Menu ngang

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014


                          Hào quang Thánh Tiên Điền

                                                                                                                                                                                    GIAO HƯỞNG

Năm 1965, UNESCO  vinh danh Nguyễn Du là Đại thi hào thế giới, lập tức tạo ra "cơn địa chấn" Truyện Kiều tại nhiều nước Âu, Á... Ngày 12.4.2013, Ban chấp hành UNESCO thông qua Nghị quyết đề nghị, và tháng 11.2013 Đại hội đồng UNESCO ra QĐ vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân Văn hóa Thế giới, QĐ về mọi hoạt động tôn vinh Nguyễn Du tiến hành trong hai năm 2014, 2015, tại 195 nước thành viên.
Tác giả  Giao Hưởng 

  Miếng sắt và khối vàng ròng

 Người Việt không vật chất hóa giá trị tinh thần, họ coi tuyệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du là khối vàng ròng đúc bằng chữ Nôm. Năm 1965 khi cụ Tiên Điền được vinh danh là Đại thi hào thế giới, cơn “địa chấn" Nguyễn Du lan đến cố hương của tích "Thúy Kiều”, bấy giờ dân bản địa mới vỡ nhẽ Kim Vân Kiều truyện cùng tác giả Thanh Tâm Tài Nhân là của nước mình. Thời trường huyện tôi được thầy Tú Tý cho biết Thúy Kiều phát tích từ Hàng Châu, Trung Quốc, khi cụ Nguyễn Du đi sứ thì trước đó bên Tàu đã có trên nửa tá văn nhân bản địa dựa trên đề tài "Thúy Kiều" viết ra nhiều tiểu thuyết khác nhau. Năm 1977 tôi theo nhóm sinh viên Ngữ Văn vào Thư viện quốc gia Hà Nội, tìm đọc bài của học giả Phạm Quỳnh đăng trên Tạp chí Nam Phong số 30 tháng 12.1919. Ngày ấy ý kiến "lạc điệu"của cụ Phạm Quỳnh về Truyện Kiều vẫn bị đắp chiếu càng khiến chúng tôi nắn nót chép giữ lời vàng của cụ: Nguyên bộ tiểu thuyết Tàu mà cụ (Nguyễn Du) phỏng theo để đặt ra truyện Kiều đề là “Thanh Tâm tài nhân lục”, không biết rõ tác giả là ai, soạn vào đời nào, nhưng truyện với lời văn cũng tầm thường, ngoài mấy bài từ điệu có vẻ thanh tao lưu loát, không có đặc sắc gì....

Cụ Phạm viết những dòng này khi cả dân tộc đang dưới ách nô lệ lầm than, cụ vẫn chưa biết tên thật của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân Từ Văn Trường, sống khoảng cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17 đời nhà Thanh, trước Từ Văn Trường đã có loạt tên tuổi như Dư Hoài, Đới Sĩ Lâm, Mộng Giác Đạo Nhân…và sau Từ Văn Trường còn có Diệp Trĩ Phỉ, Hạ Bỉnh Hoành cũng dựa vào tích "Thúy Kiều" để dựng thành tác phẩm. Nhưng cụ Phạm Quỳnh rất đúng trong đánh giá cuốn Kim Vân Kiều truyện “... truyện với lời văn cũng tầm thường, ngoài mấy bài từ điệu có vẻ thanh tao lưu loát, không có đặc sắc gì…”. Lạt mềm buộc chặt, cụ Phạm tế nhị đóng nắp quan tài cho nó bằng hai chữ tầm thường, mà không gay gắt toạc móng heo như đánh giá sau đây của GS Đổng Văn Thành dạy trường đại học Liêu Ninh (Trung Quốc): “Cuốn sách của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỷ trong văn học sử Trung Quốc; Từ cuối đời Thanh cho tới những năm 50 của thế kỷ XX, cuốn tiểu thuyết ấy hầu như được ít người biết đến. Trong tất cả các sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học...đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó…Cuốn sách hầu như bị sổ toẹt, từ đó tiếng xấu lan xa trong ngoài nước. Lúc được phát hiện thì đồng thời cũng là lúc dường như bị phán quyết án tử hình. Truyện Kim Vân Kiều khó mà thay đổi được số phận đáng buồn là bị vứt bỏ. Sau khi người Trung Quốc tự đẩy cuốn tiểu thuyết của mình xuống vực, học giả nước ngoài nghiên cứu văn học Trung Quốc càng không thèm để ý đến nữa…Phải chăng tác giả Trung Quốc Thanh Tâm tài nhân-con người “tầm thường”, “không thể cứu chữa”- đã làm hỏng đề tài Vương Thúy Kiều đến nỗi không một chỗ nào coi được, phải hoàn toàn nhờ sự gia công thiên tài của tác giả Việt Nam Nguyễn Du mới biến miếng sắt bỏ đi thành vàng ròng lấp lánh ?...”
Núi Hồng sông Lam 
Có tích mới dịch nên tuồng, đúc kết dân gian xem ra không đúng với tích "Thúy Kiều" và với nửa tá tác phẩm tác giả bản địa, khi họ chỉ làm nên lượng tác phẩm hùng hậu để rồi sớm bị thời gian và biển đời chôn vùi.Trái khoáy đã xảy ra ở nơi cách xứ Nghệ quê Nguyễn Du hàng vạn dặm. Đến nay ta vẫn chưa biết trong thời gian đi sứ Trung Quốc, bằng cách nào cụ Tiên Điền tầm được Kim Vân Kiều truyện-cuốn tiểu thuyết chương hôì của Thanh Tâm Tài Nhân. Thường thì của hiếm là của quý, song với cuốn này hiếm nhưng không quý, vì không quý nên nó bị độc giả người Trung Quốc vứt bỏ không thương tiếc, nên về sau nó thành "của hiếm" tại Trung Quốc sau là tại Việt Nam. Nó hiếm tới mức các nhà Kiều học nước ta đầu thế kỷ 20 cũng không có nguyên bản Kim Vân Kiều truyện để tham chiếu, để biết cụ Nguyễn Du hơn Thanh Tâm Tài Nhân và các tác giả bản địa bao nhiêu thang bậc về Tâm-Tài. Cũng tích ấy các văn nhân bản địa làm ra miếng sắt bỏ đi, chỉ siêu văn nhân Nguyễn Du của Việt Nam mới chế thành vàng ròng lấp lánh. Khác biệt nữa là, các sách từ tích "Thúy Kiều" của các tác giả sở tại đều không có phần Kim-Kiều tái hợp, chỉ Nguyễn Du của Việt Nam mới sáng tạo phần Kim-Kiều tái hợp, về sau giới Kiều học phải mất nhiều chục năm, tốn nhiều giấy mực phân tích mổ xẻ coi phần tái hợp Kim-Kiều là sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời nhằm khẳng định tính tất yếu của luật nhân-quả, một luận thuyết nhà Phật đã 2500 năm rễ sâu gốc vững trong tâm thức các thế hệ người Việt.
Kế thừa tiếp biến, sáng tạo luận thuyết nhân-quả của nhà Phật vào trong tác phẩm, nên nhiều ý kiến cho rằng thuyết nhân-quả là tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm Truyện Kiều. Nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim cho rằng, Nguyễn Du ứng dụng lý thuyết nhân-quả với quan niệm nhân nào quả ấy, hết quả này lại đeo cái nhân đã gây nên mà có cái quả khác. Nhân tốt thì quả tốt, nhân xấu thì quả xấu, cứ luân chuyển mãi như thế trong cõi hồng trần. Theo cái thuyết ấy thì phúc hay họa là ở tự mình gây ra cho mình. Làm việc thiện hay việc ác, trước hết mình phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc ấy. Quan niệm "nhân nào quả ấy" như một tất yếu trong suy nghĩ, tình cảm, nó được thể hiện qua văn hóa ứng xử thường ngày của các thế hệ người Việt.
Chưa một tác phẩm văn học nào của nước ta với sự lý giải của người viết về nhân-quả; tài-mệnh; trời-người; ác giả ác báo… vv… lại được người đọc đồng thuận cao như Truyện Kiều, đó cũng là căn nguyên để dân vùng bãi ngang xứ Nghệ đồng cảm với quan niệm trong tác phẩm Truyện Kiều. Đồng cảm tới mức họ luôn  “tin trời có mắt" để cứu nhân độ thế, phù hộ những người tự giác tu tâm lấy chữ Hiếu chữ Đức làm đầu. Những phụ nữ cao tuổi vùng biển chưa một ngày tới trường vẫn thuộc lòng hằng trăm câu Kiều, trước thiên tai chướng họa luôn rình rập, các bà các mẹ lại bói Kiều, lại gọi Nguyễn Du là " ông Thánh Tiên Điền" để cầu xin tai qua nạn khỏi, mưa thuận gió hòa, cầu cho con cháu biết tích đức tu tâm thành người có ích của gia đình, xã hội. Trong dòng chảy ngàn năm văn học viết nước nhà, Truyện Kiều là tác phẩm có sức sống mạnh liệt nhất, gần gũi nhất với người đọc cả về tư tưởng tình cảm, cả về giá trị nghệ thuật, gần gũi tới mức có thể coi Truyện Kiều là đỉnh cao cổ tích dân gian viết bằng đặc sản lục bát Việt Nam.

          Tìm vết tích “Thúy Kiều”

    Năm 2006 trong đoàn mấy chục Nhà báo tới Hàng Châu,Trung Quốc, tôi âm thầm tìm kiếm vết tích "Thúy Kiều" để lý giải tại sao nơi phát "tích" lại không dịch nên tuồng. Từ khách sạn bên bờ sông Tiền Đường tôi nhìn rõ cầu Kiều bằng cốt sắt bê tông, trưa ấy tôi lên taxi đi chừng dăm bảy cây số thì đến cầu, mình tôi bách bộ trên cầu Kiều dài ngoẵng. Đi giữa nườm nượp dòng xe dòng người, tôi thầm so cầu Kiều của Hàng Châu với cầu Bến Thủy của thành Vinh. Về độ dài hiện hữu trong không gian, hai cầu đều trên dưới vài cây số.Về độ dài thời gian lưu giữ giữa dòng đời, cầu Kiều của Hàng Châu dài gấp hàng chục lần cầu Bến Thủy của thành Vinh. Tôi dõi theo từng mét lan can kiếm tìm hình bóng nàng Kiều, kiếm tìm nơi nàng nức nở trước khi gieo mình xuống dòng Tiền Đường. Tôi cố tìm mà không thấy vết tích Thúy Kiều sắc nước hương trời với 15 năm đầm đìa nước mắt, đến nay người đời chưa cân đong nổi bao nhiêu nước mắt của nàng và bao nhiêu nước mắt của cụ Tiên Điền. Nhưng điều khiến tôi bị hụt hẫng không vì tuổi đời dài ngắn của cây cầu, cũng không vì tên gọi cây cầu, mà vì nước sông Tiền Đường không trong xanh như tôi từng hình dung qua tác phẩm của cụ Tiên Điền. Rảo bước dọc cầu Kiều, tôi bị cuốn vào dòng xe dòng người ầm ào chuyển động, cảm nhận được cây cầu đang rung giật như gã động kinh dưới chân mình, chỉ thấy cây cầu như con trăn khổng lồ đang rùng rùng chuyển động, chỉ nhận được những cú rung lắc như kinh giật. Con trăn cầu Kiều và con trăn dòng Tiền Đường đã nuốt sạch vết tích Thúy Kiều. Tôi trở về khách sạn với niềm tin Thúy Kiều có thật, nó từng được nhiều người dịch mà không thành tuồng, chỉ có văn tài cụ Tiên Điền bên dòng Lam mới tạo nên tuyệt phẩm thi ca.
Tối ấy quây quần vui vẻ tại phòng ăn khách sạn, cô hướng dẫn viên du lịch từng học khoa Tiếng Việt Đại học KHXH&NV Hà Nội, cô nói tiếng Việt với chúng tôi như người Việt nói với người Việt, theo cô, Hồ Tôn Hiến (1512-1565) là đại thần có thật, ông đỗ Tiến sĩ đời Minh Thế Tông, là nhà quân sự đánh dẹp nhiều cuộc nổi loạn, được thăng Thái tử thái bảo, giữ chức Đô Sát Viện Tả Đô Ngự Sử kiêm Thượng thư bộ Binh. Ông là nhà viết văn viết sử, là người đầu tiên cho thuộc cấp chép lại việc đánh dẹp Từ Hải, bắt Vương Thúy Kiều. Về sau vị đại quan này liên kết bè cánh tạo biến cố Canh Tuất (1550), bị bắt giam rồi tự tử trong ngục. Từ câu chuyện thật, mấy trăm năm sau các văn nhân Trung Quốc phóng tác thành nhiều tiểu thuyết khác nhau, đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đời nhà Thanh mới là "nguyên tác" để Nguyễn Du của Việt Nam viết nên Truyện Kiều bất hủ.
Để cô hướng dẫn viên người Hoa hiểu đúng hiểu đủ về Nguyễn Du về Việt Nam, tôi tự nguyện làm hướng dẫn viên bất đắc dĩ để nói với cô ấy đại thể là: Người Việt có câu "một tiếng khỉ ho hơn vạn tiếng cò gáy". Cái tài của cụ Nguyễn Du không do tích Thúy Kiều, như bạn biết, cũng tích ấy tại sao hơn nửa tá tác phẩm trước và sau đó (tôi không nói là sách của Trung Quốc) đã một đi không trở lại. Cụ Nguyễn Du-Viêt Nam hơn người ở chỗ đã khắc họa thành công, Việt hóa hoàn toàn tâm lý, tính cách, tâm hồn các nhân vật-điều mà ngay tại cố hương Thúy Kiều cũng không ai làm nổi. Nếu bạn bơi trong Truyện Kiều của Việt Nam sẽ thấy Nguyễn Du không trách trời, cụ chỉ căm ghét bọn vô lương đầu trâu mặt ngựa hại người nơi trần gian.
Cụ Nguyễn Du mất năm 1820 tại Huế, an táng tại cánh đồng Bàu Đá, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Nhà vua thương xót ban tên thuỵ là "Trung Thanh", phúng điếu tiền bạc và đôi câu đối: 
          Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi khanh sinh bất thiểm
          Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc tự do hương.
(Một kiếp tài hoa khi làm sứ, lúc làm khanh sống không hổ thẹn. Trăm năm sự nghiệp việc nhà, việc nước chết vẫn còn thơm). Đôi câu đối được tạc khắc trước Nhà thờ. Năm 1824 gia quyến vào Huế dời mộ ông về quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Bạn có dịp sang Việt Nam tôi đưa bạn đến Khu Di tích Đại thi hào Nguyễn Du, bạn sẽ thấy tuyệt tác Truyện Kiều đã là ngọn tháp thi ca của Việt Nam và thế giới, trên hai thế kỷ rồi chưa văn tài nào tự nhận mình lên tới đỉnh của ngọn tháp Truyện Kiều, vậy mà Đại thi hào nước Nam vẫn muốn vĩnh hằng giữa "thập loại chúng sinh".  Hai thế kỷ mấy đời vua, mấy thế hệ văn tài võ tướng đã về Tiên Điền nghiêng mình nhỏ lệ trước nấm đất nhỏ nhoi. Trong bảng lãng khói hương ai cũng cảm nhận được khoảng khắc gột rửa bụi trần bằng sự tinh khiết chỉ có ở thi ca, cảm nhận được cảnh và tình, ngưỡng vọng được chữ Tâm chữ Tài và nhiều người đã khóc với máu thịt cuộc đời còn ròng ròng trong tác phẩm. Đứng trước mộ Đại thi hào bạn được soi mình trong ĐẠO LÀM NGƯỜI đã thành truyền thống của người Việt Nam, bạn được nghe người quê tôi gọi cụ Nguyễn Du là Thánh Tiên Điền thay vì gọi Đại thi hào./.
-----------------------------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét