Menu ngang

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỜI GIAN (CHƯƠNG 4)


                                                                      Chương bốn

            Tham gia Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào


  Tháng 1 năm 1971, thực hiện Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, quân đội Sài Gòn tiến hành Cuộc hành quân Lam Sơn 719, đánh lên Đường 9 - Nam Lào, hòng chặt đứt tuyến vận chuyển chiến lược Bắc- Nam của ta. Lực lượng địch huy động rất lớn, gồm: 3 sư đoàn (1 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến), 1 liên đoàn biệt động quân, 1 lữ đoàn thiết giáp, 13 tiểu đoàn pháo binh ngụy; 20 tiểu đoàn Mỹ (7 tiểu đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn pháo binh, 5 tiểu đoàn thiết giáp) và 2 trung đoàn quân ngụy Lào phối hợp ở hướng Tây. Tổng quân số khoảng 5 vạn tên ( tương đương 5 sư đoàn bộ binh).
Để chặn đứng, đánh bật cuộc hành quân, tiêu diệt lớn quân địch, giữ vững hành lang huyết mạch của cuộc kháng chiến, tuyến vận chuyển Chiến lược 559, từ đó từng bước đánh bại Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, Quân đội ta đã thực hành chiến dịch phản công với qui mô rất lớn. Lực lượng ta có 5 sư đoàn bộ binh (gồm các sư đoàn: 2, 304, 308, 320 và 324), các lực lượng tại chỗ (Mặt trận B5, Trị Thiên, Đoàn 559), 3 tiểu đoàn tăng-thiết giáp, 4 trung đoàn pháo mặt đất, 4 trung đoàn pháo phòng không, 3 trung đoàn công binh, một số tiểu đoàn đặc công, thông tin,…Chiến dịch bắt đầu từ ngày 30 tháng 1 năm 1971.

Đang đứng chân ở vùng A Lưới - Thừa Thiên, chúng tôi được lệnh hành quân cấp tốc ra Đường 9 - Nam Lào. Vừa đi vừa phổ biến quán triệt nhiệm vụ vừa xây dựng quyết tâm chiến đấu cho anh em.
Ngày 5 tháng 2 năm 1971, khi chúng tôi mới hành quân ra đến Trạm 19 thì gặp địch. Sở trường của bộ đội đặc công là táo bạo, bí mật, bất ngờ tập kích địch trong cứ điểm vào ban đêm. Đánh hiểm, đánh nhanh, thắng nhanh và rút khỏi trận địa nhanh. Vũ khí trang bị của đặc công là gọn nhẹ. Trong biên chế trang bị chỉ có thủ pháo, lựu đạn, súng tiểu liên AK và B40, B41;  không có các loại hỏa lực khác có uy lực lớn hơn (như: trung liên, đại liên, cối, ĐKZ, trọng liên 12,7 ly…).Vì vậy, đặc công khó phát huy sức mạnh trong tác chiến với bộ binh địch ở ngoài công sự. Sở đoản của đặc công là đánh địch ban ngày. Nhất là khi được giao nhiệm vụ chốt chặn phòng ngự, chiếm giữ mục tiêu, chiến đấu dưới sự oanh kích của phi pháo địch, thì đặc công càng khó hơn. Nay, gặp địch giữa ban ngày, mới khoảng 3 giờ chiều. Trong Ban Chỉ huy có anh  lo không hoàn thành nhiệm vụ, đề nghị cho bám nắm địch, chờ đến khi trời tối mới tập kích. Với tôi, trước khi chuyển sang đặc công đã từng chiến đấu bộ binh nhiều trận, nên đã quen với tình huống này. Tôi vẫn nhớ cách các anh lớp trước nói rằng, đây là hình thức chiến thuật “tao ngộ chiến”, nói theo thuật ngữ mới là “đánh gặp gỡ”. Trong trường hợp này, lý luận nguyên tắc yêu cầu phải “tam tiên”, nghĩa là phải nhanh chóng làm ba việc trước đối phương: triển khai trước, nổ súng trước, xung phong trước. Bởi thế, tôi trao đổi với anh Trần Viết Xuân đại đội trưởng và chúng tôi thống nhất quyết định triển khai đội hình chiến đấu ngay. Anh Xuân chỉ huy mũi 2. Tôi chỉ huy mũi 1 do anh Phạm Văn Quí mũi trưởng tiếp cận vào quân địch.
Khi cách địch chỉ còn khoảng 30 mét, nhìn rõ, nghe cả tiếng cuốc xẻng chúng đang đào công sự và nói chuyện với nhau. Biết chắc là quân ngụy. Tôi chỉ thị cho cậu Bình xạ thủ B40 ngắm vào chỗ địch đang tập trung, khi nào tôi hô thì bắn. Tôi quay sang nói với Quí mũi trưởng chuẩn bị nổ súng. Nhưng chẳng hiểu sao, Quí nói với tôi:
- Anh Đẩu ơi, không đánh được đâu, lực lượng ta thì ít mà địch đông lắm.
          Tôi cáu tiết:
- Ông có đánh không, thì bảo?
Quí vừa lắc đầu, vừa nói:
- Em xin anh!
Tức mình, tôi gọi Mai Sĩ Thanh mũi phó lại và tuyên bố:
- Từ giờ phút này, ông Thanh giữ chức mũi trưởng chỉ huy chiến đấu, còn ông Quí lùi về phía sau ngay.
Thanh:
-  Vâng!
Quí cứ thế lầm lũi quay ra. Tôi ra lệnh nổ súng. Trận đó đại đội tôi giành thắng lợi. Chúng tôi diệt được nhiều địch, thu vũ khí và bắt được một tù binh.
Xem giấy tờ tùy thân của  tên tù binh nó là Trần Hữu Đức, quê quán ở Quế Chữ, Hương Trà, Thừa Thiên; đã tốt nghiệp Trường Võ bị Thủ Đức, trung úy, đại đội trưởng thuộc trung đoàn 1, sư đoàn 1 bộ binh. Ngoài ra, nó còn mang theo giấy xác nhận được tặng thưởng huân chương, ghi rõ tuyên dương công trạng đã giết được 5 cán binh cộng sản, thu 3 súng cá nhân và 1 súng cộng đồng.
Đọc đến đó và nhất là trước thái độ nói năng xấc xược của nó, tôi rút khẩu súng ngắn dí vào thái dương chực bắn bỏ cho bõ tức. Nhưng sợ vi phạm chính sách tù binh nên tôi kìm nén, đút súng vào bao. Tôi gọi điện báo cáo kết quả trận đánh lên anh Hoàng Trọng Thế trung đoàn trưởng. Anh Thế khen ngợi và yêu cầu đưa ngay tên tù binh lên trung đoàn để khai thác ngay.
  Ba hôm sau, tôi trực tiếp lên báo cáo tình hình và kết quả chiến đấu với Trung đoàn. Anh Hoàng Trọng Thế trung đoàn trưởng và anh Lê Văn Dánh chính ủy trung đoàn đều khen Đại đội 20 đặc công đã kiên quyết chủ động đánh địch, mặc dù ban ngày không phải là sở trường, chưa kịp nắm tình hình, gặp địch triển khai lực lượng đánh ngay, thu được thắng lợi lớn. Đánh thắng trận đó có ý nghĩa mở màn cho chiến dịch của Trung đoàn.
Trước khi trở về đơn vị, tôi gặp anh Trần Thư phó ban cán bộ Sư đoàn. Anh Thư nói nửa đùa, nửa thật:
      - Này ông Đẩu! Theo Điều lệnh hiện hành, có qui định nào cho phép ông được quyền cách chức mũi trưởng đối với Phạm Văn Quí và bổ nhiệm Mai Sĩ Thanh lên mũi trưởng?!
Tôi trả lời:
- Báo cáo anh, chính nhiệm vụ cấp trên giao và xương máu của anh em lúc ấy đã trao cho tôi cái quyền đó. Lúc đó không làm thế, thì chẳng biết điều gì sẽ xảy ra. 
Nghe tôi nói, anh Thư cười và nói:
 - Không, tôi nói vậy thôi. Việc quyết định của ông lúc đó là kịp thời, chính xác. Điều quan trọng hơn là Đại đội 20 đặc công đã có một trận đánh thắng giòn giã.
Thực ra, ở với Quí nhiều năm rồi tôi biết. Quí hơn tôi một tuổi, quê ở Liên Am,Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Chính tôi là người giới thiệu cậu ta vào Đảng. Quí vốn là người dũng cảm. Nhưng không hiểu sao đến lúc đó lại vậy. Con người ta lạ thế. Có người trận trước chiến đấu gan dạ, trận sau lại chần chừ, thoái thác. Chúng tôi lao vào đánh nhau thì chẳng có ai việc gì. Nhưng khi lùi về phía sau, cách trận địa chừng 200 mét, Quí bị thương vào mắt do pháo địch. Trong chiến đấu, kinh nghiệm cho thấy, cứ bám sát vào địch trong một cự ly thật gần, thì phi pháo của chúng không phát huy được hiệu quả.
Phải chăng, từ thực tiễn ở chiến trường Miền Nam trong những ngày đầu chạm trán với quân viễn chinh Mỹ, một đội quân có vũ khí, trang bị kỹ thuật rất hiện đại, huấn luyện chính qui, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy Quân giải phóng đã khái quát thành khẩu hiệu chỉ đạo hành động cho Lực lượng vũ trang cách mạng: Hãy nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”. Điều đó, tôi cho rằng, hoàn toàn đúng cả ở ba cấp độ (ba tầm): Chiến thuật, Chiến dịch và Chiến lược.
Mai Sĩ Thanh quê ỏ thành phố Thanh Hóa, đã nghỉ hưu ở Chí Linh - Hải Dương, nhà ở gần Côn Sơn - Kiếp Bạc, có mấy đứa cháu nội rồi. Có lần, Thanh cùng mấy anh em bạn chiến đấu đến nhà tôi chơi. Lúc đang ăn cơm, chuyện trò rôm rả, Thanh say sưa kể lại trận đó với mọi người, rồi đi đến kết luận:
- Bây giờ đã qua mấy chục năm rồi, tôi vẫn nhớ như in. Bữa đó,  nhìn ông Đẩu vào trận, mặt đỏ bừng. Bởi thế, tôi bị cái vía, cái uy của ông Đẩu lấn át. Cứ nhận nhiệm vụ và xông vào đánh đại đi. Sống chết có số. Chứ chần chừ là không xong đâu.
Nghe xong, cả bọn chúng tôi cùng cười. Mặc dù hơn tôi ba tuổi, nhưng trong tiếp xúc Thanh luôn gọi tôi bằng anh và xưng em. Nghe không hợp lý, nhiều lần tôi đề nghị sửa lại cách xưng hô.Thanh cười hồn nhiên bảo rằng: 
- Cứ gọi thế thôi. Quen rồi, chẳng sao cả. Vấn đề là, cách xưng hô phải phù hợp với mối quan hệ cụ thể. Tôi quí trọng ông Đẩu thì tôi gọi thế. Có bà con họ hàng gì với nhau đâu mà phải gọi cho đúng ngôi thứ.
 Sau khi đánh thắng quân địch trong trận “tao ngộ chiến”, Trung đoàn giao cho Đại đội chúng tôi phối hợp với Trung đoàn 1 của Sư đoàn chặn đánh quân địch đang hành quân từ Sê-pôn về phía Đông. Phương án tác chiến được xác định là : Dựa vào công sự sẵn có ở Trạm 19, Đại đội chúng tôi tổ chức thành một trận  địa phòng ngự chốt, chặn đứng cuộc hành quân của quân địch. Đồng thời, Sư doàn dùng Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 1 do anh Võ Chót trung đoàn phó chỉ huy cơ động đánh thốc từ phía sau để tiêu diệt địch. Nôm na được hiểu là, Đại đội chúng tôi chốt chặn như một cái  “đe”. Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 1 cơ động đánh lên như một cái “búa”. Hai bên dồn ép quân địch lại để tiêu diệt. Yêu cầu đặt ra là, đối với Đại đội chúng tôi là phải bám trụ kiên cường, trong mọi trường hợp không được lùi trận địa. Tiểu đoàn 1 phải cơ động trên mặt đất dũng mạnh tấn công.
Bắt đầu khai hỏa, toàn bộ trận địa của chúng tôi bị chìm trong hỏa lực cối 60 ly, cối 82ly và ĐKZ 75 ly của Trung đoàn 1. Có mấy đồng chí trực cảnh giới ở cửa hầm bị thương vong. Lạ thế, lúc đánh nhau với địch thì thấy sức công phá của hỏa lực chi viện của ta chưa đủ mạnh; vậy mà khi hỏa lực đó giáng trúng đội hình mình thì nghe dữ dội, đanh rát đến khủng khiếp. Chúng tôi phải bẹp dí xuống hầm, không thể ngóc đầu lên được. Tình hình này nếu kéo dài là rất nguy hiểm. Vì khi quân địch rút lui sẽ tràn qua trận địa ta. Bí quá, tôi bảo cậu điện đài 2 oát gọi ngay cho Trung đoàn 1 yêu cầu lùi tầm bắn lại khoảng 200 mét mới trúng được đội hình địch mà không rơi sang trận địa ta. Cậu điện đài loay hoay mãi chưa liên lạc được. Trong khi đó, các loại đạn pháo cứ cấp tập nện chát chúa vào công sự trận địa của đơn vị .Tôi sốt ruột vô cùng. Điện báo viên thì bền bỉ gọi:
- Sông Hồng gọi Sông Lô. Nghe tốt, nghe rõ, trả lời.
Khi điện đài thông thoại được, tôi giật phắt lấy ống nói, không dùng mật khẩu nữa, hết toáng lên:
- Ông Chót ơi, tôi là Đẩu đây, cối 82 và ĐKZ của các ông bắn trúng vào trận địa của chúng tôi rồi. Không thể ngóc đầu lên được. Hướng bắn thì đúng rồi đấy, nhưng phải cho tầm bắn lùi lại 200 mét thì mới trúng vào đội hình quân địch.
Cáu quá, tôi còn chửi thề mấy câu nữa. Tức thì, đầu bên kia nhận được thông tin, anh Võ Chót cho pháo bắn lùi ngay. Trận đó, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 phối hợp cùng đại đội chúng tôi đánh thắng giòn dã, tiêu diệt và bắt sống gần trăm tên tù binh ngụy.
Mãi tới sau này, năm 1993, anh Võ Chót là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 4 có lần cùng dự cơm ở làng Lệ Mật, Gia Lâm, Hà Nội với chúng tôi. Ôn lại kỷ niệm xưa, anh Chót kể lại trận đó và nói vui:
- Các ông ạ! Bây giờ ông Đẩu là Cục trưởng Cục Chính sách  trông hiền thế thôi. Chứ trước đây, lúc đánh nhau ở trận tiền, là cán bộ chính trị nhưng ông ấy nóng nẩy, quyết liệt và thậm chí là ngoa ngôn đấy!
 Tôi cười vui, nói lại:
- Mọi hoàn cảnh có thứ ngôn ngữ riêng. Cách biểu đạt cũng vậy. Giữa lúc bom rơi đạn nổ ngút trời, sự sống chết của mình và đồng đội là mong manh, thời khắc diễn ra tình huống chóng vánh, phải hoàn thành nhiệm vụ là mệnh lệnh tối thượng. Vì vậy, người chỉ huy phải xử lý nhanh chóng, chính xác và hiệu quả nhất. Có phải như bây giờ đâu mà tế nhị, ngọt ngào, nhẹ nhàng, thưa với gửi!
 Nghe xong, mọi người cùng cười.

Đường 9 - Nam Lào từ lâu vốn là hậu phương của ta. Khi địch bắt đầu cuộc hành quân Lam Sơn 719, theo chủ trương của trên, nhân dân trong vùng và một vài đơn vị bảo đảm hậu cần – kỹ thuật ở Đoàn 559 đều sơ tán hết về phía sau.Vì rút vội, trong các bản làng còn bỏ lại nhiều trâu, bò, lợn, gà thả rông. Có cơ sở hậu cần  của Đoàn 559 còn ngổn ngang lương thực, thực phẩm: Gạo, lương khô, thịt hộp, đường, sữa.
Đơn vị vừa hành quân từ tây Thừa Thiên ra, vốn từ lâu rồi thiếu thốn mọi thứ. Chỉ huy cấp dưới đề nghị tôi cho anh em dùng những thứ mà đồng bào và các đơn vị bỏ lại. Mọi người lập luận rằng, những thứ đó rồi cũng sẽ mất hết thôi. Hoặc là, bị bom đạn tàn phá. Hoặc là, khi mình rút đi, quân ngụy đến đây nó sẽ vơ vét hết. Chi bằng, cho bộ đội ăn, chẳng phương hại gì mà còn góp phần bồi dưỡng sức khỏe để chiến đấu. Nghe ra có lý, tôi đồng ý cho phép các mũi (trung đội), tổ (tiểu đội) được mổ lợn, gà ăn thịt tại chỗ và được lấy thịt hộp, lương khô, đường, sữa mang theo khi hành quân chiến đấu. Nào ngờ, không biết có ai đó “phản ánh kịp thời”, Thủ trưởng Trung đoàn biết hết mọi việc. Hôm tôi về dự họp Đảng ủy Tham - Chính để sơ kết đợt 1 của Chiến dịch. Trong chương trình Hội nghị, anh Trần Đình Vàng, Phó chính ủy Trung đoàn, Bí thư Đảng ủy, yêu cầu phải kiểm điểm tôi về việc đó. Anh Vàng và một vài anh Đảng ủy viên phát biểu lập luận chặt chẽ, thái độ và lý lẽ gay gắt. Họ cho rằng, trong chiến đấu, tôi đã để đơn vị vi phạm chính sách dân vận – một chính sách lớn của Đảng, quân đội - và tự động lấy lương thực, thực phẩm trong kho dự trữ chiến lược của Đoàn 559. Nghe phân tích mãi, ù cả tai, nóng mặt, tôi xẵng giọng:
 - Ừ thì, bây giờ ngồi đây, các anh tiếc mấy con gà, con lợn bỏ hoang và mấy trăm cân đường sữa, lương khô, thịt hộp vương vãi do đơn vị bạn vứt lại, rồi qui kết nọ kia. Các anh có biết rằng, ở dưới đơn vị, cơ động chiến đấu liên tục, anh em thiếu đói, ốm yếu thế nào không? Lãnh đạo cấp nào thì bao giờ cũng phải quan tâm đến đời sống của anh em chứ! Hôm nay, tôi còn sống về đây, các anh đè ra kiểm điểm. Chứ hôm qua, tôi chết rồi thì kiểm điểm ai?
Tôi vừa dứt lời, anh Vàng nói như quát lên, giọng Quảng Ngãi nghe quyết liệt, chát chúa:
- A, đồng chí Đẩu dám nói thế à? Đồng chí cậy đánh được một số trận, thì kiêu binh hử? Quân đội ta khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Chúng tôi biết chứ. Đồng chí chỉ huy chiến đấu giỏi, dũng cảm thì tùy theo thành tích để đề nghị trên khen thưởng Huân chương các loại - kể cả việc tuyên dương là Anh hùng đi nữa. Nhưng, không vì thế mà buông tha khuyết điểm. Vi phạm chính sách, thì phải thi hành kỷ luật thật nghiêm để làm gương. Bất kể là ai đi nữa!
 Tự biết mình sai, nhưng tôi phát hiện ra trong lời phát biểu của anh Vàng có một chỗ hớ, có thể lách được. Tôi đứng dậy, từ tốn phát biểu:
- Kính thưa đồng chí Bí thư Đảng ủy, kính thưa các đồng chí! Tôi nhất trí ý kiến của đồng chí Bí thư Đảng ủy. Có công thì thưởng. Có tội thì phạt. Nhưng thưởng hay phạt đều phải công minh, chính xác, kịp thời và phải thực hiện đúng nguyên tắc, qui trình, thủ tục. Có như thế mới có tác dụng giáo dục sâu sắc. Bởi thế, tôi đề nghị, trước khi kỷ luật tôi, Đảng ủy cần cho người xác minh để có kết luận chính xác, cụ thể.
Tôi nói xong, mọi người nhất trí. Hôm sau Trung đoàn cho mấy anh cán bộ xuống điều tra, xác minh. Khi gặp gỡ tiếp xúc với cán bộ chiến sĩ trong đơn vị, mọi người đều nói rằng, có việc đó thật, nhưng đây là do anh em tự động làm. Thủ trưởng Đại đội không có chủ trương và cũng không biết. Thế là, mấy ngày sau, Trung đoàn có quyết định kỷ luật khiển trách Ban chỉ huy Đại đội 20 đặc công vì đã để cho đơn vị vi phạm chính sách. Như vậy là kỷ luật tập thể. Vì thế, trong lý lịch cán bộ của từng chúng tôi, chẳng ai ghi điều này.
19 năm sau, năm 2000, trong lần tôi vào công tác ở Nha Trang, tìm đến nhà thăm anh Trần Đình Vàng. Anh ghì chặt vào người, cà bộ râu lốm đốm bạc lên mặt tôi. Anh quay sang nói với gia đình và mấy người cùng đi:
- Thằng này trưởng thành thế này là phải. Nó chiến đấu được lắm. Mưu trí, dũng cảm, lại sôi nổi hăng hái nữa. Nhưng nó cũng bướng, lại hay cãi cấp trên. Nó thế đấy, mà ở đơn vị ngày đó, ai cũng quí nó.
Nói rồi, anh bắt tôi đứng ra giữa nhà, vạch áo lên cho mọi người xem vết thương. Anh nói:
- Đây này, thấy không, nó bị thương nặng thế này. Hồi đó, cả đơn vị, ai cũng nghĩ rằng, nó sẽ không thể qua được.
 Anh Vàng vừa mất năm 2009, thọ 83 tuổi. Mấy ngày sau khi anh mất, tôi đọc báo Quân đội nhân dân mới biết tin. Không vào Nha Trang dự lễ tang anh được, tôi gọi điện chia buồn với con trai anh là Đại tá, Tiến sĩ Trần Đình Việt, phó Giám đốc Học viện Hải quân. 
Ngày 20 tháng 3 năm 1971, tôi với anh Xuân đại đội trưởng lên Trung đoàn nhận nhiệm vụ. Cùng dự với chúng tôi có chỉ huy Tiểu đoàn 9 gồm anh Hồ Hữu Lạn, tiểu đoàn trưởng và anh Lê Hồng Hải, chính trị viên. Nhiệm vụ Trung đoàn giao cho Đại đội đặc công chúng tôi phối hợp với Tiểu đoàn 9 bộ binh cùng với Trung đoàn 1 đánh vào cao điểm 550 nhằm tiêu diệt Lữ đoàn 147 của địch. Sau khi nghe anh Hoàng Trọng Thế trung đoàn trưởng cùng anh Lê Văn Dánh chính ủy phổ biến tình hình và giao nhiệm vụ, chúng tôi bàn phương án tác chiến. Theo đó, mục tiêu tấn công là Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến ngụy đang chiếm giữ điểm cao 550. Hướng tấn công chủ yếu sẽ tiến hành từ phía đông lên. Vì ở hướng đó có độ dốc rất cao, chắc địch cho là ta không thể lên được nên ít đề phòng hơn. Khi ta đã lên được, từ trên cao đánh xuống, địch sẽ bị bất ngờ, khó đối phó. Đặc công sẽ là mũi đột kích chủ yếu. Đại đội 11 bộ binh tiếp ứng với đặc công. Đại đội 12 hỏa lực sẽ dùng cối 82ly và ĐKZ chi viện trong quá trình tác chiến.
Chiều ngày 21 tháng 3 năm 1971, chúng tôi bắt đầu tiếp cận vào vị trí tập kết ở chân cao điểm 550. Đến 7 giờ tối, trút bỏ lại những thứ không cần thiết, chúng tôi bắt đầu tiềm nhập vào cứ điểm địch. Độ dốc rất cao, gần như thẳng đứng, cây cối lúp xúp, lại có nhiều phiến đá lớn, chúng tôi phải dùng giây làm thang, rồi từng người bám vào leo dần lên. Đến 12 giờ đêm, khi cả đội hình đã lên gọn ở đỉnh dốc, bố trí xong đội hình, tôi mừng lắm. Tôi và anh Xuân trao đổi với nhau, giữ được bí mật bất ngờ, tạo được thế đánh thuận lợi thế này, trận này chắc chắn thắng to. Khi tiếp cận cách quân địch chừng 30 mét, chúng tôi  phát lệnh nổ súng.
Sau khi dùng B40, B41 bắn sập hai lô cốt đầu cầu, từng tổ, theo phạm vi được phân công, lao lên ném thủ pháo, lựu đạn vào công sự địch. Tiếp đó, anh em dùng súng tiểu liên AK lia từng loạt vào dẫy nhà bạt phía trong. Ban đầu do bị bất ngờ, địch choáng váng, chưa kịp phản ứng gì. Nhưng gần 10 phút sau, khi phát hiện được hướng đánh của ta, chúng co cụm chống trả quyết liệt. Địch bắn pháo sáng rực trời. Cả trận địa sáng choang như ban ngày. Từ ụ súng gần đó, một khẩu đại liên bắn xối xả cản bước phát triển của ta. Tôi chỉ thị cho cậu Bình xạ thủ B41 ngắm bắn vào khẩu đại liên. Quả B41 phóng đi, một quầng lửa sáng đi liền một tiếng nổ rất to. Khẩu đại liên địch bị câm họng. Bất ngờ từ phía bên phải, một tên địch phát hiện ra tôi, nó bắn một loạt tiểu liên AR15. Tôi trúng đạn người đổ xuống tại chỗ. Tức thì, cậu Tấn liên lạc bắn trả một loạt AK diệt ngay tên địch. Tôi thấy đau nhói ở lưng, tức ngực, không thở được. Máu ở lưng trào ra. Đồng thời, cả mũi và miệng tôi đều ộc máu, lại phì phò thành bọt theo nhịp thở. Tôi cũng không hiểu tại sao. Chắc viên đạn cắm phập vào phổi, thủng phế quản, máu và hơi thở quyện vào nhau. Mặc dù đau lắm, nhưng tôi vẫn tỉnh táo. Bằng kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm, tôi biết những người bị thương nặng mà còn rất tỉnh thì khó qua khỏi.
Từ phía trong, các loại hỏa lực của địch vẫn bắn ra xối xả. Cậu Tấn liên lạc bế xốc lên và cố dìu tôi vào sau một mô đất gần đó để tránh đạn và cấp cứu. Cậu Đỉnh y tá cầm cả cuộn băng ép chặt vào miệng vết thương và dùng mấy cuộn băng khác quấn chặt mấy vòng quanh ngực, máu mới cầm  và tôi thấy dễ thở hơn. Đau nhức và mệt nữa nhưng tôi vẫn biết diễn biến xung quanh. Chẳng hiểu sao, tôi lại nghe, cách đó dăm mét, cậu Dũng điện đài 2 oát - lúc này đàm thoại với nhau không dùng mật khẩu nữa -  gọi về Trung đoàn và Sư đoàn là:
- Báo cáo các Thủ trưởng, anh Đẩu đã hy sinh tại trận địa!
 Tôi lặng người đi. Nghĩ mình không thể qua được, trong phút chốc, tôi nói với cậu Tấn liên lạc mời anh Xuân đại đội trưởng Đại đội 20 và anh Hứa Tiểu Liên đại đội trưởng Đại đội 11 đang ở cách đó khoảng 10m đến. Khi nhìn thấy tôi, anh Xuân, anh Liên như cùng một lúc thốt lên:
- Trời ơi! Anh bị thương nặng thế này à?! 
Tôi gật đầu, thều thào nói trong sự ngắt quãng vì hình như bị trống hơi:
- Các anh ơi! Tôi bị nặng thế này, chắc không qua được.
 Tôi ngẹn lại mất mấy giây, giọng thều  thào:
- Anh em ta đã thương vong khá nhiều… Các anh xốc lại đội hình, dùng hỏa lực chi viện, chỉ huy đơn vị nhanh chóng đánh thốc lên… Bằng mọi giá, phải dứt điểm sớm… Chập chờn, ngập ngừng ở lưng chừng thế này là chết cả đấy.
 Chắc là do hụt hơi, tôi nói quá nhỏ, đứt đoạn. Anh Xuân, anh Liên phải ghé tai thật sát vào tôi đế lắng nghe. Ngừng một chút để lấy hơi, chợt nghĩ về gia đình, tôi kéo anh Liên vào sát miệng mình, dồn hết sức:
- Liên ơi, nhà ông cách nhà mình khoảng hai chục cây số thôi… Ngày toàn thắng, nếu còn sống trở về, ông nhớ đến nhà mình nhé… Nhờ Liên kể với cha mình là,  mình đã hy sinh ở nơi đây, trong trường hợp này.
Con chim sắp chết tiếng kêu thảm thiết. Con người sắp chết lời nói thống thiết. Quả đúng là vậy.
Tôi vừa dứt lời, anh Liên vừa ghì chặt vào tôi vừa ngậm ngùi:
- Vâng! Anh yên tâm, ngày trở về quê, tôi sẽ thưa chuyện lại với ông.
 Anh Xuân cầm chặt tay tôi, giàn giũa nước mắt, giọng nghẹn ngào:
-  Chúng  tôi sẽ trả thù cho anh. Thôi ! đưa anh về phía sau ngay để còn kịp cứu chữa. Cầu mong anh qua được, Anh Đẩu ơi!
 Vừa nói xong,  anh Xuân cho cậu Đỉnh y tá và cậu Tấn liên lạc cõng tôi về phía sau. Trước lúc đi, tôi chẳng nói được gì nữa, chỉ còn đặt bàn tay lên cánh tay anh Xuân, anh Liên. Toàn trận địa sáng trưng, cuộn băng quấn quanh người tôi thì trắng lốp. Bởi thế, quân địch phát hiện được nó bắn đuổi theo, đạn cày xới xung quanh. May không ai trúng đạn.
 Tôi có ngờ đâu đó là lần tôi chia tay anh Xuân vĩnh viễn. Sau Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, anh Xuân được bổ nhiệm tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 9 và đã hy sinh năm 1972 tại Động Tranh, Thừa Thiên. Còn anh Liên quê ở xã Hưng Lộc, huyện Hưng Nguyên, tỉnh  Nghệ An  công tác trong quân đội đến Ngày Giải phòng hoàn toàn Miền Nam, là cán bộ ở Bộ Tham mưu Quân đoàn 2. Hiện nay anh đã nghỉ hưu ở quê.
Khi Đỉnh vừa cõng đến mép dốc, tôi thấy anh Trương Anh Dung đã chờ sẵn. Chắc là anh ấy biết trước qua điện đài báo về. Anh Dung ghé vai cõng tôi, bám giây tụt dần xuống. Xung quanh đó đạn pháo địch bắn liên hồi. Có quả nổ rất gần. Quả thật, anh Dung khỏe vô cùng. Lúc đó tôi nặng 62 kg, anh còn to hơn, nặng  hơn. Tôi đã kiệt sức chỉ còn bám được vào cổ anh. Thế mà chỉ bằng đôi tay trần, anh bám giây guồng xuống tận chân cao điểm. Nếu anh tuột tay, cả hai anh em sẽ lao xuống vực sâu thẳm mà chết. Khi tụt xuống đến chân cao điểm, anh Dung đưa tôi vào hầm. Anh Nguyễn Văn Toàn trung đoàn phó ôm choàng lấy, ghì mặt vào người tôi. Rồi anh rút túi lấy ra nhét vào miệng tôi một miếng sâm Cao Ly. Tôi hồi tỉnh lại có lẽ nhờ miếng sâm đó.
Hồi ấy, ở chiến trường chỉ có cán bộ cấp Trung đoàn trở lên, lâu lâu, mới được cấp một củ sâm để bồi dưỡng sức khỏe. Có thể, đó là miếng sâm cuối cùng còn lại, anh Toàn dành cho tôi trong lúc nguy kịch. Tôi cảm động lắm, không bao giờ quên việc này. Anh Toàn quê ở xã Hòa Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, vốn là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 đặc công được điều động sang giữ chức Trung đoàn phó Trung đoàn tôi. Anh đã hy sinh năm 1972 ở tây Thừa Thiên.
Đến rạng sáng hôm sau, các anh cho người cáng tôi lên Sư đoàn. Trên đường đi, máy bay và pháo địch bắn phá ác liệt. Có lần bị một quả pháo nổ cách chúng tôi một đoạn ngắn. Cáng đứt giây rơi phựt xuống, tôi bị bật ra ngoài. Tôi nằm trên cáng thì không sao. Nhưng có một người đang cáng tôi, bị trúng mảnh đạn hy sinh. Dừng lại bên đường, an táng xong người vừa mất, anh em lại đặt tôi lên cáng đi tiếp. (Tôi ân hận là mãi đến bây giờ, tôi cũng không biết được tên người hy sinh đó là ai. Sau này nhiều lần tôi hỏi thăm một vài người mà không ai nhớ nổi).
Khoảng 10 giờ trưa ngày 23 tháng 2 năm 1971, anh em cáng tôi về đến Sở chỉ huy Sư đoàn. Biết tin, các anh: Chu Phương Đới tư lệnh Sư đoàn, Nguyễn Xuân Trà chính ủy Sư đoàn; anh Ma Vĩnh Lan tư lệnh phó Sư đoàn và cả anh Lê Văn Dánh chính ủy Trung đoàn đều đến thăm tôi. Chắc các anh cũng thấy lạ. Đêm qua, nhận được báo cáo qua điện đài là tôi đã hy sinh, nhưng bây giờ tôi còn sống trở về. Các anh cầm tay tôi, chăm chú xem vết thương rồi hỏi han tôi và tình hình trên Cao điểm 550. Mặc dù đã yếu lắm rồi, nằm bất động trên võng, tôi cố gượng sức mình, thều thào nói vắt tắt với các anh về diễn biến trận đánh tính đến thời điểm tôi bị thương. Chưa yên tâm, tôi đề nghị các tăng thêm lực lượng để nhanh chóng dứt điểm. Càng để lâu, bộ đội sẽ thương vong nhiều hơn. Chắc giọng nói của tôi nhỏ lắm và lại đứt đoạn nữa, bởi thấy các anh ghé thật sát vào người tôi vừa chăm chú nghe vừa gật gật đầu.
 Nghe tôi nói xong, các anh biểu dương và tỏ ra tán thành với đề nghị của tôi. Mọi người chia tay tôi, trở về Sở chỉ huy. Riêng anh Dánh nán lại lâu hơn. Ghé thật sát, nhìn kỹ vết thương tôi lần nữa, anh rơm rớm nước mắt và xúc động nói:
- Đẩu ơi! Chúng ta chiến đấu với nhau bao nhiêu năm rồi. Em là người được anh em trong đơn vị ta  tin tưởng và quí mến. Trung đoàn, Sư đoàn ghi nhận thành tích của em và sẽ đề nghị lên trên khen thưởng em xứng đáng. Anh mong em qua khỏi!
Nghe anh Dánh nói, tôi nấc lên, nghẹn lòng, không đáp được lời nào. Tôi coi những lời biểu dương ngắn gọn, chân thành của anh là phần thưởng đích thực đối với tôi. Anh ôm chặt lấy tôi, rồi quay mặt đi gạt nước mắt trước lúc chia tay. Chắc anh nghĩ rằng, với tình trạng vết thương như thế, tôi không thể qua được, đây là lần anh em gặp nhau cuối cùng, chia xa vĩnh viễn.
 Sau này khi bình xét khen thưởng, tôi được đơn vị đề nghị và được trên quyết định tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng Hạng Nhì vì đã trực tiếp chỉ huy chiến đấu dũng cảm, lập thành tích xuất sắc. Bị thương nặng vẫn vững vàng, tỏ rõ quyết tâm, động viên đơn vị tiếp tục chiến đấu.
Rời Sư đoàn, anh em không cáng tôi xuôi ra Miền Bắc mà lại ngược vào phía Nam, vào Viện 68 của Quân khu Trị Thiên Huế. Thương binh trong Chiến dịch Đường 9-Nam Lào đưa vào đây khá nhiều. Đủ các loại vết thương, không phân biệt nặng nhẹ và bị thương vào đâu, chúng tôi nằm xếp thành dài trên sạp nứa  trong các lán. Hàng ngày, các y tá, y sĩ  lần lượt thay băng, tiêm thuốc cho thương binh. Các vết thương nặng đều phải phẫu thuật. Phòng mổ làm việc liên tục suốt ngày đêm mà vẫn không kịp. Nhiều thương binh nặng, do không đủ phương tiện và khả năng chữa trị, đã hy sinh. Ngay sau bệnh viện là một nghĩa trang khá lớn. 
Khi khám cho tôi, các bác sĩ kết luận là, tôi bị đạn bắn gãy xương sườn, xuyên thấu phổi, thủng phế quản, gây tràn dịch màng phổi. Sau này tôi mới biết, với loại vết thương này, nếu có điều kiện như ở những bệnh viện bây giờ, thì chỉ cần mổ ra, gắp viên đạn, khâu lại lỗ rò phế quản, thì không thành thương tật nặng. Nhưng thuở đó, điều kiện chiến trường, thiếu thốn mọi thứ. Thầy thuốc chuyên khoa, thuốc men và phương tiện đều thiếu. Mổ phổi là đại phẫu thuật. Viện 68 không đủ khả năng tiến hành. Chỉ còn cách tiêm kháng sinh liều cao, chọc dò hút dịch. Hàng ngày, các bác sĩ đến dựng tôi dậy, cởi áo ra, dùng cồn i-ốt sát trùng khắp cả một lượt, tiêm thuốc giảm đau rồi dùng một cái xi lanh to gần bằng cổ tay, cắm phập một cái kim dài hơn  10 cm vào ngực, vào lưng để chọc hút dịch, máu mủ. Có bữa hút được một cốc đầy dịch, nhìn như máu cá. Khi chưa hút thì tức ngực, khó thở. Khi hút được rồi thấy dễ chịu hơn.
Ban đầu mỗi ngày hút một lần. Sau đó mỗi ngày phải hút hai lần tôi mới chịu được. Nhưng vết thương của tôi ngày một nặng lên. Đau nhức, tức ngực, khó thở và luôn sốt về chiều tối. Mấy ngày sau,  dùng kim loại to cũng không hút được nữa, vì dịch trong phổi đã thành mủ đặc quánh. Tôi càng đau nhức và khó thở hơn. Phải đặt tôi nửa nằm, nửa ngồi mới thở được. Sốt cao, li bì, liên miên - nhất là về buổi chiều và tối. Mỗi ngày tôi một yếu lả đi. Có mấy thương binh nằm cạnh đã ra nghĩa trang. Tôi nghĩ mình sắp đến lượt.
Sau chiến thắng của Chiến dịch Đường 9-Nam Lào, cấp trên khao quân. Ở bệnh viện, cứ hai thương binh được cấp một hộp thịt hộp. Lúc chiều tối, chị y tá mang đi cấp phát và nói như vậy. Tôi và một thương binh tên là Thanh, cỡ tuổi tôi,  bị thương vào đầu, nằm cạnh. Khi nhận rồi, với ánh nhìn hiền hậu, chân thành, Thanh nói với tôi:
- Thôi! ông giữ lấy mà ăn bồi dưỡng sức khỏe để còn mổ. Mình nặng lắm, chắc không sống được nữa đâu. Ăn chẳng để làm gì!
 Tôi nhìn anh đau đớn, vì tin đó là sự thật. Và đến khuya, anh ấy kêu đau thảm thiết quá, bác sĩ chạy đến cấp cứu tại chỗ, thấy anh giãy dụa một lúc rồi tắt thở. Nhân viên bệnh viện chuyển anh ra nghĩa trang ngay trong đêm. Cảnh này diễn ra nhiều lần, anh em thương binh chúng tôi chỉ buồn thương đồng đội, chứ không bất ngờ. Sáng ngày nhìn sang cái dằm nằm trống trếnh bên cạnh và nhìn lại hộp thịt chỏng chơ, tôi ngao ngán, ngậm ngùi và thương xót Thanh vô cùng. Rồi, giống như Thanh, tôi cũng chuyển hộp thịt đó cho người khác, không tài nào ăn được.
Mấy ngày sau, khi khám cho tôi, bác sĩ cho rằng, mủ trong lồng ngực nhiều hơn, đặc hơn, dùng kim không hút ra được nữa, chèn ép phổi, gây tức thở . Xét thấy, cứ đà đó tôi ngày một yếu đi và sẽ không qua khỏi, bác sĩ Sùng, chủ nhiệm Khoa ngoại quyết định mổ đặt ống dẫn lưu vào thẳng trong lồng ngực để thoát mủ ra ngoài. Tôi được đưa lên bàn mổ vào lúc chập tối một ngày cuối tháng 3 năm 1971, tôi không nhớ ngày cụ thể.
Phòng mổ đặt trong một căn hầm lộ thiên. Không có điện, phải dùng đèn Đi-a-mô. Tức là, có một người đạp như đạp xe đạp để quay phát điện làm sáng đèn. Đạp có nhanh đèn mới sáng. Dừng lại thì đèn tắt. Bác sĩ cầm dao mổ dưới ánh đèn phập phù đó. Khi mổ chỉ dùng thuốc tê, nên tôi nghe và biết hết. Các anh ấy banh cái xương sườn đã bị gãy của tôi lên, cầm một ống xông cao su  bằng con lươn nhỏ, có đầu mà trên đó có nhiều lỗ, đẩy sâu vào lồng ngực tôi, tức thì mủ ở trong chảy trào ra. Dẫu đau lắm, nhưng tôi mừng vì thấy dễ thở hơn. Hơi thở dài, sâu hơn; không ngắn và gấp gáp như trước đó. Các anh đưa tôi về lán kèm theo sợi dây dẫn lưu từ ngực tôi ra một bình thủy tinh – hình như vốn là bình đựng thanh huyết. Cứ thế, mủ trong người tôi cứ chảy thoát tự nhiên ra ngoài.
Điều trị tiếp ở Viện 68 mấy ngày nữa, tôi được chuyển ra Miền Bắc theo tuyến giao liên 559. Theo qui định, thương binh nặng thì chuyển ra Bắc, thương binh vừa và thương binh nhẹ thì để lại điều trị đến khi khỏi, trở về đơn vị chiến đấu. Ai được đưa ra Bắc tức là đã bị loại khỏi vòng chiến đấu. Có thể, có người vui vì được trở về Miền Bắc. Với tôi, biết chắc rằng, nếu để lại chiến trường, thì tôi sẽ chết vì vết thương quá nặng. Nhưng ngày đó, vừa bước sang tuổi 23, còn say mê lý tưởng, dạt dào khát vọng mà đã thuộc diện bị loại ra khỏi cuộc chiến đang hào hùng, sôi động, tôi tủi thân và buồn lắm. Chẳng huyễn hoặc, chẳng lên gân lên cốt gì đâu. Tuổi trẻ chúng tôi lớp lứa đó là vậy.
Ngày đầu cáng tôi  lên đường, đi qua gần chỗ đơn vị đóng quân. Vì đã biết trước, cả đại đội đặc công, lúc đó còn lại khoảng hơn 50 người, ra đón đường chia tay tôi. Hơn một tháng sau bị thương, sức khỏe tôi yếu lắm, người gầy rộc đi. Cáng dừng lại. Tôi cứ nằm bất động trên cáng. Lần lượt từng anh em đến cầm tay tôi ngậm ngùi xúc động. Hầu như người nào cũng khóc. Mấy cậu liên lạc Đại đội khóc rất to, thảm thiết. Nước mắt tôi cứ thế chảy ra, chẳng còn sức mà khóc nữa, tôi nấc lên ngẹn ngào. Chúng tôi biết rằng, đây là lần chia tay cuối cùng. Mà quả thật, kể từ ngày đó đến hết cuộc chiến,  số anh em bạn bè tôi thuở ấy ở lại chiến đấu nhiều người đã hy sinh. Số còn lại đến bây giờ mà chúng tôi thỉnh thoảng vẫn họp mặt nhau, khi Thái Bình, lúc Nam Định, Thanh Hóa, chỉ còn chưa đến chục người. Đúng là những hạt gạo trên sàng. Khi chia tay, lo cho tôi vết thương nặng, sức yếu, đường xa, dẫu chẳng có gì, anh em gom góp lại vài cân đường, dăm hộp sữa để tôi bồi dưỡng và mấy vật chiến lợi phẩm của Mỹ như đèn pin, bi đông, ka uống nước, võng dù,… tặng tôi làm kỷ niệm. Tất cả dồn lại đựng vào một cái gùi, giao cho người cáng mang theo tôi.
Thường xuyên có ba người thay nhau cáng tôi và mang ba lô đi cùng. Đường đi khi lên núi, xuống đèo, lúc nắng gay gắt, lúc mưa dầm dề, đương gồ ghề trơn trượt, anh em vất vả. Mỗi ngày qua một cung trạm. Cứ tối đến, quân y của trạm dùng xi lanh hút mủ từ trong lồng ngực tôi qua ống dẫn lưu ra ngoài. Rồi thay băng, tiếp tục tiêm thuốc kháng sinh.
Cáng bộ được hơn 10 hôm, tức là qua được 10 trạm giao liên. Đến một ngày các anh chuyển tôi từ trạm giao liên ra đường cái để đưa lên  xe ô tô vận tải. Tôi được đưa lên ô tô cùng với mấy thương binh nữa. Khi nhìn thấy tôi, các anh phụ trách vận chuyển bằng ô tô ái ngai, lo lắng. Họ cho rằng, đường chiến lược trong rừng rất xấu, xe xóc rất mạnh, mà vết thương của tôi thì quá nặng. Đắn đo hồi lâu, các anh quyết định để tôi ở lại để cáng bộ. Nhưng lúc gọi mấy chiến sĩ tải thương của trạm giao liên để trả tôi lại, thì họ đã quay về trước đó, không còn ai nữa. Tải thương trên ô tô chỉ có hai người phải lo cho mấy thương binh. Vì vậy, sau một hồi suy xét, không còn cách nào  khác, các anh đành để tôi lại và cho rằng trên đường giao liên với nhiều người qua lại, chắc chắn sẽ có người gặp và chuyển tôi về trạm. Chứ nếu chuyển bằng ô tô, tôi không chịu nổi mà sẽ hy sinh trên đường.
Vậy là, một mình tôi bơ vơ nằm trên cánh võng, giữa rừng, cạnh chỗ giao nhau của đường giao liên bộ với đường ô tô. Ban đầu, với vết thương đau nhức, khó thở, sức đuối lắm, tôi  hoang mang, lo lắng vô cùng. Nằm trên võng, tôi chăm chú nghe ngóng và khát khao có ai đi trên đường giao liên không. Tôi mong manh chờ mãi… chờ mãi…chẳng thấy gì. Thời gian dần trôi, bốn bề vắng lặng, tôi khắc khoải vô vọng. Nghĩ rằng, với vết thương nặng thế này, mình sẽ bị chết ở đây. Nhưng ngay sau đó, giữa lúc vô vọng nhất, tôi trấn tĩnh lại, trong cuộc chiến đấu  quyết liệt với quân thù, cùng trang lứa đã có bao người  hy sinh, nay đến lượt mình vì vết thương quá nặng, âu cũng là tất yếu. Nắng chiều nhạt dần, trời sắp tối. Tôi đưa tay lấy tập giấy tờ để trên võng, ra đọc. Trong đó có ba loại giấy: Giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng, Giấy chứng nhận bị thương, Giấy chuyển thương. Ở Giấy chuyển thương, tôi thấy trong mục khi cần báo tin cho ai, ai đó đã viết nhầm tên cha tôi là Nguyễn Văn Hòa. Sợ nếu mình hy sinh, báo tử nhầm địa chỉ, tôi lấy bút bi đang cài ở túi ngực chữa lại chữ Hòa thành chữ Hòe bằng chữ in hoa hẳn hòi, cho đúng. Tiếp theo, ở ô trống còn lại, tôi viết thêm lời nhắn nhủ: “Các đồng chí ơi, tôi đã hy sinh ở đây!”. Viết xong, vuốt lại tờ giấy cho thẳng hơn, tôi cho vào túi. Rồi mệt quá đến kiệt sức, hình như vết thương không còn đau nhức nữa,  tôi lịm đi, thiếp dần, mơ màng, bồng bềnh như vào giấc ngủ…
  Vậy rồi, đến khi từ từ khi mở mắt ra, tôi lạ lùng thấy mình đang nằm trên một cái lán nứa dưới mái nhà tranh. Nghĩ là, mình đang nằm mơ, đưa tay cấu vào chân thấy đau, tôi mới cho là thật. Tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Phía trên thấy có một chai thanh huyết đang truyền vào người tôi. Ghé nhìn sang cạnh đó, một chị chắc là y tá đang ngồi chăm chú nhìn tôi. Ngoài kia ánh sáng ban mai chói lòa. Thấy tôi động đậy, ú ớ, chị y tá nói như reo lên:
- Ồ! tỉnh lại rồi hả. May quá!
Khi đã tỉnh hẳn, hỏi chị y tá, tôi mới biết, tối qua có Đoàn cán bộ Dân Chính từ phía Nam ra. Trên đường bất chợt nhìn thấy tôi đang mê man bất động trên chiếc võng ở gốc cây bên vệ đường. Họ thay nhau cáng tôi đi và hỏi thăm tìm đường đến Đội Điều trị. Họ tìm được Đội Điều trị lúc khoảng 2 giờ sáng. Cáng tôi vào đây bàn giao cho quân y rồi họ đi tiếp.
Khi tiếp nhận tôi trong tình trạng đang hôn mê, các bác sĩ đã kịp thời tiến hành hồi sức cấp cứu. Sau đó, họ căn cứ vào những giấy tờ hiện có của tôi, kết hợp với khám xét vết thương thực thể để lập bệnh án bổ sung.  Mấy hôm sau tỉnh hơn, tôi được biết, đây là Đội Điều trị 59 của Đoàn 559. Bác sĩ Lợi là Đội trưởng Đội Điều trị. Trong Đội Điều trị còn có anh Thơm quân y sĩ quê ở xã Nghi Hải, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, cũng thường xuyên chăm sóc tôi. Chị y tá trực bên tôi ngày mới đưa vào cấp cứu tên là Nguyễn Thị Huệ, quê ở Chương Mỹ -Hà Tây. Sau này, năm 1977, khi tôi tái phát vết thương vào điều trị ở Viện 108, có gặp lại chị  Huệ lúc đó là y tá trung cấp của Khoa B5 – phẫu thuật lồng ngực.
Thời gian điều trị ở Đội Điều trị 59, do vết thương ngày càng nặng hơn, có lúc nguy kịch, tôi phải cấp cứu mấy lần. Tôi nhớ một lần tôi không thở được, có bác sĩ đề nghị mổ nới nội khí quản đưa ra ngoài để thở. Với ánh nhìn đăm chiêu suy nghĩ lung lắm, sau một lúc xem xét kỹ vết thương và đọc lại bệnh án của tôi, bác sĩ Lợi đội trưởng quyết định không mở nội khí quản. Ông vừa chăm chú nhìn tôi một cách thương cảm, vừa từ tốn rành rọt nói với mọi người:
- Cậu này còn trẻ quá. Mổ ra, mở nội khí quản để thở là giải pháp tình thế bất đắc dĩ. Có thể giải quyết qua cơn cấp cứu. Nhưng khi lắp lại khí quản, ngộ nhỡ chạm đến giây thanh quản mà gây ra câm, thì tội vô cùng. Thôi! Cứ cấp cứu bằng nội khoa. Tiêm Lu-ba-lin trợ hô hấp và tiêm u-a-ba-in trợ tim, cần thiết thì tiêm moc-phin giảm đau đi đã.
 Thế rồi, dưới sự chỉ đạo và trực tiếp điều trị của bác sĩ Lợi, tôi qua được và khỏe dần lên. Lúc đó, vì rất lo lắng đến tính mạng, nên mặc dù trong trường hợp nguy kịch, tôi vẫn còn tỉnh, chăm chú nghe. Trọn đời, tôi chịu ơn của của bác sĩ Lợi. Ngày đó, nếu không có kinh nghiệm và sự quyết đoán của ông, không biết tôi sẽ là thế nào. Tiếc là, sau ngần ấy năm trời, tôi chưa có dịp nào gặp lại bác sĩ Lợi.
 Điều trị ở Đội Điều trị 59 khoảng hơn 10 ngày, tôi lại được tiếp tục đưa ra Bắc theo tuyến chuyển thương. Lại nằm trên cáng lênh đênh dọc tuyến giao liên. Tôi nằm trên đôi vai của các chiến sĩ tải thương khi lên núi, lúc băng đèo, lội suối với biết bao vất vả, gian truân và có khi còn bị máy bay oanh kích nữa. Tôi cảm kích và mãi mãi chịu ơn của những đồng đội mà tôi không hề biết tên đó.

  Ngày 9 tháng 5 năm 1971, khi đến đất Quảng Bình, tôi được chuyển  bằng  ô tô cứu thương đưa đến Viện 559 ở phía tây huyện Bố Trạch. Dừng lại hai hôm rồi đi tiếp ra Bắc. Tối ngày 12 tháng 5 năm 1971, xe  dừng lại ở một thị trấn để bác sĩ, nhân viên và lái xe xuống ăn cơm. Tôi nằm nguyên trên cáng, hỏi mọi người đây là đâu. Mọi người trả lời là Thị trấn Quán Hành. Tôi bồi hồi khôn tả. Ôi! đây là huyện lỵ huyện Nghi Lộc. Dưới kia về phía đông khoảng 7 cây số là  làng Đại Xá quê tôi. Chính từ nơi đây, 7 năm về trước, tôi, một chàng trai 16 tuổi lên đường nhập ngũ. 7 năm rồi, trong điều kiện chiến tranh, biết bao nhiêu điều xẩy ra, tôi chưa một lần trở lại. Chính trong khoảng thời gian đó, mẹ tôi đã vĩnh viễn đi xa. Từ khi mẹ tôi mất đến lúc đó, tôi chưa hề được thắp một thẻ hương lên phần mộ, cũng như bàn thờ của bà. Tôi ngậm ngùi hồi tưởng về mẹ. Tôi nhớ nhà, nhớ quê kinh khủng mà chẳng biết làm sao. Ngoài kia, khách bộ hành kẻ ngược người xuôi, biết có ai quen để nhắn nhủ đôi điều!
Sau khi dừng lại mấy ngày điều trị ở Viện 111 ở huyện Triệu Sơn – Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 1971, tôi được đưa vào Khoa B5-Viện 108 ở Hà Nội. Ngày đầu tiên nhập viện, qua kiểm tra, tôi chỉ còn cân nặng 36 kg, hồng cầu chỉ còn 1,6 triệu. Da bọc xương, chân tay khăng khiu, teo tóp lại. Tôi nằm bẹp dí và không tự phục vụ được. Mọi việc đều phải có các hộ lý giúp cho. Bác sĩ kết luận là, ở tôi do vết thương để quá lâu, gây mủ phế mạc, tràn dịch màng phổi, dày dính phế mạc, phế quản bị thủng gây rò hơi thở. Phương án mổ được xác định là : cắt mấy cung sườn ở bên phải, phía sau lưng, lấy viên đạn ra,  bóc toàn bộ ổ mủ, trám cơ lỗ rò phế quản. Đây là ca đại phẫu thuật. Sức khỏe hiện tại tôi quá yếu, không đảm bảo cho việc mổ. Vì vậy, phải  vừa tiêm kháng sinh liều cao, vừa bồi dưỡng cho tôi hồi phục sức khỏe.
Hơn 1 tháng sau, ngày 25 tháng 6 năm  1971, cán bộ nhân viên Khoa B5 đưa tôi lên bàn mổ. Kíp mổ cho tôi lúc đó gồm bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, Chủ nhiệm khoa trực tiếp đảm nhiệm, bác sĩ Trần Văn Yến và bác sĩ Phan Thị Ngọc Bích phụ mổ. Ca mổ kéo dài từ 8 giờ sáng đến hơn 10 giờ ngày 25 tháng 6 năm 1971. Mãi tới 3 giờ chiều tôi mới tỉnh lại. Thuốc mê đã tan hết. Miệng đắng ngắt, khô khát.Vết mổ đau nhức lắm. Băng quấn quanh ngực trắng lốp. Có một dây dẫn lưu từ ngực xuống cái lọ đặt ở mép giường. Có một dây truyền thanh huyết. Ba ngày sau mổ, tôi đã có thể đứng dậy được. Tôi hỏi lại thì được biết, kết quả mổ là tốt nhưng vẫn không lấy được viên đạn. Vì nó nằm trong phổi, gần tim. Trên phim X quang thì nhìn rõ nhưng khi mổ ra, máu lênh láng, viên đạn di chuyển sang chỗ khác, không lấy được. Tôi hỏi các bác sĩ, để viên đạn như thế có việc gì không, thì được biết không sao cả. Lâu dần, viên đạn sẽ được mỡ trong cơ thể bọc lại, nằm ổn định trong cơ thể. Vậy là, đến trọn đời, tôi mang một viên đạn trong phổi.
 Sau mổ, tôi hồi phục thể lực rất nhanh. Lợi thế của tuổi trẻ là vậy. Hai tháng sau tôi đã lên được 58 kg. Hàng ngày ngủ dậy tôi đã chạy được mấy vòng quanh viện. Vết thương lành sẹo, thuốc men và ăn uống đầy đủ, sức khỏe hồi phục, tinh thần sảng khoái, tôi mừng vô cùng. Tập thể Khoa B5 Viện 108, đứng đầu là bác sĩ Chủ nhiệm Nguyễn Văn Thọ, bằng tài năng, trách nhiệm và tình cảm của mình đã cứu sống tôi – điều làm cho nhiều người mừng rỡ, ngỡ ngàng. Có thể nói, chính các anh, các chị đã cải tử hoàn sinh cho tôi. Tôi không bao giờ quên.
Ngày đó, tình cảm giữa cán bộ nhân viên quân y với thương, bệnh binh sâu nặng, gắn bó. Không hiểu sao, suốt mấy chục năm, có đến hàng ngàn thương, bệnh binh qua điều trị ở đây, thế mà nhiều  năm sau gặp lại các anh chị vẫn nhận ra tôi. Trong số đó có chị Phan Thị Ngọc Bích, vợ của giáo sư Trần Ngọc Ân. Là người tham gia mổ và trực tiếp điều trị cho tôi, chị thương tôi như em trai vậy.
 Thời gian tôi điều trị ở Viện 108, có cha tôi, chị Hòe, anh Thắng, anh Tần ở quê ra và chị Nam cùng nhiều người bà con ở Hà Nội đến thăm. Tình cảm thân thương quí mến của gia đình, họ hàng lúc đó đã góp phần tiếp thêm nghị lực và sinh khí cho tôi vượt qua sự hiểm nguy của thương tật để từng bước gượng dậy và vươn lên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét