NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỜI GIAN
NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN - 2010
NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN - 2010
HỒI KÝ
Trung tướng Nguyễn Mạnh
Đẩu
Chương một
Tôi quê ở làng Đại
Xá, xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Nghệ An có diện tích 16.487 km2 là
tỉnh lớn nhất Việt Nam, với số dân khoảng 3 triệu người (tính đến 1-4-2004).
Theo sử sách, năm 628 vùng đất này gọi là châu Hoan rồi châu Diễn. Năm 1030,
bắt đầu gọi là châu Nghệ An, rồi năm 1040 lại đổi lại là xứ Nghệ An. Thời Tây
Sơn gọi là Nghĩa An trấn. Thời Gia Long đặt lại là Nghệ An trấn. Năm 1831, vua
Minh Mệnh chia trấn Nghệ An làm hai tỉnh Nghệ An (bắc sông Lam), Hà Tĩnh (nam
sông Lam). Năm 1976, sau khi thống nhất đất nước, trong xu thế chung, hai tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập lại thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Đến năm 1991 lại tách ra
như cũ.
Nghệ An nằm trong vùng khí hậu gió mùa, có bốn
mùa rõ rệt Xuân, Hạ, Thu, Đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 âm lịch hàng năm chịu
ảnh hưởng của gió tây nam (gió Lào) khô và nóng. Về mùa Đông chịu ảnh hưởng của
gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt. Từ xa xưa, qua mọi thời đại, Nghệ An là quê
hương của nhiều danh nhân tiêu biểu. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm, Nghệ An đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Nghi Lộc là huyện ven biển, với diện tích gần
39.000 hécta, số dân hơn 20 vạn người, có 1 thị trấn và 32 xã. Theo lịch sử thì
từ năm 1490 đến năm 1831 gọi là huyện Chân Phúc. Từ năm 1832 đến năm 1888 gọi
là huyện Chân Lộc. Từ năm 1889 trở đi gọi là huyện Nghi Lộc. Là nơi có bờ biển
dài với hai cửa lạch thông ra biển Đông và có các tuyến giao thông huyết mạch
của quốc gia, nên mọi cuộc chiến tranh đều đi qua vùng đất Nghi Lộc. Bao đời
nay, những người con ưu tú của Nghi Lộc đã nối gót nhau cống hiến cho giang sơn
đất nước, tô thắm thêm truyền thống quê hương.
Xã
Nghi Hợp nằm ở phía đông huyện Nghi Lộc, có diện tích 386,52 hécta, với số dân
3.485 người; có ba làng: Đại Xá, Kỳ Sơn, Hợp Xá. Nghi Hợp có các đặc điểm lớn:
Là xã duy nhất trong vùng không có người dân nào theo đạo Thiên Chúa. Trong
kháng chiến chống Pháp chưa có lần nào giặc Pháp hoặc ngụy quân đặt chân đến.
Trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, mặc dù nhân dân các xã trong vùng bị
thương vong nhiều do máy bay Mỹ oanh tạc khốc liệt, bị pháo hạm từ tàu hải quân
Mỹ bắn phá dữ dội, vậy mà ở đây không ai hề hấn gì. Duy chỉ một lần, năm 1968,
máy bay Mỹ ném một quả bom trúng vào vườn ông Châu (Nguyễn Đình Mợi), cách nhà
tôi khoảng 100 mét, nhưng lại chui sâu xuống lòng đất, không nổ. Mãi đến bây
giờ cũng chưa ai đào lên. Suốt hai cuộc kháng chiến, ngay trên đất xã tôi không
có người nào bị thương vong, không có cái nhà nào bị cháy - mặc dù thời đó Khu
4 là trọng điểm đánh phá của máy bay và tàu chiến Mỹ. Nhiều người cho rằng, sở
dĩ có điều đó vì Nghi Hợp là quê hương của Nguyễn Xí, được Ngài che chở.
Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí (1397 -
1465) - Công thần khai quốc thời Hậu Lê, là một đại thần của bốn đời vua Lê -
từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông. Ông là một viên tướng trụ cột của Lê Lợi, có
công lớn trong 10 năm trường kỳ kháng chiến chống quân Minh (1418 - 1428). Là
người chủ xướng trong cuộc binh biến ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1460 phế vua
Thiên Hưng (tức Lê Nghi Dân), rước Lê Tư Thành lên ngôi báu –tức vua Lê Thánh
Tông nổi tiếng trong lịch sử dân tộc (1442-1497). Tiếp đó, ông đã phò tá vua Lê
Thánh Tông gây dựng xã tắc, gìn gìữ và mở mang bờ cõi, chấn hưng đất nước. Đó
là thời kỳ hưng thịnh, rực rỡ nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Hiện nay
trong xã có đền thờ Nguyễn Xí là di tích lịch sử đã được xếp hạng. Trong đền có
bài văn điếu của vua Lê Thánh Tông khắc bằng chữ Hán trên một tấm bia đá rất
to. Dưới bài văn điếu ghi Trạng nguyên Nguyễn Trực thảo. Thật là công bằng rành
rọt, lời điếu của Vua đối với một đại thần, vẫn còn ghi lại ai là người soạn
thảo văn bản. Nguyễn Trực (1414- 1474) - Lưỡng quốc Trạng nguyên, người xã Bối Khê,
huyện Thanh Oai (Hà Nội), xuất thân trong một gia đình nho học nhiều đời, ông
nội và cha đều là khoa bảng.
Từ
tấm văn bia ngẫm kỹ toát lên mấy điều: Một vị vua anh minh; Một đại thần trung
nghĩa; Một trạng nguyên học giả tài ba.
Làng Đại Xá là một làng nhỏ. Sau này, khi
lớn lên đã đi qua nhiều vùng quê, tôi cứ tự hỏi tại sao làng mình, một làng nhỏ
như vậy mà lại gọi là làng Đại. Xem lịch sử các dòng họ (gia phả), các chứng
tích còn lại, tôi nghĩ rằng làng Đại Xá hình thành khoảng 300 trăm năm nay.
Thuở ban đầu chắc chỉ là một xóm trại (ấp) do các ông tổ của các dòng họ: Lê,
Nguyễn Văn, Nguyễn Gia, Phan Ngọc,..khăn gói từ các vùng quê khác đến lập cơ
nghiệp, sinh con đẻ cái. Tính đến nay gia phả của các dòng họ trong làng cũng
mới ghi được trên dưới mười đời. Trong làng có một cây đa duy nhất được coi là
cổ thụ. Nghe kể, cây đa này do cố Lê Văn Tế đi chợ Sơn mang về trồng. Mà từ cố
Tế đến nay cũng mới chỉ bốn đời.
Làng tôi trước đây có đền và chùa. Đền
thờ Thành Hoàng. Cả đền, chùa mới có từ đầu thế kỷ 20, do những người cùng thế
hệ ông nội tôi xây dựng. Được biết toàn bộ gỗ dựng đền được xẻ ra từ một cây
lim to, các cụ mua tận Phủ Quỳ rồi chở bè về cách hơn trăm cây số. Khi tôi lớn
lên đền, chùa còn đẹp lắm, đã trở thành nơi hội họp của làng và là chỗ học của
học sinh. Ngày đó xung quanh đền, chùa là mấy lùm khá rộng rậm rạp với nhiều
loại cây và đẹp tựa như hai vạt rừng nguyên sinh. Mùa hè đi dạo trong đó rất
mát. Ở chùa còn có hai cây thị cao to, nhiều quả chín mọng thơm lựng.
Từ
sau Cách mạng Tháng Tám đến hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lệ làng
là hàng năm cứ đến sáng mồng Một Tết Nguyên đán, cả làng tập trung chúc Tết và
chúc thọ Cụ Hồ ở đền. Các cụ già khăn áo chỉnh tề, chân đi guốc mộc đến cửa đền
đều hô to một cách cung kính: “Chào làng, chào Cụ Hồ”. Ăn cỗ ở làng bao giờ cũng chia phần cho các
chiến sĩ đang tòng quân. Phần ít thôi, một đĩa xôi, một miếng thịt luộc, hoặc
gà hoặc lợn. Nhưng là một miếng giữa làng hơn một sàng trong bếp. Gia đình binh
sĩ được mang suất phần đó về. Một việc nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn, góp phần tôn
vinh các gia đình quân nhân tại ngũ, động viên bộ đội đang ngày đêm chiến đấu
trên các chiến trường. Đến năm 1957 đền và chùa bị dỡ ra để lấy vật liệu xây
trường phổ thông cấp I của xã. Cả lùm chùa và lùm đền đều đã bị phá để lấy đất
tăng gia. Đến nay chẳng còn dấu tích gì nữa.
Đất không rộng, người không đông, kinh tế
khó khăn, khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Nói chung, tính cách người dân quê tôi
cương trực, cần cù, hiếu học, tiết kiệm và đoàn kết. Những đặc trưng đó là do
điều kiện địa lý, lịch sử, kinh tế và văn hóa hun đúc nên từ bao đời nay.
Không được thiên nhiên ưu đãi đồng ruộng
phì nhiêu, mưa thuận gió hòa, quê tôi là vùng đất cát pha bạc mầu. Ruộng đồng
chia làm hai mùa rõ rệt. Vụ mùa lúa được cấy ở ruộng nước và gieo hạt ở ruộng
khô. Vụ chiêm thì chỉ cấy lúa ở ruộng nước, còn ruộng khô thì trồng khoai, ngô,
đỗ, lạc, vừng,…Thu hoạch vụ chiêm vất vả lắm. Trời nắng chói chang. Gió Lào
nóng bỏng. Công việc bộn bề. Phần đông người quê tôi, bất kể gái trai, da dẻ
đều cháy đen trong những tháng hè. Xã tôi không có sông. Cách biển (Cửa Lò)
khoảng hai cây số. Cách sông Cấm khoảng bốn cây số. Sông Cấm là con sông đào từ
thời Hậu Lê.
Trong vùng có hai cái đập: đập Xã và đập
Họ. Hai cái đập cách nhau một con đường, nói đúng hơn là một con đê. Nước đập
Xã chảy sang đập Họ qua một cái cống (trẻn) để chảy ra biển. Trước đây cả hai
đập còn sâu, rộng, nước trong xanh. Con trai, con gái lớn lên đều tập bơi và
biết bơi từ hai cái đập này. Quanh năm đập được bảo vệ nghiêm ngặt không để bất
cứ ai khai thác cá. Mỗi năm tổ chức đánh cá ở đập một lần (tiếng địa phương gọi
là đánh đập) vào cuối tháng 6 âm lịch, sau khi đã thu hoạch xong vụ chiêm. Khi
có hiệu lệnh phát ra, kẻng gõ dồn dập, trống khua ầm ỹ, hàng nghìn người trai,
gái, già, trẻ đổ ra đập như đi trẩy hội. Có người dùng vó (chậm), lưới, nhủi.
Còn phần đông là dùng nơm dàn hàng ngang hết đợt này đến đợt khác úp cá cứ như
các khối duyệt binh, tuần hành trong các lễ hội. Đã qua hơn nửa thế kỷ, đến nay
trong tôi cảm xúc vẫn còn tươi nguyên cái không khí vui vẻ, nhộn nhịp, hối hả, nô nức của những lần
đánh đập. Ở quê tôi bây giờ không còn đánh đập nữa.
Ông nội tôi là Nguyễn Văn Hành, gọi trệch là Hiềng, sinh
năm 1870, là con út trong một gia đình có ba anh em trai. Ông cả là Nguyễn Văn
Ngơn (Xuơn), ông thứ hai là Nguyễn Văn Điền. Mặc dù như nhiều người cùng thế
hệ, không được đi học, nhưng ông nội tôi lại thuộc rất nhiều câu thành ngữ,
châm ngôn có tác dụng giáo dục sâu sắc, nhất là trong gia đình. Ông cũng thuộc
lòng nhiều chuyện thơ nôm, nhiều điển tích lịch sử, cả ta lẫn Tàu. Bà nội tôi là
Nguyễn Thị Thêu thua ông nội hơn mười tuổi. Sinh ra trong một gia đình không
giàu có nhưng rất gia giáo. Bà là người siêng năng, tần tảo,đảm đang, chu toàn
lo toan việc nhà, việc họ, việc làng. Bà giáo dục con cái rất khuôn phép,
nghiêm khắc, mà lại rất công bằng và tình cảm.
Gia đình ông nội tôi theo nền nếp truyền
thống nông thôn Việt Nam
thuở đó. Nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng chung sống dưới một mái nhà, quan
niệm rằng tam đại, tứ đại đồng đường mới là phúc đức. Trong nhà mặc dù ba người con trai đã lấy vợ, sinh con mà vẫn
ở chung, làm chung và ăn chung với ông bà. Mọi việc trong gia đình đều do bà
nội tôi điều hành, xoay xở. Một gia đình lớn hơn mười người, nhiều thế hệ với
nhu cầu và tính cách khác nhau, mấy gian nhà tranh chật chội, công việc bộn bề,
đời sống khó khăn vất vả, nhưng chung sống với nhau thuận hòa. Ông bà mẫu mực, công bằng, nghiêm
khắc, tình cảm; con cái đoàn kết gắn bó, chịu khó, chịu thương. Nhờ biết lo
liệu làm ăn, siêng năng, cần kiệm, từ chỗ nghèo túng, gia đình khá dần lên. Có
được như vậy cũng là nhờ sự lo toan, đảm đang, tần tảo của bà nội tôi. Như
người xưa từng nói: phúc đức tại mẫu. Hạnh
phúc của một gia đình, nhất là sự thành đạt của các người con, trước hết tùy
thuộc vào vai trò của người mẹ. Trong gia đình, ảnh hưởng của người mẹ đến các
con thường là chủ yếu.
Bà cô cả của tôi tên là Nguyễn Thị Tuệ, lấy
chồng người làng Kỳ Sơn. Trước đây có lần tôi nghe kể khi cô sinh con, hàng
ngày bà nội tôi cứ khoảng 8 giờ tối cơm nước xong vội vã tất tả vào làng Kỳ Sơn
để chăm cháu ngoại. Đến khoảng 4 giờ sáng bà lại bươn bả trở về nhà cho kịp
gánh bánh đi bán phiên chợ sáng. Trên đường về có chỗ nước sâu phải bơi một
mình giữa trời đêm, có khi còn mưa gió, rét mướt. Tôi cho rằng, bà làm được
việc đó là xuất phát từ trách nhiệm, tình cảm và bản năng nữa. Vợ chồng cô tôi
dù nghèo nhưng rất tốt tính.
Mọi người trong gia đình đều nói rằng, bác Tần
là người cường tráng, phúc hậu. Tôi không biết mặt bác, vì bác mất ba năm rồi
tôi mới sinh. Cha tôi kể, trong phong
trào Xô Viết Nghệ An năm 1930-1931, mặc dù chưa phải đảng viên cộng sản nhưng
bác Tần là quần chúng trung kiên chí cốt của phong trào. Bác đã dũng cảm hăng
hái tham gia rải truyền đơn, biểu tình, trấn áp bọn phản cách mạng. Bác thường
giấu truyền đơn trong gáng hàng mang đến rải ở chợ Sơn, chợ Quán, chợ Đình. Bác
tham gia biểu tình, cùng nhân dân vây đánh đồn Pháp ở núi Cồn Thông (cuối xã
tôi). Khi quân Pháp trong đồn dùng súng bắn dữ dội, phản kích trở lại, đoàn
biểu tình chỉ có giáo mác, gậy gộc, thậm chí nhiều người chỉ tay không, bị
thương vong nhiều và rút lui. Sau đó mấy tháng trong thoái trào của cách mạng,
thực dân Pháp và tay sai ráo riết bắt bớ, đàn áp dã man những người tham gia.
Ông bà tôi đã phải bố trí cho bác Tần trốn lên miền ngược một thời gian. Trong
họ tôi có ông Nguyễn Văn Oanh, tôi gọi bằng chú, bị địch bắt. Ông Oanh là người
có học lại cường tráng, kẻ địch tuyên truyền đã bắt được lãnh tụ Cộng sản. Ông
bị giải đi tù ở Lao Bảo, Kon Tum, rồi bị hy sinh trong nhà tù. Đến nay mặc dù
con cháu đã tìm mọi cách mà vẫn chưa tìm thấy mộ.
Anh Tần là con trai cả của bác Tần. Quê
tôi trước đây là vậy, bố thường mang tên người con đầu. Anh Tần là người hiếu
học, thông minh. Anh coi đọc sách là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc
sống. Tính cách anh Tần thẳng thắn, trung thực, thậm chí có lúc hơi thái quá.
Tôi được anh Tần chăm sóc, bảo ban từ khi còn bé. Trọn đời anh em chúng tôi
thương quí nhau như anh em ruột.
Chú Cát được ông bà nội tôi cho ăn học
nhiều năm từ trường làng đến trường xã, cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ. Chính khi
học ở trường xã, chú được giác ngộ cách mạng trong phong trào học sinh. Ông
Nguyễn Trường Khoát, sau này làm Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An trong kháng chiến chống
Pháp, là thầy học đồng thời là người giác ngộ cách mạng cho chú. Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945 chú Cát nhập ngũ. Kết thúc chiến tranh chú chuyển ngành rồi
nghỉ hưu ở thị trấn Vĩnh Trụ, tỉnh Hà Nam. So với những người cùng thời,
chú Cát là người có học, giao lưu rộng, trải nghiệm nhiều, vốn sống phong phú.
Chú rất quan tâm đến chúng tôi. Khi bày dạy các cháu, chú thường dẫn dụ giảng
giải sâu sắc. Tôi nhớ hồi tôi lên mười tuổi, trong nhà treo tranh tứ bình. Chú
đọc và giải thích rành rõ từng bức tranh:
“ Xuân
thiên mai nhụy phô thanh bạch
Hạ
nhật hồng hoa đấu hảo kỳ
Cúc
ngạo thu tình hương vạn hộc
Tùng
lăng đông tuyết ngọc thiên chi”.
Nghĩa là: Giữa trời Xuân những bông mai vàng
phô lên sự thanh bạch.Vào ngày Hè những bông hồng đua nhau đẹp như màu cờ.
Những bông cúc cười tình tứ, tỏa hương giữa mùa Thu. Giữa mùa Đông tuyết trắng
phủ, những cây tùng đẹp đẽ như những viên ngọc trời cho.
Quả là hay thật, thơ tả theo tranh, tranh
họa theo thơ. Mãi đến bây giờ tôi vẫn nhớ, mặc dù tôi không biết tác giả bài
thơ thất ngôn tứ tuyệt và những bức tranh tứ bình từ xưa là ai.
Cha tôi là Nguyễn Văn Được, tên thường
gọi là Hòe, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1914. Đến tuổi trưởng thành cha tôi rất
khỏe. Sau này nhiều người trong làng kể lại rằng, hồi đó có một ông thầy cúng
(có thể là thầy phù thủy) đi cả vùng mới chọn tìm được một người ngồi đồng. Khi
lên đồng chẳng biết phép thuật của thầy cách nào mà cha tôi chân trần có thể
bước lên giàn than lửa, lưỡi cày, lưỡi dao nung đỏ rồi nhảy phắt lên một cái
bàn cao, miệng đọc sớ, tay cầm bút lông kê đơn thuốc chữa bệnh. Mặc dù không
biết chữ nho, cũng không biết nghề thuốc, vậy mà cha tôi lại kê đơn thuốc chữa
bệnh được cho nhiều người. Việc này, cả người kể, người nghe và cả cha tôi đều
không giải thích được. Chỉ biết đó là một việc có thật. Dù không biết vì sao
nhưng chắc chắn rằng, để làm được điều đó phải là người khỏe mạnh và có một
năng lực nào đó, mà người bình thường không thể làm được.
Cha tôi kể, vào khoảng năm 1935, thực dân
Pháp tuyển lính lê dương đi Ma- rốc, An-giê- ri, Tuy- ni- di. Cả xã Thượng Xá
bắt đi khám tuyển rất đông mà chỉ trúng được hai người: ông Lưu - con trai cố
Cu Trường và cha tôi. Bà nội tôi sợ con trai đi lính chết trận, nên đã bố trí
cho cha tôi trốn lính. Ông Nguyễn Gia Khánh (Thựu) là hương bản cho người truy
bắt không được, đã mắng te tát bà nội tôi:
- Bà
đẻ ra con trai. Phận nam nhi hoặc là học lên để sau này đỗ đạt ra làm quan,
hoặc đi lính sau này lập nên công trạng có thể làm tướng. Con bà đã không đi
học để làm quan, chỉ còn mỗi con đường đi lính để may ra làm tướng. Tại sao bà
không cho đi lính?
Bà tôi dõng dạc trả lời:
- Tôi
không ước ao con làm quan, làm tướng gì cả! Mong được làm dân sống yên thân
thôi. Đi lính làm tướng đâu chẳng thấy nhưng dễ phải chết trận lắm.
Vào đầu những năm 1940, thực dân Pháp và
hào lý ở địa phương hà hiếp dân mình. Sưu cao, thuế nặng, phu phen, tạp dịch
triền miên. Trong một lần cùng thanh niên trai tráng địa phương đấu tranh quyết
liệt chống đi phu, cha tôi cùng ông Nguyễn Đình Phát và ông Lê Văn Tửu là ba
người hăng hái trung kiên nhất, bị lính lệ bắt trói giải lên huyện đường, đánh
đập tra tấn dã man. Xót con bị đòn đau, ông nội tôi cùng ông Nguyễn Đình Chía
và ông Lê Văn Tế lên huyện đường xin được tha. Huyện đường cách nhà 7 cây số.
Tới nơi gặp cả ông hương bản Nguyễn Gia Khánh (Thựu) đang khúm núm tấu trình
tri huyện. Ông Khánh quay sang quát mắng ông nội tôi và các bô lão:
- Các
người là phụ bất năng giáo tử
(tức là cha không dạy được con). Chúng nó làm làm loạn, phải trị bằng được. Không trị để chúng nó làm giặc à?
Một câu nói vừa lấy uy với dân lành, vừa tâng
công lấy lòng thượng cấp. Cha tôi và mấy thanh niên bị giam ở nhà lao huyện mất
một thời gian thì được tha.
Cũng thật lạ, làm hương bản cho chế độ cũ
bao nhiêu năm, vậy mà đến ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông
Khánh lại là Đảng viên Cộng sản quay sang giữ chức Phó Chủ tịch xã Xá Lệnh (gồm
3 xã ngày nay : Nghi Hợp, Nghi Xá, Nghi Quang). Còn cha tôi được đoàn thể cử
giữ chức Đội phó Đội Tự vệ của xã. Đội Tự vệ ngày đó có chức năng bảo vệ chính
quyền cách mạng còn non trẻ, với nhiệm vụ gần như công an và xã đội bây giờ gộp
lại.
Mãi đến bây giờ tôi vẫn băn khoăn và chưa
kịp hỏi cha tôi, phong trào đấu tranh lúc đó do quần chúng tự phát hay do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Nếu do quần chúng tự phát thì thật đáng kính trọng và cũng
thuận theo quy luật: có áp bức là có đấu tranh. Còn nếu do Đảng Cộng sản lãnh
đạo, thì nghiễm nhiên theo chính sách hiện hành, cha tôi được suy tôn là lão
thành cách mạng, hưởng chính sách ưu đãi người có công.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cha tôi
đi Giải phóng quân. Ông nhập ngũ ngày 6 tháng 4 năm 1946 vào Trung đoàn Nghệ
An, còn gọi là Trung đoàn Đội Cung ( sau này đổi tên là Trung đoàn 57). Cùng
tòng quân với ông, trong làng còn có ông Lê Văn Chưu và ông Lê Văn Lẫm. Gọi là
trong làng nhưng thực ra ba nhà cách nhau trong vòng 50 mét. Ông Chưu sau giải phóng
Miền Bắc chuyển ngành làm Bí thư Đảng ủy Nông trường Quyết Thắng ở Vĩnh Linh
rồi về hưu ở quê, mất năm 2000. Ông Lê Văn Lẫm ở bộ đội liên tục. Trong chống
Mỹ, ông Lẫm làm trung đoàn trưởng pháo cao xạ ở Bộ Tư lệnh Trường Sơn, hy sinh
năm 1972, được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày lên đường, cả ba gia đình đều đưa
tiễn ở ga Cầu Cấm (bây giờ không còn ga này nữa). Gia đình ông Chưu có bà Chưu,
ông Chương, ông Bằng. Gia đình ông Lẫm có bà Lẫm, ông Dụ (Dũng). Gia đình tôi có
mẹ tôi và chú Cát. Mọi người chia tay nhau trong bịn rịn, lưu luyến nhớ thương.
Tàu chuyển bánh, mỗi người đưa tiễn cầm một cành thông để vẫy cho đến khi đoàn
tàu khuất bóng .
Bà Lẫm lúc đó 19 tuổi, mới cưới mấy
tháng, chưa có con. Bà Chưu đã có hai con trai, anh Trân và anh Minh. Mẹ tôi
mới có chị Hòe.
Trên đường quay về, bà Lẫm nói:
- Khổ thân chị Hoe! Từ nay anh ấy đi rồi,
chị phải tự đi cày.
Mẹ tôi tủi thân, khóc nức nở.
Quê tôi trước đây có tục phụ nữ khi lập
gia đình thì gọi theo tên chồng, với nhà bình dân sinh con trai đầu gọi bằng
cu, sinh con gái đầu gọi bằng hoe, đặt trước tên người chồng. Mẹ tôi lúc đó gọi
là chị Hoe Được.
Huấn luyện xong cha tôi được điều động
vào Bộ đội Tiếp phòng quân đóng ở Hải Phòng do ông Lê Thiết Hùng làm Chỉ huy
trưởng, ông Trần Văn Quang làm Chính ủy.
Ông Lê Thiết Hùng quê ở xã Hưng Thông, huyện
Hưng Nguyên, hoạt động cách mạng từ rất sớm, là con rể cụ Hồ Học Lãm, quê ở
làng Quỳnh Đôi - nhà Cách mạng Việt Nam đồng thời là Tướng quân trong quân đội
Quốc Dân Đảng. Ông Lê Thiết Hùng được Bác Hồ gửi đi học ở Trường Hoàng Phố.
Thời kỳ Quốc Cộng liên minh chống Nhật, ông được tổ chức cử vào quân đội Tưởng
Giới Thạch, với quân hàm Đại tá, giữ chức Sư đoàn trưởng. Sau khi về nước tham
gia giành chính quyền, ngày 24 tháng 9 năm 1946 ông được phong quân hàm Thiếu
tướng. Đây là vị tướng đầu tiên của quân đội ta. Ông Trần Văn Quang sinh ra
trong một gia đình cách mạng ở xã Nghi Hoa, huyện Nghi Lộc; sau này là Thượng
tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt
Nam nhiều năm.
Tiếp phòng quân được tổ chức sau Hiệp định sơ
bộ 6-3 giữa ta và Pháp, có nhiệm vụ canh
gác đối xứng với quân Pháp ở các căn cứ, các công sở, ở các thành phố, thị xã.
Sau một thời gian ngắn, Pháp trở mặt không thi hành Hiệp định, bắt đầu quay lại
xâm lược nước ta. Các đơn vị Tiếp phòng quân đánh nhau với quân Pháp ngay từ
đầu. Sau này cùng ông trở lại Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Nam
Định, tôi được cha tôi kể lại những ngày oanh liệt đó. Sau khi thất thủ ở Hải
Phòng, các đơn vị của ta lùi dần về phía sau để bảo toàn lực lượng. Vừa rút lui
vừa phá hoại giao thông để cản bước làm chậm tốc độ tiến công của quân Pháp.
Các cụ lùi dần qua Cầu Rào, về Kiến An, Đồ Sơn, rồi Thái Bình, Nam Định. Thời
gian trụ lại chiến đấu ở Thái Bình là lâu nhất. Chính thời gian đó cha tôi được
Ủy ban Kháng chiến tỉnh Thái Bình tặng bằng khen về thành tích chiến đấu bắn
cháy ca nô địch trên sông Thái Bình.
Cha tôi thuộc lòng từng địa danh vùng
Đông Hưng, Vũ Thư cho đến cầu Tân Đệ. Có sự trùng hợp ngẫu nhiên, sau này con
gái tôi, cháu Nguyễn Trần Thùy Vinh lấy chồng quê ở Thái Bình. Năm 2002, ông và
vợ chồng tôi về thăm nhà thông gia lại đến đúng làng Ký Con, xã Đông Xuân - cái
làng mà từ năm 1946 - 1947, cha tôi đã từng chiến đấu. Gần 60 năm trở lại, mặc
dù cảnh vật đã có nhiều thay đổi, nhưng cha tôi vẫn nhận ra được những mốc
chính từ Cầu Bo đến ngã ba Gia Lễ. Hỏi lại người xưa, lớp cũ chẳng ai còn. Lớp
sau, những cụ già 70-80 tuổi khi nghe cha tôi nhắc lại những sự kiện, tên
người, tên đất đều mừng mừng, tủi tủi. Cha tôi về lại Thái Bình, về làng Ký Con
được ba lần.
Gần 2 năm chiến đấu, vì sức khỏe yếu (bị
sốt rét, bị ngã đau lưng trong một lần vượt tường ), ngày 6 tháng 12 âm lịch
năm 1947, cha tôi được đơn vị cho về nhà chữa bệnh. Mẹ tôi mang thai và sinh ra
tôi trong dịp đó. Sau gần một năm cha tôi trở lại đơn vị.
Sau khi trở lại đơn vị cha tôi tham gia
nhiều chiến dịch. Lúc đầu ông được biên chế vào đơn vị xung kích. Xung kích
ngày đó, theo ông kể, mỗi tiểu đội có 7 người thì có 1 khẩu súng tuyn, 3 khẩu
súng trường, còn lại là mã tấu, kiếm, giáo mác. Chỉ khi đánh nhau giáp la cà
thì kiếm, mã tấu, giáo mác mới phát huy tác dụng. Còn khi địch ở xa, chỉ nằm
nhìn mấy người có súng bắn thôi. Mấy năm sau ông được điều về làm tiểu đội
trưởng thông tin điện thoại của Đại đội 164, Trung đoàn 57 Đại đoàn 304. Làm
lính thông tin điện thoại trong chiến đấu theo ông rất vất vả, nguy hiểm.
Thông tin điện thoại là người luôn đi
trước về sau trong mọi trận đánh. Trận đánh phát triển thuận lợi, kết thúc gọn
gàng, thắng lợi giòn giã thì suôn sẻ. Trận đánh lùng nhùng, dở dang hoặc thất
bại thì lính thông tin đi thu lại đường dây rất dễ thương vong, thậm chí có khi
bị bắt. Cha tôi kể, có lần ông đi thu hồi đường giây, bị địch phát hiện và đuổi
bắt. Ông chạy dọc bờ đê, may chui xuống cống ngầm mới thoát.
Năm 1950, cha tôi được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương. Ông tham gia các chiến dịch Hòa Bình, Hoàng Hoa Thám, Hà -
Nam - Ninh và đến đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện
Biên Phủ ông giữ chức trung đội phó, chi ủy viên của Đại đội 164 Trung đoàn 57
Đại đoàn 304. Đại đội 164 do ông Hoàng Như Ấm làm chính trị viên. Trung đoàn 57
vây đánh cứ điểm Hồng Cúm giành thắng lợi lớn nhưng thương vong nhiều. Nói
chung, chiến dịch Điện Biên Phủ là vậy. Sau này, cha tôi ra chơi với gia đình
tôi ở Khu tập thể gia đình quân nhân ở 1A - Hoàng Văn Thụ - Hà Nội. Gần nhà tôi
có ông Hoàng Như Ấm công tác ở Cục Khoa học quân sự - Bộ Tổng Tham mưu. Tình cờ
một buổi sáng trông thấy cha tôi đi dạo
bộ, ông Ấm reo lên:
- Ôi! anh Được! Anh đi mô đó ?
Cha tôi thốt lên:
- Ôi! Hoàng Như Ấm! Ở đây à? Mình ra chơi
nhà con trai.
Ông Ấm cảm động nói:
-
Trời! ở đây bao nhiêu năm, biết nó lâu rồi mà đâu biết là con anh.
Cha tôi kể ông Ấm là người Huế, ngày đó gầy gò
bé nhỏ. Khi ông Ấm bị thương, cha tôi cõng ông bê bết máu với bùn.
Cuối năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên
Phủ, cha tôi về phép.Tôi nhớ một buổi chiều tháng Mười, trên cánh đồng Nạy đã
gặt và cắt rạ xong, lũ chúng tôi trần
truồng như nhộng khoảng dăm, bảy đứa, mặt bê bết bùn, đang bốc đất be bờ ngăn
ruộng để tát cá. Chơi là chính chứ thực ra chỉ bắt được mấy con cá rô, cá diếc
bé tý tẹo để nướng và chấm muối ăn tại chỗ. Đang say sưa vừa tát cá vừa đùa
nghịch thì có một chú bộ đội vai khoác ba lô đi qua, nửa như hỏi đường nửa như
xem xét:
- Các cháu là con cháu người làng Đại Xá
phải không?
Một đứa lớn nhất bọn, hình như là anh Dần con
bác Thuần, trả lời:
- Đúng đấy ạ, nhưng mà chú hỏi về nhà ai?
- Chú hỏi về nhà chị Hoe Được.
Tự
nhiên nghe có người nói tên mẹ mình, tôi nhanh nhẩu nói:
- Thế thì là nhà cháu.
Chú bộ đội giật mình, với ánh mắt vừa
phảng phất đăm chiêu cảm động, vừa thẫn thờ mừng rỡ:
- Thế ra, con là Đấu đấy à. Dẫn cha về
nhà đi con.
Nói rồi, cha tôi ôm choàng lấy tôi:
- Ôi! Con trai tôi đây rồi!
Tôi ngơ ngác trong vòng tay của ông. Rồi
cả bọn trẻ cứ thế trần truồng lục tục dắt díu nhau kéo về nhà tôi.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi biết mặt cha
tôi. Một người trung niên đen xạm, quắc thước, khỏe mạnh, chân đi dép lốp, đầu
đội mũ nan lợp vải, phía trước có quân hiệu. Lúc đó tôi tròn 6 tuổi. Về tới
nhà, cha đưa tôi sang giếng cố Vận bên cạnh nhà múc nước kỳ cọ tắm gội. Ông xát
xà phòng tắm lên khắp cả người tôi thơm phức. Đó là loại xà phòng Pháp, chiến
lợi phẩm thu được ở trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Mãi đến bây giờ
tôi vẫn nhớ mùi thơm đặc trưng của loại xà phòng đó. Cha tôi mang về nhiều thứ
: ba lô, võng dù, màn tuyn, ca uống nước, bi đông, đèn pin, khăn mặt, máy lửa,
dây dù các loại. Tất cả đều là chiến lợi phẩm. Cái gì cũng lạ đối với chúng tôi
lúc đó.
Ông nói:
- Đây là hàng tiếp tế của Mỹ, thả dù
xuống cho lính Pháp bị vây hãm ở Điện Biên Phủ. Dù theo gió bay sang trận địa
ta, bộ đội thu được.
Sau mấy bữa quan sát tôi thấy cứ mỗi buổi
sáng ngủ dậy cha tôi đánh răng. Mà quê tôi thuở đó có ai biết đánh răng là thế
nào đâu. Một lần tôi tò mò mở ra xem, đưa lên mũi ngửi thử thấy thơm, thè lưỡi
liếm thử thấy ngọt, tôi đậy nắp lại chạy
vội sang nhà đứa bạn thân tên là Năm khoe:
- Cha tao mang về có loại kẹo gì vừa
ngọt, vừa thơm, vừa cay, mày sang hai đứa ta cùng ăn.
Năm và tôi đi tắt qua mấy vạt vườn quay
về nhà tôi. Tôi mang hộp thuốc đánh răng của cha tôi ra bóp cho mỗi đứa ăn một
khúc. Ôi thôi! Cả hai đứa bị đau bụng và đi lỏng suốt một ngày vì ăn phải xà
phòng. Phan Ngọc Năm là con trai út của ông Phan Ngọc Cường, người cùng làng.
Ông Cường đi dân công ở Thượng Lào, bị sốt rét hy sinh năm 1953, được xác nhận
liệt sỹ. Hồi nhỏ Năm cùng học và chơi thân với tôi. Học hết phổ thông trung
học, Năm đi bộ đội, là con liệt sĩ được ưu tiên cử đi học khóa 1 Đại học Quân
y. Năm học cùng khóa, cùng lớp với vợ tôi. Sau này mỗi lần gặp nhau ở Sài Gòn,
kể lại chuyện ăn thuốc đánh răng, chúng tôi vừa buồn cười, vừa thấy tủi, thấy
thương cho một thời.
Một lần khác, mấy đứa trẻ chúng tôi cãi
nhau là dây dù Mỹ đốt có cháy không. Đứa bảo rằng cháy, đứa bảo không. Giữa
buổi trưa anh Nam
con bác Hưng dắt díu em sang chơi - em là anh Bắc, anh Bảy bây giờ - hăng hái
đề xuất ý kiến, để tao thử xem sao. Vậy là đang lúc cha tôi ngủ say trên võng,
anh Nam
bò lại dùng một que lửa đốt thử. Tức thì, dây cháy queo, võng đứt phựt, cha tôi
ngã uỵch xuống nền nhà. Giật mình, bị ngã đau bất ngờ, mất giấc ngủ trưa, cha
tôi bực lắm nhưng vì mới về, lại là trò nghịch dại của con cháu trong nhà nên
ông cố nén giận. Anh Nam sau này lớn lên vào bộ đội, tháng 8 năm 1964, đi chiến
đấu ở chiến trường Miền Nam hy sinh năm
1966 tại A Sầu, A Lưới tây Thừa Thiên.
Mấy ngày đầu cha tôi mới về, bà con, làng
xóm thường tụ tập ở nhà tôi vừa ăn kẹo, ăn lạc rang, uống nước chè, vừa nghe
cha tôi kể chuyện trong bộ đội, chuyện đánh giặc. Có bữa ngồi chơi đến khuya.
Hồi đó quê tôi vẫn vậy. Hễ có một người đi thoát ly về phép là bà con hàng xóm
đến thăm hỏi, chuyện trò rôm rả mấy đêm liền.
Cuối năm 1956, sau Cải cách ruộng đất cha
tôi về phép. Ngày trả phép cha mang tôi
đi theo để trực tiếp chăm sóc dạy dỗ. Lúc đầu mẹ tôi không chịu vì sợ phải xa
con trai. Cha tôi nói mãi mới được. Mẹ và chị Hòe đưa tiễn hai cha con. Cả nhà
đi bộ vào Vinh, gần 20 cây số. Tôi chỉ tự đi được một vài quãng ngắn, còn lại
là cha mẹ thay nhau cõng. Chị Hòe lon ton chạy theo sau. Đây là lần đầu tiên
được đến Vinh, tôi thích lắm. Đường nhựa, ô tô, xe ngựa, phố xá, nhà lầu, đèn
điện, nước máy - với tôi cái gì cũng mới lạ. Cha tôi thuê nhà trọ ngủ qua đêm
để sáng ngày mai hai cha con đi ô tô ra Thanh Hóa, hai mẹ con đi bộ trở về nhà.
Nhưng khi vào nhà trọ, chẳng hiểu sao, chị Hòe khăng khăng không chịu ngủ lại,
nằng nặc đòi về nhà ngay. Chị kêu toáng lên, nếu mẹ không về, chị sẽ bỏ về một
mình. Cha mẹ tôi đành chịu thua, tần ngần bịn rịn chia tay nhau. Mẹ ôm lấy tôi,
khóc òa lên. Cái nhà trọ nhỏ bên cái hồ nhỏ, gần bến xe Vinh, cách đây đã hơn
nửa thế kỷ, sau này mỗi dịp qua đó, tôi vẫn ngoái lại nhìn. Ký ức tuổi ấu thơ
hằn sâu trong trí nhớ.
Sáng ngày hôm sau hai cha con mua vé ô tô
đi Thanh Hóa. Gần 9 giờ xe mới chuyển bánh. Từ Vinh ra Thị xã Thanh Hóa chưa
đầy 150 km, như bây giờ xe tốt chỉ chạy hơn 2 giờ đồng hồ. Nhưng ngày đó đường
rất xấu, nhiều ổ gà, ổ trâu, lại còn phải qua bốn phà: Cấm, Giát, Hoàng Mai,
Ghép. Mỗi lần qua phà, xe nối đuôi nhau xếp hàng dài, hành khách phải xuống xe.
Là đứa trẻ hiếu kỳ, hiếu động, với lại cái gì cũng mới lạ, tôi chạy lung tung
giữa đoàn người tứ xứ. Cha tôi sợ con bị lạc, cứ phải chạy theo. Khi đến bến
phà Ghép, mưa phùn, trời lạnh, tôi trèo lên một mô đất cao bị trơn trượt ngã,
mặt mũi quần áo lấm lem. Cha tôi phải dùng khăn mặt nhúng nước sông để lau cho
tôi. Gần tối xe mới tới được Thị xã Thanh Hóa. Sau khi đã thuê được nhà trọ,
hai cha con đi ăn tối. Dạo qua mấy dãy phố dưới ánh điện mờ, nhìn thấy nhiều
nhà hàng treo lủng lẳng những con gà luộc, những bộ lòng lợn luộc béo ngậy,
đang đói meo tôi thèm, đòi ăn. Hồi nhỏ ở quê, tôi chỉ được ăn thịt vào những
bữa giỗ, Tết. Mà cũng chẳng nhiều nhặn gì. Mặc dù trong túi tiền rất ít, nhưng
cha vẫn chiều tôi ăn uống no nê.
Sáng ngủ dậy, hai cha con đi tiếp ô tô về
đơn vị của ông. Ngày đó cha tôi đang an dưỡng tại Đoàn điều dưỡng của Đại đoàn
304, đóng trong nhà dân ở huyện Hà Trung, Thanh Hóa, gần chợ Bình Lâm, cách Đò
Lèn khoảng 5 km. Khi tới nơi tôi thấy một số cán bộ cũng mang con đến đơn vị.
Các chú bộ đội trong đơn vị thương quí tôi, nhất là các chú cùng quê. Cả đơn vị
ăn cơm trong một cái đình làng rất rộng. Cơm ăn chung còn thức ăn chia theo
khẩu phần: đại táo, trung táo. Đại táo là suất ăn của cán bộ đại đội trở xuống.
Trung táo là suất ăn của cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn. Đến bữa ăn nhiều chú kéo
tôi về mâm, hoặc gắp thức ăn sang mâm hai cha con. Hàng ngày, tôi được cha tôi
và các chú dẫn đi chơi trong vùng. Khi ra chợ Bình Lâm, khi ra xem thợ đang thi
công cầu Đò Lèn, khi leo núi, khi vãn cảnh chùa.
Vùng này cò nhiều cây vải cao to, sai
quả. Quả to mà hạt cũng to. Không nhỏ hạt và ngọt như vải thiều bây giờ, nhưng
cũng ngon. Có chú tên là Thắng quê ở xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An là dân vùng biển rất giỏi bơi lặn. Chú đưa tôi ra tập bơi ở bến sông Lèn.
Chú nói rằng, tập sơ bộ thôi, cứ quẳng xuống nước tự khắc biết bơi. Con chó,
con trâu có tập bao giờ đâu mà cũng biết bơi. Chính vì vậy, có lần chú bế tôi
ra giữa sông rồi thả ra. Tôi đã vùng vẫy, uống no nước, suýt chết đuối. Chú
Thắng vội lao ra cứu. Về nhà, cha tôi quát chú Thắng một trận. Bà chủ nhà sợ
tôi mất vía, đã lấy sàng gạo làm phép chao vía. Đi chơi với các chú bộ đội trẻ,
tôi được bày dạy nhiều điều.
Cuối năm 1957, giống như hàng loạt nông
dân mặc áo lính tham gia kháng chiến chống Pháp hồi đó, cha tôi được quân đội
cho giải ngũ theo chế độ phục viên. Trước đó đơn vị giải quyết cho ông chuyển
về Nông trường quân đội, nhưng ông không thích. Ông cho rằng ở nông trường cũng
làm ruộng mà lại xa vợ con, về quê vẫn hơn. Ông phục viên trong đợt 8 vạn quân
chuyển ra.
Quả thật, đó là một lớp người có công lao
lớn mà chính sách đãi ngộ rất ít. Nhưng biết làm sao được. Buổi ấy đất nước mới
thoát ra khỏi chiến tranh. Kinh tế tài chính còn khó khăn trăm bề. Người nông
dân tòng binh đánh giặc. Giặc tan họ trở về ruộng đồng. “Tĩnh vi nông, động vi
binh””. Triết lý sống của người Việt Nam ta tự ngàn xưa là vậy.
Ngày đó cha tôi đã 43 tuổi, văn hóa chưa
hết lớp 4, mắt đã phải đeo kính lão, không còn đáp ứng được yêu cầu xây dựng
quân đội chính qui trong thời bình. Ông trở về là phải. Ông tự nguyện hăng hái
trở về như ngày nào ông hăm hở tình nguyện tòng quân, dẫu biết rằng rất có thể
bỏ mình trong chiến trận. Ngày khoác ba lô về làng, thuở đó chưa có hợp tác xã,
nghĩa là mọi người còn tự do làm ăn trên mảnh đất của mình. Cầm 350.000đồng
tiền trợ cấp phục viên cha tôi nuôi chí làm giàu. Việc đầu tiên là ông mua cái
sân gạch ở xã Nghi Thịnh. Vì đất ở hiện tại quá chật, không chăn nuôi được, ông
có ý định chuyển nhà lên vạt ruộng ở Cửa Nghè đầu làng tôi. Ông trồng tre,
trồng phi lao thành bờ bao đẹp lắm. Hồi đó từ cây đa đầu làng đến Cửa Nghè còn
vắng vẻ. Vì thế mẹ tôi dứt khoát không đồng ý chuyển nhà lên ở giữa đồng.
Việc chuyển nhà không thành, cha tôi quay
sang đầu tư sản xuất. Ông cho rằng, với hơn 1,2 mẫu đất ruộng cộng với đất
vườn, hai vợ chồng, hai con (chị tôi và
tôi, ngày đó chưa có các em sau), với sức khỏe tốt, siêng năng, cần cù, tiết
kiệm, làm ăn có kế hoạch lại có một lưng vốn tương đối khá, chắc là đời sống
gia đình được cải thiện và từng bước đi lên. Nào ngờ, sự thể cuộc đời không như
ông dự liệu.
Năm 1958, quê tôi mọi nông dân đều vào hợp tác
xã nông nghiệp. Tất cả ruộng vườn, trâu bò, nông cụ đều đưa vào hợp tác xã hết.
Ai không vào hợp tâc xã thì chính quyền địa phương và nhân dân coi là phần tử
xấu, chống lại chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Con cái đi học bị dị
nghị. Thậm chí đi học, học nghề, đi thoát ly không được Ủy ban hành chinh xã
xác nhận lý lịch, hoặc có xác nhận thì cũng nhận xét không ra gì.Trong Đội
thiếu niên, trong Đoàn thanh niên có em nào cha mẹ không vào hợp tác xã thì bị
để ý, bị cản trở đủ điều. Là gia đình đảng viên, dĩ nhiên cha mẹ tôi phải vào
hợp tác ngay đợt đầu tiên.
Đúng là những năm đầu mới vào hợp tác xã
quê tôi vui lắm. Làm ăn tập thể, sáng, trưa, chiều, tối đều có kẻng ra đồng và
về làng. Ngày đó chưa có khoán. Sau từng buổi làm, từng đội xã viên tập trung
ngồi ở bờ ruộng để tính công, bình công, chia điểm.Từ chỗ làm ăn riêng lẻ, lặng
lẽ tùy nghi đi sớm về khuya mặc lòng, nay đi về có giờ giấc qui củ. Làm ăn tập
thể, chuyện trạng, chuyện tiếu lâm ồn ào. Vui thì có vui nhưng vẫn nghèo. Thậm
chí nghèo hơn trước.Cái nghèo được chia đều cho mọi người. Động lực không được
khêu gợi và phát huy, kỹ thuật không có gì mới, thậm chí không cải tiến mà là
cải lùi trong một số khâu sản xuất, dẫn đến năng suất lao động rất thấp.Thêm
vào đó tệ quan liêu và nạn tham nhũng bắt đầu xuất hiện trong sản xuất, phân
phối và lưu thông sản phẩm.
Khi
động lực lợi ích không được kích thích thì việc chây lười, làm ẩu, làm dối nổi
lên. Dân số ngày càng tăng theo qui luật sau chiến tranh. Đất đai canh tác bị
thu hẹp lại, vì phải dành cho đất ở, đất giao thông, đất thủy lợi và các công
trình công cộng khác…Tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến miếng cơm,
manh áo người nông dân một nắng hai sương. Cũng may dù đời sống vật chất có khó
khăn, thiếu thốn nhưng đời sống tinh thần, tình làng nghĩa xóm rất mặn nồng.
Các tệ nạn hầu như không có. Thuở đó, quê tôi mọi người ra đồng, đồ đạc để ở
nhà không cần khóa. Lúa, khoai, lạc, ngô phơi ở sân, nếu trời mưa bất chợt mà
không kịp về thì đã có người hàng xóm sang thu dọn, cất đặt hộ.
Điều đáng tiếc là sau năm 1954, hầu như quê
tôi không còn đền, chùa. Tất cả đều đã bị dỡ bỏ. Theo đó, mọi tục lệ từ ngàn
xưa đều bị xóa dần. Sau này nghĩ lại, tôi thấy cũng lạ lùng. Chống mê tín, dị
đoan là đúng. Nhưng lại chống cả tín ngưỡng, phong tục văn hóa đã trở thành
truyền thống tốt đẹp từ bao đời thì thật là sai lầm. Không có niềm tin, không
ước mơ, thì con người dễ phân tâm, đời sống tâm linh sẽ nghèo nàn, tâm hồn khô
cứng, tình cảm chai sạn. Đặc biệt là, con người sẽ không biết sợ. Ở đời sợ nhất
là sống chung với những người không biết sợ. Một khi đã không biết sợ, thì dễ làm
càn, làm ẩu, bất chấp qui luật, gây hậu quả xấu cho mình và cho xung quanh.
Cũng may việc thờ phụng tổ tiên, ông bà ông vải trong các ngày giỗ, tết ở mỗi
gia đình vẫn còn. Luân lý, đạo đức, thuần phong, mỹ tục còn được giữ lại và
phát huy trong điều kiện mới.
Những năm về già, cha tôi thường ra Hà
Nội ở với chúng tôi. Mặc dù tuổi đã cao nhưng ông vẫn còn khỏe, minh mẫn. Chúng
tôi đưa ông đi tham quan nhiều nơi, cả ngoài Bắc và trong Nam. Hàng năm vào dịp hè, chúng tôi
thường đưa ông đi nghỉ mát ở Cửa Lò, Đồ Sơn, Hạ Long. Cha tôi phát bệnh tiểu
đường từ cuối năm 2006. Điều trị nhiều ngày, cả đông y và tây y, nhưng không
khỏi, bệnh tình ngày một nặng hơn. Theo ý ông, ngày 14 tháng 5 năm 2008 (tức
ngày 10 tháng 4 Mậu Tý), chúng tôi chuyển cha tôi về quê. Hơn một tháng sau,
ngày 20 tháng 6 năm 2008 (tức ngày 17 tháng 5 Mậu Tý) cha tôi từ trần. Dù đã
biết trước, nhưng chúng tôi hẫng hụt và tiếc thương ông vô cùng. Giữa một ngày
hè nắng chói chang, gia đình, họ hàng, chính quyền đoàn thể ở địa phương, các đơn
vị và bạn hữu của các con ông, từ nhiều nơi về dự lễ tang ông đông đủ, chu đáo,
nghĩa tình.
Mẹ
tôi tên là Trần Thị Tuấn, tiếng địa
phương gọi là Tuớn, sinh năm 1919, thua
cha tôi 5 tuổi. Ông ngoại tôi là Trần Bá Huấn, thuở nhỏ là nho sinh. Nghe nói
những người học chữ Nho thuở đó nếu thành đạt thì vào đời làm được bốn nghề:
nho, y, lý, số (nho là làm thầy giáo; y là làm thầy thuốc; lý là địa lý; số là
thầy xem tướng số). Ông ngoại tôi vừa làm thầy đồ vừa đi bắt mạch bốc thuốc vào
tận Huế, Sài Gòn và ra Hà Nội. Ông thường đưa mẹ tôi theo trong những chuyến đi
xa. Mẹ tôi có dáng người tầm thước, gương mặt đẹp, phúc hậu. Bà là người hiền
lành tốt tính, trong quan hệ luôn lấy hòa khí làm trọng. Họ hàng nội ngoại,
làng trên xóm dưới, cả một đời, mẹ tôi không mất lòng ai.
Khi sinh tôi được mấy tháng, cha tôi trở
lại đơn vị, trong nhà chỉ còn ba mẹ con. Lúc đó chị Hòe mới hơn 5 tuổi, tôi thì
còn ẵm ngửa. Mấy gian nhà tranh trống trếnh, thường bị dột lúc trời mưa to, tốc
mái khi gió bão. Nhà nuôi một con bò, một miếng vườn nhỏ, mấy vạt ruộng độ dăm
sào. Có ruộng được ông bà nội chia cho. Có ruộng do cha mẹ tôi mới tậu sau khi
ra ở riêng.
Một mình mẹ tôi lo việc cấy cày đồng áng. Bốn,
năm tuổi, tôi đã lẽo đẽo bám theo mẹ ra đồng.
Mẹ tôi thường đặt tôi ở góc bờ ruộng trong lúc cày cấy. Mãi đến trưa,
đến tối lại lẽo đẽo cõng về. Có bữa làm ở ruộng Cửa Nghè trời nắng quá, mẹ tôi
bẻ một cành cây lá to để che cho tôi. Có bữa làm ở đồng Hạ Lang, mẹ gửi tôi ở
nhà bà Hội Tuynh là dì ruột của mẹ. Thuở đó hầu như trẻ con quê tôi thường có
tật đi theo cha mẹ ra đồng. Dù ngăn trở thế nào cũng đi theo bằng được. Có lẽ
do ở nhà chẳng biết chơi với ai và cũng chẳng có gì để chơi cả. Ra đồng thoáng
đãng, mát mẻ hơn.
Trong kháng chiến chống Pháp và những năm
sau hòa bình lập lại ở Miền Bắc, cha tôi còn tại ngũ, mẹ tôi vừa làm lụng nuôi
con vừa tham gia việc xã hội. Bà làm cán bộ phụ nữ xã Nghi Hợp. Năm 1955, Cải
cách ruộng đất như một cơn bão bất thần tràn đến quê tôi. Mặc dù nhà nghèo,
nhưng là cán bộ phụ nữ xã, mẹ tôi bị qui là đảng viên Quốc Dân đảng. Thực ra,
không riêng gì mẹ tôi, không hiểu sao ngày đó hầu hết cán bộ ở địa phương đều
bị quy là đảng viên Quốc Dân đảng. Những cán bộ chủ chốt của xã đều bị bắt giữ.
Tôi còn nhớ hồi đó nhà bác Thuần cạnh nhà tôi có một con chó mực to tự nhiên bị
chết. Chó đã được chôn ở vườn Cố Hợi được hai ngày rồi nhưng chẳng biết ai vu
cáo, Đội Cải cách bắt đào bới lên, mổ ra khám nghiệm. Kết quả khám nghiệm là
chó chết do thuốc độc ( sau này, khi đã
lớn, tôi nghĩ, chắc là chó ăn phải bả chuột). Đội Cải cách cho rằng, mẹ tôi
cùng mấy đảng viên khác dùng loại thuốc độc đó để mưu sát cán bộ Đội. Bà bị bắt
giam giữ, xét hỏi mất mấy ngày. Tôi chẳng biết người ta xét hỏi cái gì và mẹ
tôi khai báo thế nào cả, vì mãi về sau không thấy bà nói về chuyện đó.
Tôi còn bé bơ vơ, sang chơi với bạn bè
nhà hàng xóm, kể cả một vài nhà bà con, đều bị xua đuổi. Một mình tha thẩn, tôi
quay về nhà tủi thân òa khóc. Thực ra chẳng ai ghét tôi nhưng ngày đó họ sợ bị
liên lụy bản thân. Với một đứa trẻ lên
bảy tuổi thì biết gì, làm được gì cơ chứ.
Hồi Cải cách ruộng đất quê tôi có nhiều
trường hợp bị qui sai oan uổng. Có gia đình cũng nghèo, nhà tranh, vách nứa, có
vài mẫu ruộng do cả một đời, thậm chí mấy đời cần mẫn và tằn tiện mới tậu được,
con cái chẳng được học hành, quanh năm làm lụng vất vả lại là đảng viên, chẳng
hiểu sao vẫn qui là địa chủ. Tương tự, nhà có người đi bộ đội, đi thoát ly làm
cán bộ thì gọi là địa chủ kháng chiến.
Mãi sau này tôi mới biết vì chạy theo tỉ
lệ do trên xác định, lại không dựa vào cấp ủy địa phương, chỉ dựa vào cốt cán
xâu chuỗi rễ và mấy ông Đội điều từ nơi khác đến, không hiểu rõ tình hình thực
tế, nên qui chụp lung tung. Hình như càng qui chụp được nhiều càng có thành
tích, càng chứng tỏ “lập trương giai cấp
vững vàng”. Ai đã qui là địa chủ, lập túc bị tịch thu toàn bộ gia tài điền
sản. Có người bị chết oan, bị xử bắn, bị bức tử, bị tra tấn đến chết, hoặc có
người quá căng thẳng mà tự vẫn. Xã tôi có hai người bị bắn trong cải cách.
Nếu nói trong mấy chục năm qua, cách mạng
có lúc tả khuynh,thì quả thật quê tôi luôn dẫn đầu của sự tả
khuynh đó. Có một vấn đề hình như có tính qui luật: Ở đâu nghèo, ở đó có phong
trào cách mạng cao, có nhiều cống hiến hy sinh trong chiến tranh, lại hay tả
khuynh trên nhiều phương diện, và kết cục nơi đó mãi mãi nghèo hơn vùng khác.
Tôi sinh rằm tháng Chín năm Mậu Tý (tức
ngày 17 tháng 10 năm 1948). Tính ra là sau 9 tháng 9 ngày, kể từ khi cha tôi
đặt chân về làng. Vì tôi là con trai (trước đó sinh ba chị gái) cha mẹ tôi và
nói chung cả hai bên nội ngoại đều mừng lắm. Thật ra tên tôi lúc còn nhỏ là Đấu
chứ không phải là Đẩu như sau này. Cha tôi nói đặt tên Đấu là để kỷ niệm đi
chiến đấu về sinh con. Còn tên là Đẩu là vì ngày đầu tiên vào bộ đội, anh trợ
lý quân lực khi lập danh sách quân nhân hỏi tên gì, tôi trả lời là Đấu. Khổ
thay, tiếng Nghi Lộc phát âm không rõ, Đấu nghe thành Đẩu. Anh quân lực vào sổ
và từ đó suốt đời tôi mang tên là Đẩu. Lúc đó với tôi được nhập ngũ là mừng
rồi, mọi việc không lấy gì làm quan trọng. Bởi có về quê mọi người vẫn gọi tôi
là Đấu. Người Nghi Lộc gốc khi phát âm không phân biệt dấu sắc với dấu hỏi,
cũng như không phân biệt dấu nặng với dấu ngã.
Năm 1953, có tin quân Pháp đổ bộ lên cảng Cửa
Lò, lực lượng dân quân du kích ở lại bám trụ bảo vệ quê hương. Trung đội dân
quân tiến hành tổ chức kiểm tra vũ khí đạn dược sẵn sàng chiến đấu. Chú Nguyễn
Văn Bá - người bà con trong họ, ở cạnh nhà tôi - được cử ra ném thử lựu đạn.
Hồi đó, dân quân mới được trang bị lựu đạn do công binh xưởng của ta chế tạo.
Loại lựu đạn này khi ném phải dùng tay đập về phía sau ( hình như là để đập hạt
nổ ) rồi ném lên phía trước. Chú Bá vừa đập lựu đạn vào phía sau đang dang tay
để ném, không ngờ lựu đạn nổ ngay làm cụt cánh tay phải.
Ngoài lực lượng ở lại bám trụ chiến đấu,
còn lại dân làng tôi gồng gánh, dắt díu bồng bế nhau đi tản cư lên mạn phía tây
của huyện. Mẹ tôi quyết định sẽ tản cư lên nhà cậu Long (em trai út của mẹ) ở
gần làng Đồn Kiều - cách nhà tôi khoảng 25 cây số. Mẹ tôi quẩy một gánh gồm
lương thực, quần áo, nồi niêu, bát đĩa,…Mẹ nhờ anh Thuân, con anh cả của mẹ,
quẩy một gánh khác. Gánh của anh Thuân, một đầu là tôi ngồi trong một cái thúng với một tấm chăn mỏng để lót.
Đầu kia là một hũ đựng mắm cua đồng. Chị gái tôi lọc cọc đi bộ phía sau. Mẹ
con, cô cháu dắt díu nhau chạy giặc. Khi mới qua cầu Phương Tích (xã Nghi
Phương bây giờ), đường gồ ghề mấp mô, gióng thì dài, anh Thuân thì thấp, sơ ý
vấp phải hòn đá ở vệ đường làm tôi rơi lăn kềnh xuống đất, đầu bên kia hũ mắm
cũng rơi uỵch vỡ tan, mắm chảy lênh láng ra đường. Vừa đau, vừa sợ, tôi khóc òa
lên. Mẹ tôi xuýt xoa trách anh Thuân vô
ý. Anh Thuân lóng ngóng thanh minh là tại gióng cô dài. Năm đó anh Thuân chừng
16, 17 tuổi. Sau này nhiều lần về phép lên nhà
bên ngoại chơi, tôi được anh Thuân kể lại chuyện này như một kỷ niệm
không bao giờ quên.
Năm lên 7 tuổi tôi bắt đầu đi học vỡ
lòng. Thầy dạy chữ đầu tiên là ông Lê Văn Nhựa ở cạnh nhà tôi. Lớp học vỡ lòng
ở nhà thờ họ Lê, trong nhà ông Nga Huỳnh. Ông Nhựa rèn chữ rất nghiêm khắc. Hễ
trò nào viết sai, viết cẩu thả, viết xấu, tức thì ông bắt đưa tay lên bàn, dùng
thước gỗ lim đánh khá đau. Chẳng riêng gì ông Nhựa, các cụ dạy học xưa là vậy.
Nhờ thế mới có người viết chữ đẹp. Phần vì sợ thầy, phần vì chán học, tôi
thường trốn. Hàng ngày, mẹ tôi cõng tôi đến lớp, mẹ quay về trước, tôi lẻn về
sau, cứ thế mất một thời gian.
Cuối năm 1956, khi tôi đang ở với cha tôi
tại Thanh Hóa, mẹ tôi viết thư khẩn thiết đòi cha cho tôi về quê để đi học.
Ngày xin vào học, sau khi nghe cha tôi trình bày, cô giáo Nguyễn Thị Hiệp xếp
tôi vào học lớp một. Cha tôi thì xin
được vào thẳng lớp hai. Nói mãi cô Hiệp đành chịu nhưng với một điều kiện là
nếu không theo được thì phải xuống lớp dưới. Bởi thế, ngay từ bé tôi đã cùng
học với các anh, các chị hơn tuổi. Với sĩ số 47 học sinh, tháng đầu tiên tôi
được cô giáo xếp đội sổ, đứng thứ 47. Cô Hiệp định cho tôi xuống lớp, cha tôi
năn nỉ xin cho ở lại vì cho rằng tôi mới về chưa quen. Từ tháng thứ hai trở đi
tôi quen dần và học tốt hơn. Khi tôi học xong lớp 2 thì tất cả các lớp được
chuyển vào Trường cấp I của xã ở làng Kỳ Sơn. Cô giáo Hiệp dạy tôi năm lớp 2,
hơn 50 năm sau, tôi đến thăm nhà cô ở Hà Nội, cô vẫn nhớ ra.
Sau khi tốt nghiệp cấp I, tôi thi đậu vào
Trường cấp II Nghi Khánh. Cha mẹ tôi rất mừng. Vì trong vùng hơn mười xã mà chỉ
có một trường cấp II, người dự thi đông, số được nhận vào học ít. Cả lớp 4 của
tôi ở Trường cấp I xã Nghi Hợp chỉ đậu có mấy người. Từ nhà tôi đến trường hơn
2 km. Ngày đó trường chỉ có mấy dãy nhà tranh vách nứa ở gần hai cây lim to.
Giữa các lớp ngăn ra bằng một tấm vách, lớp bên này đọc bài , lớp bên kia nghe
hết. Hình như đó vốn là doanh trại của
một đơn vị bộ đội Miền Nam
tập kết vào năm 1955.
Khi tôi còn bé ở quê có nhiều bạn. Trong
làng có lớp ít hơn tôi vài ba tuổi gồm:
Bảy, Phượng, Lam, Tấn, Ưng, Mai, Ba, Dinh, Thìn…Lớp cùng lứa có: Bắc,
Hiền, Châu, Vĩnh, Anh, Thịnh, Liễu, Ngữ, Sĩ,…và có cả lớp trên như các anh: Cần, Duệ, Dần, Nam, Ba, Tư, Minh, Dinh...
Chúng tôi chơi với nhau hồn nhiên, vô tư bằng nhiều trò chơi: đá bóng, chơi
khăng, nhiều hơn cả là chơi đánh trận giả. Lớn lên, bước vào thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, hầu như tất cả bạn bè cùng trang lứa với tôi đều gia nhập bộ
đội, đi chiến đấu ở các chiến trường. Trong số ấy có nhiều người đã hy sinh
hoặc bị thương. Bạn bè thuở đó, ngoài những người họ hàng ruột thịt, có Lê Văn
Hiền là người gắn bó, thân thiết với tôi từ khi còn học vỡ lòng cho đến tận bây
giờ.
Đội thiếu niên ở làng được tổ chức qui củ,
chặt chẽ và cũng vui lắm. Mỗi tháng một lần sinh hoạt đội. Mỗi tháng một lần
Đội thiếu niên tập trung rước đuốc đi cổ động trong làng. Trước khi đi toàn đội
tập trung ở Hội quán để kiểm tra quân số, phổ biến nội dung cổ động và cung
đường đi. Trên đường đi, người đội trưởng cầm một tờ giấy trên đó ghi các câu
khẩu hiệu và hô to.Các em thiếu niên đồng thanh hô, hòa theo tiếng trống ếch.
Cả đoàn đuốc sáng trưng, tiếng hô rầm rộ đến từng ngõ xóm, bọn trẻ chúng tôi
thích lắm. Sau khi rước đuốc mấy vòng trong làng, cũng là lúc đuốc tàn, toàn
đội tập trung trở lại Hội quán để rút kinh nghiệm: quân số đủ không, ai không
đi, tại sao, có xin phép không, đuốc đủ sáng không, hô khẩu hiệu đều không, to
không. Khi các phương tiện thông tin chưa có nhiều như ngày nay, việc tổ chức
cho thiếu niên đi rước đuốc cổ động vừa giúp ích cho việc tuyên truyên các chủ
trương chính sách của lãnh đạo các cấp, vừa tạo ra ý thức tập thể cho thiếu
niên ngay từ bé. Đội thiếu niên có tổ chức hợp tác xã măng non: trồng rau, nuôi
lợn, nuôi gà. Dưới gốc đa làng là một dãy chuồng gà của hợp tác xã măng non.
Hàng ngày từng đội viên được phân công cho gà, lợn ăn. Đến phiên trực em nào
cũng lo lắng đến trách nhiệm, nhất là những ngày mưa gió, rét mướt. Hoạt động
của Đội thiếu niên thường tập trung vào hai ngày trong năm: Mồng một tháng Sáu
và Tết Trung thu, nhất là Tết Trung Thu.
Vào những ngày rằm, nhất là rằm tháng Tám,
ánh trăng nơi thôn dã quê tôi đẹp lạ lùng. Trăng tròn vành vạnh giữa trời cao
không một gợn mây. Ánh sáng vàng ruộm rắc xuống từng ngõ xóm, những lũy tre
xanh, những bãi cát trắng phau, mịn màng. Gió thổi nhẹ, trời mát dịu, chúng tôi
vui chơi hồn nhiên, thỏa thích. Vào hai ngày 1 - 6 và Tết Trung Thu, thiếu niên
toàn xã tổ chức cắm trại, hội thi, hội thao, vui chơi, ngủ tập trung, ăn cơm
tập đoàn, thích lắm. Thường tổ chức thi các môn: đồng diễn thể dục, các môn thể
thao, thi cắm trại đẹp, thi báo tường, thi tín hiệu còi, cờ mooc-xờ. Công việc
chuẩn bị được triển khai từ rất sớm, trước cả tháng. Một không khí vui tươi,
thi đua sôi nổi tràn ngập trong các làng. Các cán bộ, bà con cô bác, các bậc
phụ huynh ở từng làng đầu tư công sức cho việc luyện thi. Các anh chị phụ trách rất quan tâm lo
lắng.Việc chấm điểm trong các Hội đồng thi cũng gắt gao, nghiêm túc và công bằng.
Trong các lần cắm trại, làng Đại Xá thường dẫn đầu tất cả các môn thi và đứng
thứ nhất của xã Nghi Hợp. Đó là niềm vinh dự tự hào của thiếu niên làng chúng
tôi qua nhiều thế hệ.
Năm tôi đang học lớp 6 thì được đi đón
Bác Hồ về thăm quê lần thứ hai. Từ sáng sớm ngày 8 tháng 12 năm 1961, học sinh
chúng tôi đi bộ vào Vinh, xếp hàng ở
cổng sân bay Chợ Dâu (bây giờ gọi là sân bay Vinh) để đón Bác. Đến 12giờ30 phút
một chiếc máy bay Đa-cô-ta cánh bạc
xuyên mây hạ cánh. Bác rời máy bay lên
xe com-măng-ca mui trần. Chúng tôi ùa ra, tay vẫy cờ, hoa và đồng thanh hô to :
Hồ Chủ tịch muôn năm. Bác giơ tay vẫy lại. Được biết ngày đó lãnh đạo tỉnh Nghệ
An bố trí một chiếc xe du lịch mui trần kết hoa để đón Bác. Nhưng khi xuống máy
bay, Bác lại lên chiếc xe mui bạt của Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Ngồi vào xe, Bác
bảo tháo bạt ra để Bác còn vẫy chào nhân dân ra đón. Xe kết hoa chạy sau để cụ
Lê Nhu nguyên chủ tịch Uỷ ban kháng chiến tỉnh Nghệ An ngồi. Cụ Lê Nhu râu tóc
bạc phơ, da dẻ hồng hào, nhiều người tưởng nhầm là Bác. Có người lại nói là đó
là người đóng thế Bác, để nghi trang. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi vinh dự
được tận mắt nhìn thấy Bác Hồ. Ngày đó Bác còn khỏe nhưng tôi đứng rất gần nhìn
kỹ, thấy da mặt Bác đã có mấy chấm tím đen.Về nhà, hỏi người lớn thì biết đó là
chấm đồi mồi - người già vẫn vậy. Không ngờ rằng, đó cũng là lần duy nhất tôi
nhìn thấy Bác Hồ. Ngay sau đó mấy hôm, thầy Hoàng Văn Bàng, dạy văn lớp chúng
tôi ra một bài thi kiểm tra :”Em hãy tường thuật buổi đón Bác Hồ về thăm quê”.
Bài văn tôi được chấm điểm cao nhất lớp. Được thầy yêu cầu đọc cho cả lớp nghe
chung. Chỉ là thành tích nhỏ nhưng tôi cảm thấy vinh dự, tự hào.
Mặc dù học giỏi năm lớp 7 ở Trường cấp II
Nghi Khánh nhưng khi thi vào cấp III Nghi Lộc, tôi bị trượt. Tôi buồn vô cùng.
Các thầy, cô và bạn bè tôi đều không nghĩ là tôi trượt. Mọi người động viên
tôi, thôi thì học tài thi phận, khuyên tôi về nhà ôn, sang năm thi tiếp. Cả đời
tôi, qua các trường, các bậc học, đây là lần thi trượt đầu tiên và duy nhất.
Vừa buồn vừa xấu hổ, sĩ diện với bè bạn, lại cho rằng học bổ túc cũng được,
miễn là tốt nghiệp được lớp 10 để đi xin việc, tôi quyết định xin vào học lớp 8
bổ túc văn hóa của Trường cấp III Nghi Lộc.
Chương trình Bổ túc văn hóa cũng cùng
trường, cùng giáo viên, cùng giáo khoa như trường Phổ thông. Chỉ khác là chúng
tôi chỉ học ba môn tự nhiên Toán, Lý, Hóa. Thời gian học là vào các buổi tối
trong tuần. Hồi đó chưa có điện, lớp học được thắp sáng bằng đèn măng xông.
Cùng học với tôi một lớp có Lê Văn Ba ngay cạnh nhà. Trường cấp III
Nghi Lộc hồi đó ở thị trấn Quán Hành, gần chỗ huyện đội bây giờ, cách
nhà khoảng 7 cây số, đi bộ hơn 1 tiếng đồng hồ. Hàng ngày, cứ đến 5 giờ chiều,
tôi và Ba cắp sách đến trường. Học xong về đến nhà khoảng 10 giờ rưỡi đêm. Có
bữa trời mưa, không về, ngủ lại trên bàn. Đêm rét quá, lấy tấm ni lông đắp.Vì
đắp ni lông, mồ hôi hai anh em tụ lại chảy ròng ròng như người xông hơi.
Học xong lớp 8, tôi học tiếp lên lớp 9.
Trong lý lịch bây giờ của tôi có ghi hai
bằng đại học: Kinh tế, Chính trị. Nhưng đó là chuyện sau này.
Sinh ra, lớn lên bữa no bữa đói bằng hạt
gạo, củ khoai, củ sắn ở một miền quê nghèo khó, nhưng bù lại tôi được nuôi
dưỡng bằng một đời sống văn hóa tinh thần bình dị mà phong phú. Quê tôi từ năm
1945 đã được giải phóng. Hình ảnh những cánh đồng trải rộng thẳng cánh cò bay,
những lũy tre xanh rợp mát những trưa hè; những câu ca dao thấm đẫm tình người
bên chiếc võng tre qua lời ru của mẹ :
“Công
cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một
đời thờ mẹ, kính cha
Mới
tròn chữ hiếu, mới là đạo con”
“Nhiễu điều phủ lấy giá hương
Người
trong một nước phải thương nhau cùng”.
Khi đến tuổi cắp sách tới trường đi học,
từng bước đã đưa tôi đến những trang lịch sử chống ngoại xâm oai hùng của dân
tộc. Từ khởi nghĩa hai Bà Trưng, khởi nghĩa Phùng Hưng, Triệu Thị Trinh, Mai
Thúc Loan, rồi đến Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán ở Bạch Đằng Giang năm 938
chấm dứt 1.000 Bắc thuộc. Lý Thường Kiệt đánh thắng quân Tống trên sông Như
Nguyệt, với bài thơ bất hủ được coi như Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất :
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Giang hồ nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Với khí phách Đông A, thời Trần đã ba lần
đánh thắng đế quốc Nguyên Mông mà vó ngựa xâm lăng của chúng đã từng chinh phạt
nhiều quốc gia từ Á sang Âu. Bằng tài thao lược của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo
vương Trần Quốc Tuấn và chí khí quật cường của trăm họ đã lập nên những võ công
oanh liệt ở thế kỷ XIII. Đến thế kỷ XV,
Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã phất cao ngọn cờ đại nghĩa, mười năm trường kỳ nếm mật
nằm gai lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi huy hoàng.
Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải cờ đào lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thu
giang sơn về một mối sau hơn 200 trăm bị chia cắt; tiếp đến, lên ngôi Hoàng đế
Quang Trung đã xuất quân thần tốc từ Phú Xuân ra Bắc Hà đại thắng 20 vạn quân
Thanh chỉ trong mấy ngày Tết năm Kỷ Dậu (1789). Từ khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, những cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra : Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân,
Nguyễn Hữu Cầu, Phan Đình Phùng rồi Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học. Dẫu lần
lượt thất bại, nhưng khí phách quật cường của phong trào, chí khí lẫm liệt của
những người anh hùng sống mãi với sử xanh.
Ngày đó thầy giáo yêu cầu chúng tôi học
thuộc lòng Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo:
“…Ta
cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi tai ương. Nhìn sứ
giặc nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình;
đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ…Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ
gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ tức một nỗi chưa xả thịt, lột da,
ăn gan, uống máu quân giặc; dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác
này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng…”.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được coi như
Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai:
…”
Việc nhân nghĩa cốt để yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta thuở trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nước non bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý , Trần; bao đời xây nền
độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ
một phương…”.
Những trang lịch sử oanh liệt cùng những áng
hùng văn bất hủ đó đã thấm đậm vào tình cảm và tâm hồn non trẻ của chúng tôi mà
đến trọn đời không bao giờ quên. Những bài thơ hào sảng của Nguyễn Đình Chiểu,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Tố Hữu và nhiều nhà thơ khác đã khắc sâu vào tâm
trí của chúng tôi. Ngay từ khi chúng tôi học cấp I, thầy giáo yêu cầu học thuộc
lòng những bài văn hay như Đêm Trung thu
gác trại, Cây tre Việt Nam của Thép Mới, bài thơ Chú đi tuần của Trần Ngọc…
Hồi đó, đất nước mới giành được thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi được học, được nghe kể về những
tấm gương anh hùng tiêu biểu : Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Tô Vĩnh
Diện chèn thân cứu pháo, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai. Rồi đến
những câu chuyện người thật, việc thật của các bậc cha chú trong làng tham gia
chiến đấu trên các chiến trường đánh Pháp từ Việt Bắc, Tây Bắc đến Tây Nguyên,
Khu 5, Nam Bộ. Đế quốc Mỹ xâm lược Miền Nam, lập ra chính quyền bù nhìn tay
sai, chúng tôi được nghe kể về tội ác của Mỹ - Diệm đang thực hiện chính sách
đàn áp dã man bằng Luật 10 / 59 và được học những bài thơ, bài văn ca ngợi tinh
thần đấu tranh bất khuất của đồng bào Miền Nam.
***
***
Tình yêu quê hương, tình yêu Tổ quốc, niềm tự hào dân
tộc được nhen nhóm từ thuở nhỏ và được vun đắp qua sự giáo dục bằng nhiều con
đường đã hình thành nên đời sống tinh thần và sự xác định lý tưởng sống, lẽ
sống của thế hệ chúng tôi là vậy. Tôi nghĩ rằng, đó chính là nền tảng ban đầu
và cũng là hành trang của lớp thanh niên thời kỳ đầu lên đường chống Mỹ, cứu
nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét