nước nhà, Truyện Kiều là tác phẩm có sức sống mạnh
liệt nhất, gần gũi nhất với người đọc cả về tư tưởng tình cảm, cả về giá trị
nghệ thuật, gần gũi tới mức có thể coi Truyện Kiều là đỉnh cao cổ tích dân gian
viết bằng đặc sản lục bát Việt Nam.
Tìm vết tích “Thúy Kiều”
Năm 2006 trong
đoàn mấy chục Nhà báo tới Hàng Châu,Trung Quốc, tôi âm thầm tìm kiếm vết tích
"Thúy Kiều" để lý giải tại sao nơi phát "tích" lại không
dịch nên tuồng. Từ khách sạn bên bờ sông Tiền Đường
tôi nhìn rõ cầu Kiều bằng cốt sắt bê tông, trưa ấy tôi lên taxi đi chừng
dăm bảy cây số thì đến cầu, mình tôi bách bộ trên cầu
Kiều dài ngoẵng. Đi giữa nườm nượp dòng xe dòng người, tôi thầm so cầu
Kiều của Hàng Châu với cầu Bến Thủy của thành Vinh. Về độ dài hiện hữu trong
không gian, hai cầu đều trên dưới vài cây số.Về độ dài thời gian lưu giữ giữa
dòng đời, cầu Kiều của Hàng Châu dài gấp hàng chục lần cầu Bến Thủy của thành
Vinh. Tôi dõi theo từng mét lan can kiếm tìm hình bóng nàng Kiều, kiếm tìm nơi
nàng nức nở trước khi gieo mình xuống dòng Tiền Đường. Tôi cố tìm mà không thấy
vết tích Thúy Kiều sắc nước hương trời với 15 năm đầm đìa nước mắt, đến nay
người đời chưa cân đong nổi bao nhiêu nước mắt của nàng và bao nhiêu nước mắt
của cụ Tiên Điền. Nhưng điều khiến tôi bị hụt hẫng không vì tuổi đời dài ngắn
của cây cầu, cũng không vì tên gọi cây cầu, mà vì nước sông Tiền Đường không trong
xanh như tôi từng hình dung qua tác phẩm của cụ Tiên Điền. Rảo bước dọc cầu
Kiều, tôi bị cuốn vào dòng xe dòng người ầm ào chuyển động, cảm nhận được cây
cầu đang rung giật như gã động kinh dưới chân mình, chỉ thấy cây cầu như con
trăn khổng lồ đang rùng rùng chuyển động, chỉ nhận được những cú rung lắc như
kinh giật. Con trăn cầu Kiều và con trăn dòng Tiền Đường đã nuốt sạch vết tích Thúy
Kiều. Tôi trở về khách sạn với niềm tin Thúy Kiều có thật, nó từng được nhiều
người dịch mà không thành tuồng, chỉ có văn tài cụ Tiên Điền bên dòng Lam mới tạo
nên tuyệt phẩm thi ca.
Tối ấy quây quần vui vẻ tại phòng ăn khách sạn, cô hướng
dẫn viên du lịch từng học khoa Tiếng Việt Đại học KHXH&NV Hà Nội, cô
nói tiếng Việt với chúng tôi như người Việt nói với
người Việt, theo cô, Hồ Tôn Hiến (1512-1565) là đại thần có thật, ông đỗ Tiến
sĩ đời Minh Thế Tông, là nhà quân sự đánh dẹp nhiều cuộc nổi loạn, được
thăng Thái tử thái bảo, giữ chức Đô
Sát Viện Tả Đô Ngự Sử kiêm Thượng thư bộ Binh. Ông là nhà
viết văn viết sử, là người đầu tiên cho thuộc cấp chép lại việc đánh dẹp Từ
Hải, bắt Vương Thúy Kiều. Về sau vị đại quan này liên kết bè cánh tạo biến cố Canh
Tuất (1550), bị bắt giam rồi tự tử trong ngục. Từ câu chuyện
thật, mấy trăm năm sau các văn nhân Trung Quốc phóng tác thành nhiều tiểu
thuyết khác nhau, đến Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân đời nhà Thanh mới là "nguyên tác" để Nguyễn Du
của Việt Nam viết nên Truyện Kiều bất hủ.
Để cô hướng dẫn viên người Hoa hiểu đúng hiểu đủ về Nguyễn
Du về Việt Nam ,
tôi tự nguyện làm hướng dẫn viên bất đắc dĩ để nói với cô ấy đại thể là: Người
Việt có câu "một tiếng khỉ ho hơn vạn tiếng cò gáy". Cái tài của cụ Nguyễn
Du không do tích Thúy Kiều, như bạn biết, cũng tích ấy tại sao hơn nửa tá tác
phẩm trước và sau đó (tôi không nói là sách của Trung Quốc) đã một đi không trở
lại. Cụ Nguyễn Du-Viêt Nam hơn người ở
chỗ đã khắc họa thành công, Việt
hóa hoàn toàn tâm lý, tính cách, tâm hồn các nhân vật-điều mà ngay tại cố hương
Thúy Kiều cũng không ai làm nổi. Nếu bạn bơi
trong Truyện Kiều của Việt Nam sẽ thấy Nguyễn Du không trách trời, cụ
chỉ căm ghét bọn vô lương đầu trâu mặt ngựa hại người nơi trần gian.
Cụ Nguyễn Du mất năm 1820 tại Huế, an táng
tại cánh đồng Bàu Đá, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Nhà vua thương xót ban
tên thuỵ là "Trung Thanh", phúng điếu tiền bạc và đôi câu đối:
Nhất
đại tài hoa, vi sứ, vi khanh sinh bất thiểm
Bách
niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc tự do hương.
(Một kiếp tài hoa khi làm sứ, lúc làm khanh sống
không hổ thẹn. Trăm năm sự nghiệp việc nhà, việc nước chết vẫn còn thơm). Đôi câu đối được tạc khắc trước Nhà thờ. Năm 1824 gia quyến vào
Huế dời mộ ông về quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Bạn có dịp sang Việt Nam tôi đưa bạn đến Khu Di tích Đại thi hào
Nguyễn Du, bạn sẽ thấy tuyệt tác Truyện Kiều đã là ngọn tháp thi ca của Việt
Nam và thế giới, trên hai thế kỷ rồi chưa văn tài nào tự nhận mình lên tới đỉnh
của ngọn tháp Truyện Kiều, vậy mà Đại thi hào nước Nam vẫn muốn vĩnh hằng giữa
"thập loại chúng sinh". Hai
thế kỷ mấy đời vua, mấy thế hệ văn tài võ tướng đã về Tiên Điền nghiêng mình nhỏ
lệ trước nấm đất nhỏ nhoi. Trong bảng lãng khói hương ai cũng cảm nhận được
khoảng khắc gột rửa bụi trần bằng sự tinh khiết chỉ có ở thi ca, cảm nhận được cảnh
và tình, ngưỡng vọng được chữ Tâm chữ Tài và nhiều người đã khóc với máu thịt
cuộc đời còn ròng ròng trong tác phẩm. Đứng trước mộ Đại thi hào bạn được soi
mình trong ĐẠO LÀM NGƯỜI đã thành truyền thống của người Việt Nam, bạn được nghe
người quê tôi gọi cụ Nguyễn Du là Thánh Tiên Điền thay vì gọi Đại thi hào./.
-----------------------------------------------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét