Chương ba
Chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, Thừa
Thiên
Tháng 10 năm 1966, Trung đoàn chúng tôi rời
Hương Khê hành quân vào Miền Nam.
Cả đơn vị dừng lại trú quân ở Nông trường Quyết Thắng, Vĩnh Linh. Tiểu đoàn
trưởng Bùi Trần, các đại đội trưởng và tiểu đội trinh sát đi nghiên cứu địa
hình. Là tiểu đội trưởng liên lạc, đồng thời là liên lạc trực tiếp cho Tiểu
đoàn trưởng, tôi cũng thuộc thành phần đi trinh sát chiến trường. Từ Nông
trường Quyết Thắng, chúng tôi vượt qua Bến Tắt để sang bờ Nam sông Bến
Hải. Từ đây, chúng tôi đi tiếp theo hướng đông về huyện Gio Linh. Trước đó, tháng
7 năm 1966, các trung đoàn của Sư đoàn 324 mới đánh nhau với quân Mỹ ở trục
Đường 9 từ Cù Đinh, Ba De đến gần sát khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu.
Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào chiến
trường Miền Nam.
Mặc dù đã trải qua chiến đấu gần 2 năm trên chiến trường Lào, nhưng là mới đánh
nhau với quân ngụy Lào (Phu Mi), chưa chạm trán bộ binh Mỹ. Mãi sau này, nhất là khi đã
trở thành cán bộ, tôi cứ nghĩ rằng, nếu với cách tổ chức sinh hoạt và chiến đấu
như thời kỳ ở Lào mà đơn vị chúng tôi đã trải qua, thì không thể trụ lại được
với sự khốc liệt gian khổ ở Miền Nam, dù chỉ là trong thời gian ngắn. Những nơi chúng tôi đi qua là cảnh tan hoang
của chiến trường. Cây cối đổ ngổn ngang, cháy trụi, bị bom đạn băm nát xác xơ.
Hố bom đạn chằng chịt cày xới mặt đất, cái đen kịt, cái đỏ lòm. Qua các bãi đổ
bộ, trú quân của quân Mỹ, rặt một mùi Mỹ khó tả. Mùi đồ hộp các loại, mùi thuốc
lá, mùi xà phòng tắm, mùi nước hoa, mùi thùng các tông, mùi thuốc súng, mùi cây
cối bị cháy sém, mùi mồ hôi ở quần áo đồ dùng vứt lại…Tất cả quyện lại thành
một mùi hỗn tạp hoi hôi, ngai ngái, ngầy ngậy, ghê ghê, gây buồn nôn. Tôi ấn
tượng ngay từ đầu và mãi sau này, mỗi khi vào trinh sát các cứ điểm Mỹ đóng
quân, trong khứu giác của mình không bao giờ quên được cái mùi đặc trưng đó.
Chúng tôi đi nghiên cứu địa hình từ khu
vực Hồ Khê, Đá Bạc vòng về làng An Cát Khê, làng Trung An, qua các trục Đường
74, Đường 75, lên đến làng An Nha, An Hướng. Nơi đây đang là vùng tranh chấp
giữa ta và địch. Dân đã đi sơ tán hết. Có dân lên rừng, vào vùng giải phóng. Có
dân chạy vào Đông Hà, thị xã Quảng trị, thành phố Huế, vùng địch kiểm soát. Chỉ
còn lại dân quân du kích phối hợp hoạt động cùng bộ đội chủ lực. Dọc bờ nam
sông Bến Hải, nam cầu HIền Lương ra tới
biển và dọc theo Đường 1 là vùng quân địch vẫn còn chiếm đóng.
Sau khi đi xem xét một lượt địa hình trong
toàn khu vực, theo chỉ thị của trên, tiểu đoàn chúng tôi bố trí trận địa đón
lõng quân địch ở khu vực Hồ Khê, Đá Bạc. Theo dự kiến, sau khi phát hiện có chủ
lực của ta hoạt động ở phía Bắc Đường 9, quân Mỹ sẽ hành quân từ căn cứ Đầu Mầu
ở Đường 9 đánh chiếm dọc theo triền núi đi về phía suối La La và Đồi Không Tên.
Ngày 15 tháng 4 năm 1967, từ khu vực tập kết ở
Bình độ 100, các đơn vị trong tiểu đoàn vào khu vực núi Hồ Khê, Đá Bạc thuộc xã
Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị xây dựng công sự, trận địa. Thế bố trí
lực lượng là: Đại đội 1, Đại đội 2 và Đại đại 3
được bố trí theo hình tam giác ( kiềng ba chân). Theo đó, Đại đội 1 và
Đại đội 3 (thiếu Trung đội 1) là lực lượng đánh chặn địch ở tiền duyên, Đại đội
2 được bố trí hẳn sang phía bên quyết chiến điểm, nhằm đánh thốc vào sau lưng
địch. Trung đội 1 của Đại đội 3 do anh Lê Hồng Hải làm trung đội trưởng được bố
trí bên cạnh Sở Chỉ huy Tiểu đoàn làm lực lượng cơ động. Sở chi huy tiểu đoàn
đặt sau Đại đội 1. Đại đội 4 trợ chiến bố trí hỏa khí cối 82 ly, ĐKZ 75 ly, đại
liên phân tán, nhưng các loại hỏa lực đều phải bắn tập trung vào quyết chiến điểm.
Ngoài ra, ở khu vực đó còn bố trí mìn ĐH10.
Thực hiện kế hoạch của tiểu đoàn, các đại
đội và tiểu đoàn bộ đang triển khai đào công sự, xây dựng trận địa được 3 ngày
thì có một việc đột xuất đặc biệt xảy ra : Trần Hữu Lễ quê ở Bố Trạch (Quảng
Bình), chiến sĩ thông tin 2 oát của tiểu đoàn đi chiêu hồi, đầu hàng địch.
Chiều hôm đó sau khi kết thúc phần đào hầm ở Sở chỉ huy tiểu đoàn, chúng tôi
trở về khu vực tập kết ở Bình độ 100. Khi về cách khu vực tập kết khoảng 3 cây
số, lúc trời đã nhá nhem tối, Lễ cầm một
cái xẻng bảo là tạt ra ngoài bìa rừng để
đi vệ sinh. Chờ mãi không thấy Lễ quay lại, tôi báo cáo với anh Thuyết trung
đội trưởng thông tin. Anh Thuyết báo cáo với anh Phan Hà, tiểu đoàn phó. Anh Hà
chỉ thị cho các lực lượng của tiểu đoàn bộ phải quay lại để tìm bằng được Lễ.
Chúng tôi bao gồm trinh sát, liên lạc, thông tin, tỏa ra đi tìm. Nghĩ rằng, Lễ
có thể bị thương bởi pháo địch vẫn thường bắn vu vơ xung quanh vào thời điểm
đó, hoặc bị rắn rết cắn, hoặc bị cảm gió nằm bẹp ở đâu đó.
Từng bộ phận, từng người dàn hàng ngang,
tìm đi tìm lại nhiều lần từng hốc cây, khe đá trong phạm vi khoảng hai cây số
vuông vì nghĩ rằng Lễ chưa đi xa hơn. Tìm suốt cả đêm không thấy tăm hơi. Ngày
hôm sau, trời sáng nhìn rõ hơn, tổ chức đi tìm kỹ lần nữa vẫn bặt vô âm tín.
Đến chiều cấp trên thông báo, theo tin kỹ thuật của ta nắm được thì Trần Hữu Lễ
đã chiêu hồi địch ở tận Đông Hà. Chúng tôi ngớ người ra. Hoàn toàn bất ngờ về
việc này. Mãi mấy ngày hôm sau, từ trên máy bay phát ra đích thực là lời kêu
gọi đầu hàng của Lễ, chúng tôi mới tin đó là sự thật.
Ngày đó, chúng tôi cứ tưởng rằng, Lễ trực
tiếp ngồi trên máy bay để nói lời kêu gọi. Chưa biết là, từ Đông Hà hay ở Huế,
địch thu tiếng của Lễ vào băng rồi phát lại trên máy bay. Vì thế, khi nghe Lễ
kêu gọi đầu hàng, chúng tôi phẫn uất, căm giận, nguyền rủa kẻ đầu hàng phản
bội.
Chân ướt chân ráo vào chiến trường Miền
Nam, chưa đánh trận nào, mới chỉ nếm mùi ác liệt căng thẳng của phi pháo trên
đường hành quân và trú quân thôi, mà đã có kẻ dao động cầu an, sợ chết, đầu
hàng địch. Thực ra, hồi đó, ngoài việc chịu đựng sự ác liệt của bom đạn địch,
gian khổ của đời sống chiến trường, bộ đội ta còn bị tác động đòn tâm lý chiến
thâm độc, xảo quyệt của địch. Khắp bãi chiến trường, truyền đơn các loại rải
trắng xóa như bươm bướm. Có truyền đơn nén trong đạn pháo bắn đi, nhưng phần
nhiều là rải từ máy bay xuống.
Mặc dù cán bộ đơn vị cấm đọc truyền đơn
địch, nhưng với sự tò mò, tính hiếu kỳ, bọn lính trẻ chúng tôi vẫn đọc. Với
thói quen nhìn nhận vấn đề từ mọi góc cạnh, tôi cho rằng, nhận thức của mình sẽ
không bị phiến diện, bảo đảm khách quan hơn, chính xác hơn. Chỉ đọc qua truyền
đơn mà đã chạy theo địch, thì chắc chẳng còn ai trụ lại trên chiến trường hàng
chục năm. Đọc qua truyền đơn, dẫu còn rất trẻ, chúng tôi cũng biết được luận
điệu xuyên tạc, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của kẻ thù. Nội dung truyền đơn của
địch đa dạng: ảnh, ký họa, thơ ca, hò
vè, văn xuôi - đủ cả. Có nội dung xuyên tạc cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước
của nhân dân ta, chúng cho rẳng Miền Bắc xâm lược Miền Nam theo sự chỉ
đạo của Liên Xô, Trung Quốc. Có truyền đơn cường điệu, thổi phồng cảnh chết
chóc tang thương, thất bại của bộ đội ta trên các chiến trường. Có nội dung bôi
nhọ Đảng và lãnh tụ. Nhiều hơn cả là truyền đơn kêu gọi cán bộ, chiến sĩ ta buông
súng chiêu hồi, về với “chính nghĩa quốc
gia”. Có tờ truyền đơn in hình ảnh và lời kêu gọi đầu hàng của Mai Hồng Nhị, của Lê
Xuân Chuyên. Theo đó, Mai Hồng Nhị là trung đội trưởng đầu hàng ở chiến trường
Quảng Trị. Lê Xuân Chuyên là trung đoàn phó chiêu hồi ở chiến trường Tây
Nguyên. Chúng tôi xem truyền đơn nhưng đều khẳng định là địch nói láo, thế
thôi.
Trên trời thì máy bay trinh sát L19, VO10
suốt ngày quần đảo thám thính, rải truyền đơn và ra rả lời kêu gọi cán binh
Cộng sản BắcViệt đầu hàng. Dưới đất thì bom đạn địch ngay đêm bắn phá ác liệt.
Đời sống vật chất thì kham khổ. Tuy vậy, tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ
trong đơn vị vẫn kiên định giữ vững quyết tâm chiến đấu. Trường hợp dao động,
cầu an đến mức chiêu hồi phản bội như Trần Hữu Lễ là rất cá biệt.
Sau khi Lễ đi đầu hàng, để tránh địch thực
hành đánh phá theo sự chỉ điểm của Lễ, tiểu đoàn chúng tôi đã phải di chuyển
địa điểm tập kết sang khu vực khác. Trận địa đã bố trí ở Hồ Khê - Đá Bạc đều phải điều chỉnh lại toàn bộ. Cả đơn vị phát
động phong trào lên án tư tưởng và hành động của Lễ.
Mãi đến năm 1984, anh Đinh Minh Chúng bạn tôi,
làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 6 ra học khóa 6 Học viện Cao cấp, gặp tôi ở Hà
Nội, kể rằng sau giải phóng có gặp Trần Hữu Lễ là thiếu tá tâm lý chiến của
quân ngụy đóng tại Huế, đang đi cải tạo. Lúc nhìn thấy nhau chẳng nói năng gì.
Thực ra còn có gì để nói nữa. Bản thân sự việc và kết cục của nó đã nói lên mọi
điều.
Việc Lễ đi chiêu hồi rồi cũng chìm lắng
xuống rất nhanh. Còn bao nhiêu việc phải làm. Cả tiểu đoàn gấp rút chuẩn
bị trận địa, gia cố thêm công sự, bố trí
bãi mìn, lấy phần tử xạ kích cho cối, ĐKZ, chuẩn bị đường cơ động các
hướng, dự trữ lương thực, thực phẩm.
Ngày 15 tháng 5 năm 1967, từ sáng sớm
pháo địch từ các căn cứ Đông Hà, Ái Tử, Đầu Mầu, Điểm cao 241 dồn đập bắn vào
khu vực Hồ Khê. Đến 10 giờ, mấy tốp máy bay F105, F4 oanh tạc liên tục, mấy chiếc trực thăng vũ trang
UH1 quần đảo bắn rốc két vào Đá Bạc. Tiếp đến máy bay trinh sát VO10 chao liệng
liên tục ở tầm rất thấp, nghe rè rè nhức óc. Tất cả động thái đó chứng tỏ là
địch sắp hành quân lấn chiếm vào khu vực ta đã bố trí sẵn. Tiểu đoàn trưởng
Bùi Trần lệnh cho toàn tiểu đoàn vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Tiểu đội trinh sát, một
mặt cử người ra tiền duyên để bám nắm địch, mặt khác trên đài quan sát phải
thường xuyên theo dõi nắm chắc mọi động thái của địch, kịp thời báo cáo tiểu
đoàn. Ở khu vực này là các bãi cỏ tranh và cây cối lúp xúp nên dễ quan sát. Đến
4 giờ chiều, bộ binh địch bắt đầu tiến vào trận địa ta. Tiểu đoàn trưởng Bùi
Trần lệnh cho các đơn vị phải chờ địch vào giữa quyết chiến điểm mới được nổ
súng. Hiệu lệnh nổ súng là cối, ĐKZ, mìn các loại đồng loạt khai hỏa.
Một không khí yên ắng căng thẳng bao trùm
trận địa. Chúng tôi thường có một linh cảm là, ở chiến trường lúc yên ắng nhất
lại là lúc căng thẳng nhất. Đặc biệt, trước mỗi trận ném bom của máy bay B52,
B57 thì không khí như đặc quánh lại.
Phương án tác chiến đã được thông qua là,
cùng với sự chi viện của hỏa lực, các đại đội dựa chắc vào công sự dùng mìn
định hướng ĐH10, mìn bay và súng bộ binh các loại tập trung bắn vào đội hình
địch. Khi quân địch đã bị thương vong, tiêu hao sinh lực, thì Đại đội 1 và Đại
đội 3 cùng lúc phản công tiêu diệt địch. Đại đội 2, dựa chắc vào công sự, đánh
chặn đường rút của địch ra phía sau. Trường hợp quân địch chọc thủng chốt đánh
chặn của Đại đội 1, Đại đội 3, thì Đại đội 2 tiến hành xuất kích đánh thốc vào
lưng địch. Trường hợp ban ngày không tổ chức phản kích được, chờ đến tối địch
co cụm lại, cho trinh sát bám nắm và thực hành tập kích bằng cả hỏa lực và xung lực.
Lúc này trong hầm chỉ huy có anh Trần,
tiểu đoàn trưởng, anh Đào chính trị viên tiểu đoàn, anh Phan Hà tiểu đoàn phó
và tôi là liên lạc. Tôi thành sợi dây nối liền giữa Sở chỉ huy tiểu đoàn với
các bộ phận tham mưu, chính trị, trinh sát, thông tin, ở các hầm xung quanh.
Đến lúc ấy, vì chưa nổ súng để giữ bí mật, vô tuyến điện vẫn chưa được mở máy,
sợ đài kỹ thuật của địch dò sóng phát hiện được. Điện thoại trong hầm chi huy chốc chốc lại réo lên.
Trinh sát báo về, các đại đội báo cáo lên. Anh Trần chăm chú nghe, vừa nghe vừa
nói lại cho các anh cùng nghe, rồi chỉ thị rành rọt cho từng hướng, từng đơn
vị. Có lúc anh dừng lại trao đổi ý kiến với anh Đào và anh Hà.
Đúng 16 giờ 17 phút, từ các hướng báo
cáo, đội hình quân Mỹ đã vào quyết chiến điểm, anh Trần hạ lệnh nổ súng. Tất cả
hỏa lực cối 82, ĐKZ, giàn mìn bay, mìn định hướng ĐH10, đồng loạt nổ tới tấp
lên đội hình địch. Tiếng cối, tiếng ĐKZ nổ chát chúa, tiếng mìn nổ dậy đất,
tiếng đại liên từng tràng giòn giã cùng tiếng súng bộ binh các loại. Tất cả tạo
nên một âm thanh hỗn tạp liên hồi. Bị đánh bất ngờ, quân Mỹ dạt sang hai bên
chững lại mất mấy phút rồi dùng súng các loại bắn trả quyết liệt. Pháo địch từ
các căn cứ bắn vào Sở chỉ huy tiểu đoàn dồn dập, đã có hầm trúng đạn pháo, có bộ
phận thương vong. Cả khu vực mịt mù khói đạn khét lẹt, cay xè. Đường dây điên
thoại bị dứt nhiều đoạn. Tiểu đội trưởng thông tin Nguyễn Ngọc Chuân quê ở xã
Nghi Ân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và chiến sĩ Nguyễn Văn Thuận quê ở Cẩm
Thủy, Thanh Hóa đi nối dây bị trúng đạn pháo hy sinh. Máy 2 oát liên lạc thông
suốt với các đại đội, nhưng là khẩu lệnh trực tiếp, không dùng mật khẩu nữa.
Cuộc chiến đấu diễn ra được hơn 1 giờ đồng hồ, khi tiếng súng đã thưa dần, anh
Trần yêu cầu các đợn vị báo cáo tình hình.
Về phía ta, đến lúc đó, các đại đội vẫn
bám vào công sự đã bố trí sẵn, dùng các loại súng bắn sát thương quân địch. Cơ
số đạn các loại đã dùng hơn một nửa. Tỷ lệ quân số hao hụt không nhiều, phần
đông số thương vong là do công sự không vững chắc, bị phi pháo công phá dữ dội.
Thương binh, tử sỹ đều phải để tạm trong công sự. Cả ngày chiến đấu, bộ đội ăn
lương khô 702 và uống nước lã., quyết tâm chiến đấu của các đơn vị vẫn được giữ
vững.
Về phía địch, ngay từ loạt đạn phủ đầu
đánh trúng đội hình, quân Mỹ bị thương vong nhiều. Tại khu vực quyết chiến điểm
ngổn ngang xác lính Mỹ. Số quân địch còn lại dạt sang một ngọn đội chếch về
phía Nam co cụm lại, lập công sự, chống trả quyết liệt. Để chi viện cho bộ
binh, máy bay, pháo binh địch liên tục oanh kích vào trận địa ta. Phải thừa
nhận rằng, pháo binh Mỹ triển khai thao tác rất nhanh và có trình độ chính xác rất
cao. Bộ binh ta và bộ binh Mỹ cách nhau cự ly rất ngắn, có chỗ chỉ con suối cạn, thể hiện không rõ trên bản đồ. Vậy
mà pháo địch luôn bắn trúng vào trận địa ta, không rơi quả nào sang đội hình
quân Mỹ. Có thể, do bộ binh Mỹ tại chỗ trực tiếp xác định tọa độ, lấy phần tử
chỉ thị mục tiêu cho pháo binh. Đồng thời, trắc thủ pháo binh ở các căn cứ đã
xử lý thông số kỹ thuật rất kịp thời, chính xác.
Sau khi tổng hợp tình hình chung, đến 18
giờ, Ban Chỉ huy tiểu đoàn báo cáo Trung đoàn và đề nghị cho nắm lại địa
hình, địch tình, để tối đến tổ chức tập kích quân địch đang đứng chân phía
trước trận địa. Trung đoàn biểu dương tinh thần, kết quả chiến đấu của Tiểu
đoàn 7 và đồng ý với đề nghị của tiểu
đoàn.
Đến 18 giờ 15 phút, anh Trần cho gọi anh
Vận đại đội trưởng Đại đội 1, anh Nghiêm đại đội trưởng Đại đội 3 và anh Trường
đại đội trưởng Đại đội 4 lên tiểu đoàn nhận nhiệm vụ. Trước khi các đại đội
trưởng đến, tiểu đoàn trưởng Bùi Trần đã trao đổi thống nhất phương án tác
chiến và nhiệm vụ của các đại đội với chính trị viên Nguyễn Văn Đào và tiểu
đoàn phó Phan Hà. Sau khi nghe anh Sơn tiểu đội trưởng trinh sát báo cáo tình
hình khu vực địch đóng quân ở phía trước, các đại đội bổ sung ý kiến. Tiểu đoàn
trưởng Bùi Trần nói:
- Phương án tác chiến là, đúng 8 giờ tối,
hỏa lực tiểu đoàn tập kích vào trung tâm trận địa địch chừng 10 phút. Sau đó,
bộ binh sẽ chia làm hai mũi tấn công. Mũi chủ yếu đánh vào chính diện do Đại
đội 1 đảm nhiệm. Mũi thứ yếu đánh thọc vào sườn phía đông bắc do Đại đội 3
(thiếu) đảm nhiệm. Tiểu đội trinh sát phải tăng cường bám nắm địch. Từ 7 giờ,
các đại đội chuẩn bị tiếp cận địch, rút ngắn cự ly. Đại đội 4 nhanh chóng xác
định mục tiêu cho cối và ĐKZ lấy phần tử sẵn sàng, có lệnh là nổ súng được
ngay.
Tiếp lời anh Trần, anh Đào chậm rãi nói:
- Thành tích chiến đấu trong ngày của các
đơn vị là tốt. Yêu cầu các đại dội kịp thời động viên anh em. Chú ý làm tốt
công tác chính sách, thực hiện đúng việc thay thế kịp thời cán bộ do bị thương
vong trong chiến đấu. Bất luận trong trường hợp nào cũng phải có người chỉ huy,
lãnh đạo đơn vị.
Sau đó, anh Trần hỏi:
- Có ai ý kiến gì không?
Thấy mọi người nhất trí, anh nói thêm:
- Khi hoàn thành nhiệm vụ, các đơn vị tổ
chức rút quân về khu vực tập kết ở Bình độ 100.
Anh Trần dứt lời, mọi người trở về đơn vị
triển khai ngay các công việc.
Đúng 20 giờ, cối 82 ly, ĐKZ 75 ly của Đại
đội 4 đồng loạt bắn. Cối đặt cách mục tiêu chừng hơn 800 mét bắn cầu vồng. ĐKZ đặt
cách muc tiêu khoảng 300 mét ngắm bắn trực tiếp. Từ trên đài quan sát, trinh
sát báo cáo về, đạn cối và ĐKZ bắn rất chụm, trúng mục tiêu. Hơn 10 phút, anh
Trần hạ lệnh cho Đại đội 1 và Đại đội 3 xuất kích.
Cả hai hướng tấn công súng nổ giòn giã.
Lúc này điện đài 2 oát bảo đảm liên lạc tốt giữa các đại đội và tiểu đoàn.
Sau gần nửa giờ chiến đấu, mũi thứ yếu do
Đại đội 3 đảm nhiệm phát triển thuận lợi, đã đánh chiếm được khoảng một phần ba
trận địa địch. Mũi tấn công chủ yếu của Đại đội 1 gặp khó khăn vì bộ đội phải vượt qua địa hình trống trải một
bãi cỏ tranh đã cháy trụi, bị hỏa lực địch bắn chặn, bộ đội thương vong. Chỉ
mới Trung đội 1 của Đại đội 1 đánh chiếm được phần ngoài trận địa địch. Đôi bên
đang ở thế giẳng co quyết liệt. Anh Trần hội ý nhanh với anh Đào và anh Hà,
quyết định tung trung đội dự bị của tiểu đoàn vào tăng cường cho Đại đội 1 để
nhanh chóng dứt điểm.
Anh Trần nói với tôi:
- Đẩu chạy nhanh đến gặp Hải trung đội
trưởng Trung đội 1, Đại đội 3 truyền đạt mệnh lệnh: Trung đội 1 vào chi viện
cho Đại đội 1. Đồng thời, Đẩu trực tiếp dẫn anh Hải đưa Trung đội 1 vào chiến
đấu, vì Hải chưa thuộc địa hình, sợ bị lạc trong đêm. Khi dẫn Hải gặp được anh
Vận đại đội trưởng Đại đội 1 tại trận địa, thì Đẩu quay về tiểu đoàn ngay, chờ
nhiệm vụ mới.
Anh Trần vừa dứt lời, anh Đào nói luôn:
-
Còn mấy ngày nữa mới tổ chức lễ kết nạp, nhưng hôm nay, với tư cách Bí
thư Đảng ủy tiểu đoàn, tôi chính thức
tuyên bố, từ giờ phút này, đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu trở thành đảng viên.
Anh Đào nói xong, tôi chỉ có một tiếng:
- Dạ !
Tay cầm khẩu AK đạn đã lên nòng, tôi nhảy
phắt ra khỏi hầm lao về Trung đội 1 cách đó hơn 100 mét. Mặc dù đã gần 21 giờ,
nhưng máy bay địch thả pháo sáng, cả trận địa sáng trưng như ban ngày. Trong
khoảnh khắc, tôi gặp và nói rất ngắn với anh Hải:
- Tiểu đoàn ra lệnh cho trung đội anh chi
viện cho Đại đội 1. Anh chỉ huy trung đội theo tôi đi ngay.
Anh Hải không nói gì, cứ thế chúng tôi
chạy một mạch về hướng Đại đội 1. Xung quanh pháo cối địch nổ rất gần, mảnh đạn bay rào rào và đạn thẳng
địch bắn ra chiu chít. Băng qua bãi cỏ tranh đang cháy, vượt lên một đoạn dốc
thoai thoải, chúng tôi lao về Đại đội 1 gặp anh Vận lúc đó đang cách địch
khoảng hơn 50 mét. Khi gặp nhau, anh Vận như đã biết trước, chỉ nói với tôi một
câu:
- Đẩu dẫn trung đội Hải lên rồi à, tốt
quá. Thôi, em quay về tiểu đoàn đi.
Tôi
chỉ kịp cầm tay anh Vận và anh Hải rồi quay lại tiểu đoàn bộ. Sau lưng tôi,
Trung đội 1 Đại đội 3 theo sự chỉ huy của anh Vận và anh Hải lao vào chiến đấu
ngay.
Khi tiếp nhận lực lượng dự bị, anh Vận đã
chỉ huy Trung đội 1 đánh thốc vào trận địa địch. Đại đội 1 và Trung đội 1 (Đại
đội 3) dưới sự chỉ huy của anh đã hoàn thành nhiệm vụ đánh tan quân địch ở
hướng chủ yếu. Nhưng gần đến phút chót, anh Vận hy sinh vì một loạt tiểu liên
cực nhanh của địch. Tại Sở chi huy tiểu đoàn, khi nghe anh Trần thông báo, tôi
đã ngẹn ngào khóc.Tôi không ngờ cái bắt tay lúc tôi quay về tiểu đoàn lại là
thời khắc cuối cùng tôi vĩnh viễn xa anh Vận.
Anh Vận quê ở huyện Yên Thành (hình như ở xã
Vĩnh Thành thì phải), Nghệ An. Tốt nghiệp Sĩ quan Lục quân, anh được bổ sung
vào tiểu đoàn chúng tôi khi còn chiến đấu ở Lào, làm trung đội trưởng thay anh
Lê Đôn Quí. Một thời gian sau, anh lên đại đội phó. Vào chiến trường Miền Nam,
anh được bổ nhiệm đại đội trưởng. Tôi cùng chung sống và chiến đấu với anh từ
khi còn ở Đại đội 2. Anh là người cương trực, chân thành, chiến đấu dũng cảm
lại được học hành cơ bản, nên luôn được cấp trên tin tưởng và anh em trong đơn vị quí trọng.
Anh Lê Hồng Hải, nhập ngũ tháng 4 năm
1963, quê ở xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch. Tỉnh Quảng Bình. Gia đình anh vốn
theo đạo Thiên chúa. Bố anh là ông Lê Văn Hiến, được tuyên dương Anh hùng Lực
lượng vũ trang. Tôi quen thân anh Hải từ khi cả hai chúng tôi còn là liên lạc.
Anh Hải làm liên lạc tiểu đoàn, còn tôi là liên lạc đại đội. Trong trận chiến
đấu ngày 20 tháng 3 năm 1971 ở Cao điểm 550 của Chiến dịch Đường 9- Nam Lào,
anh Hải làm Chính trị viên Tiểu đoàn 9 bộ binh, còn tôi làm Chính trị viên Đại đội 20
đặc công của trung đoàn. Kết thúc chiến tranh, anh Hải làm Chính ủy Trung đoàn
24 - Sư đoàn 304, được cấp trên cử đi học Khóa 1- Học viện Cao cấp. Ra trường,
anh được bổ nhiệm làm Sư đoàn phó-Tham mưu trưởng, rồi Sư đoàn phó Chính trị
Sư đoàn 304 - Quân đoàn 2.
Tháng 8 năm 1978, khi tôi ở Khu tập thể gia
đình quân nhân 1A, Hoàng Văn Thụ, Hà Nội. Lúc đang giặt giũ ở bể nước công
cộng, thấy một người mang quân hàm Trung tá đến chơi nhà anh Vũ Cao, Sư đoàn
trưởng Sư đoàn 341 ở dãy bên cạnh nhìn thấy tôi chạy ra hô toáng lên:
- Ơ!
Đẩu, có phải Đẩu không?
Tôi ngạc nhiên nhìn lại, té ra là anh
Trực –Hoàng Trung Trực quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình,
trước đây cùng ở với tôi một trung đội. Anh Trực nói với tôi rằng, cùng Trung
đoàn ngày đó, có mấy người cùng ra học ở
Học viện Cao cấp. Hôm Thứ 7 tới sẽ rủ nhau lên đây chơi.
Đến tối Thứ 7, sau khi đã cơm nước xong,
tôi nghe có người gõ cửa, mở ra thì là Anh Hải. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau,
ngẹn ngào khóc như hai đứa trẻ.
Anh Hải nói:
- Sợ Trực nhầm với người khác vì trong
đơn vị mọi người nghe tin Đẩu hy sinh trên tuyến chuyển thương từ đầu năm 1971
rồi. Hôm nay lên đây, đề nghị mọi người đứng ngoài chờ, mình vào trước xem thử
có đúng không.
Nói rồi, anh Hải gọi mọi người cùng vào
nhà, chuyện trò ríu rít sau 7 năm trời gặp lại.
Sau khi bị thất bại ở Hồ Khê, Đá Bạc, lực
lượng còn lại của địch rút về Đường 9. Hai ngày sau, từ khu vực tập kết, anh
Trần dẫn chúng tôi gồm mấy anh đại đội trưởng và một số trung đội trưởng và mấy
anh em trinh sát, liên lạc trở lại trận địa xem xét đối chiếu để rút kinh nghiệm.
Cả một vùng bị bom đạn cày xới ngổn ngang, đồ dùng cả hai bên vứt lại bừa bãi,
nhiều nơi lửa còn cháy âm ỉ. Ở giữa sườn đồi, nhiều xác lính Mỹ, cả da trắng và
da đen, bị cháy queo, có thể trúng đạn B40 hoặc đạn ĐKZ, còn nằm vất vướng ở
trận địa. Cách đó không xa, chúng tôi thấy mấy thi thể tử sỹ ta mà khi rút đơn
vị chưa kịp đưa ra. Mặc dù đã bị biến dạng nhiều, nhưng trong số đó, tôi vẫn
nhận ra một số anh, như anh Mai Ngọc Quyến, trung đội trưởng Trung đội 2, Đại
đội 1 quê ở xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Anh Quyến vốn là trinh
sát tiểu đoàn, người cao, trắng, có chiếc răng khểnh. Chúng tôi tổ chức khâm
liệm các anh vào võng rồi chuyển về an táng ở khu vực đã chuẩn bị.
Hoàn thành nhiệm vụ ở khu vực núi Hồ Khê -
Đá Bạc, cả tiểu đoàn lui về khu vực Bình
độ 100, chuẩn bị cho trận chiến đấu tiếp theo. Dự kiến là sau khi bị thất bại,
địch sẽ tiếp tục đưa quân lên với số lượng và qui mô lớn hơn, đánh sâu hơn vào
vùng giải phóng của ta. Toàn tiểu đoàn
tập trung củng cố lực lượng, bổ sung trang bị vũ khí, lương thực, hoàn thiện
phương án tác chiến, xây dựng công sự trận địa,…Đài quan sát của tiểu đoàn đặt
ở cao điểm 88, phía tây làng An Cát Khê, ngày đêm thường xuyên bám sát các động
thái trong khu vực.
Ngày 20 tháng 5 năm 1967 là một ngày trọng
đại trong cuộc đời tôi. 19 tuổi đời, hơn 2 năm tuổi quân, trải qua rèn luyện
thử thách ở chiến trường, tôi vinh dự được kết nạp vào Đảng. Ngày đó, được vào
Đảng là điều thiêng liêng, niềm tự hào đối với thế hệ trẻ chúng tôi.
Lúc 17 giờ, toàn thể chi bộ tiểu đoàn bộ
tập trung ở một khúc suối cạn dưới chân Bình độ 100 để tổ chức lễ kết nạp Đảng
viên mới. Hôm đó kết nạp hai người: tôi và Trần Công Thuận bạn thân của tôi,
quê ở xã Thanh Cát, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, tiểu đội phó trinh sát.
Trước khi buổi lễ bắt đầu, anh Phan Hà tiểu đoàn phó thông báo việc chốt chặn
địch ở các hướng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và xác định các phương
án xử lý. Tiếp đến phần tuyên bố lý do của anh Trần Văn Thuyết trung đội trưởng
thông tin, chi ủy viên, cả chi bộ đứng dậy chào cờ, không hát Quốc tế ca, Lễ
kết nạp bắt đầu. Anh Ngô Đình Nựu chính trị viên phó tiểu đoàn, Bí thư chi bộ,
đọc vắn tắt lý lịch cùng đơn xin vào Đảng của tôi. Mời anh Phan Hà là người
giới thiệu tôi vào đảng đứng dậy phát biểu. Anh nói rất nghiêm túc, ngắn gọn, chân thành:
- Tôi, Phan Hà, phó bí thư chi bộ, tiểu
đoàn phó, quê xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, là người giới thiệu
đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu vào Đảng. Tôi xin bảo đảm về mọi mặt, đồng thời có
trách nhiệm sẽ tiếp tục bồi dưỡng đồng chí Đẩu trở thành người Đảng viên chính
thức.
Tiếp theo là anh Trần Ngọc Lợi, Bí thư
Chi đoàn thanh niên đọc biên bản giới thiệu của chi đoàn. Cuối cùng là lời
tuyên thệ của tôi. Trong giờ phút thiêng liêng, trước cờ Đảng, trước chi bộ, tôi
nắm chặt tay, xúc động ngẹn ngào nói lên lời hứa quyết tâm tự đáy lòng mình.
Tiếp sau phần kết nạp tôi, là kết nạp anh
Trần Công Thuận. Thủ tục vẫn như trước. Người giới thiệu anh Thuận vào Đảng là
Anh Ngô Đình Nựu. Với chất giọng mộc mạc chân quê, anh Nựu nói:
- Tôi, Ngô Đình Nựu, một vợ ba con, quê
xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, Bí thư chi bộ tiểu đoàn bộ,
chính trị viên phó tiểu đoàn, là người giới thiệu đồng chí Trần Công Thuận vào Đảng,….
Buổi lễ kết nạp Đảng tại trận địa diễn ra
khoảng 30 phút nhưng rất trọng thị, nghiêm túc, thực hiện đầy đủ mọi nguyên tắc
thủ tục. Tôi cảm thấy thiêng liêng.
Trên đường về hầm, tôi hỏi anh Nựu:
Trên đường về hầm, tôi hỏi anh Nựu:
- Này anh, có phải hôm đánh địch ở Hồ
Khê, các anh nghĩ rằng, khi dẫn trung đội 1 của anh Hải xuất kích, em có khả
năng hy sinh. Nên trước khi em lên đường, anh Đào chính trị viên tiểu đoàn đã
tuyên bố em chính thức trở thành Đảng viên phải không anh? Mà hôm nay sao lại
phải kết nạp lại?
-
Đúng đấy, trong giờ phút
hiểm nguy mà quang vinh đó, vào sinh ra tử là chuyện khó tránh khỏi, bọn mình
thống nhất là, tuyên bố trước để nếu có hy sinh, cậu cũng đã là người đảng viên
Cộng sản đích thực. Nhưng hôm nay có điều kiện vẫn cứ tiến hành việc kết nạp
cho đúng với nguyên tắc thủ tục. Nếu không, sau này khi xác định Đảng tịch, ngộ
nhỡ có người không hiểu thực tế chiến trường, gây nghi ngại phức tạp ra, không
cần thiết.
Anh Nựu vui vẻ trả lời .
Tôi nói nửa đùa, nửa thật:
- Như thế là, nếu hy sinh, em được vào
Đảng trước 5 ngày so với em còn sống.
Cả hai chúng tôi cùng cười.
Anh Phan Hà về tiểu đoàn chúng tôi từ
tháng 5-1965 giữ chức Tham mưu phó tiểu đoàn rồi lên Tiểu đoàn phó. Sau khi anh
Bùi Trần hy sinh, anh Hà được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng. Quê anh cách quê tôi
khoảng 30 km. Ở chiến trường ngoài tình đồng chí, anh còn coi tôi là đồng
hương. Có điều gì tôi làm chưa tốt, anh thẳng thắn bày dạy đến nơi đến chốn.
Anh sống chân thành, giản dị nhưng lại dí dỏm sâu sắc. Có lần ở hậu cứ tiểu
đoàn tổ chức văn nghệ quần chúng, anh đăng ký một tiết mục. Mọi người tưởng anh
đùa. Nhưng đến lúc anh lên hát bài con
vỏi con voi, cái vòi đi trước, hai chân trước đi trước,… theo cách biểu
diễn của nghệ sỹ Trần Hiếu.Với chất giọng nam trầm, với thể hình thấp đậm, da
đen, đầu húi cua, tai to, mũi to và các động tác minh họa theo lời bài hát của
anh vừa vui vừa ngồ ngộ làm cho chúng tôi được một trận cười no nê.
Trong đợt Tổng tấn công và nổi dậy Mùa
Xuân 1968, anh Phan Hà là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 đánh vào Huế. Trong suốt
hơn 20 ngày dũng mạnh đánh chiếm, kiên cường bám trụ Thành nội Huế, Tiểu đoàn 7
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đầu tháng 3 năm 1968, anh Hà được bổ nhiệm giữ chức Trung đoàn phó. Tháng 7 năm
1969, Đoàn cán bộ của Tiểu đoàn 9 đi địa
hình ở Cốc Muộn tây Thừa Thiên bị trúng bom tọa độ máy bay B57, thương
vong gần hết. Hôm đó anh cùng đi nên đã hy sinh. Đang tập huấn ở Quân khu bộ
Quân khu Trị Thiên Huế, nhận được tin, tôi đau xót vô cùng. Cùng hy sinh một
lần với anh Phan Hà, còn có anh Nguyễn Đăng Loạt, tiểu đoàn trưởng, quê Quảng
Văn, Quảng Trạch, Quảng Bình; Nguyễn Duy Hào, tiểu đoàn phó, quê Thọ Xuân ,
Thanh Hóa và mấy anh em nữa.
Tôi biết anh Ngô Đình Nựu khi anh còn làm
trung đội trưởng trung đội cối 82 ly thuộc Đại đội 4. Làm trung đội trưởng
nhưng anh được tín nhiệm bầu vào Đảng ủy
tiểu đoàn. Thật là hiếm có. Thông thường thì Đảng ủy tiểu đoàn bao gồm: Cán bộ
chủ trì trong Ban chỉ huy tiểu đoàn và các chính trị viên đại đội. Giữa năm
1965, anh lên chính trị viên phó rồi một thời gian ngắn sau được bổ nhiệm chính
trị viên Đại đội 4. Đến khi đơn vị vào chiến đấu ở chiến trường Miền Nam,
anh được bổ nhiệm giữ chức Chính trị phó tiểu đoàn.
Xuất thân từ một gia đình nghèo ở một
vùng quê cũng nghèo, nhập ngũ từ năm 1953, trải qua hoạt động nhiều ở chiến
trường, anh Nựu mang trong mình phẩm chất mộc mạc, giản dị, cần cù, dũng cảm. Ở
anh luôn luôn toát lên tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn. Đặc
biệt là tình nghĩa với đồng đội và ý thức tổ chức kỷ luật, tuyệt đối phục tùng
mệnh lệnh cấp trên. Năm 1973, anh giữ chức Chính ủy trung đoàn được cử ra tập
huấn ở Bộ, nghe tin tôi xây dựng gia đình, anh đến chúc mừng. Năm 1988, anh Nựu
nghỉ hưu. Tháng 8 năm 1992, khi Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị tập huấn ở
Đồ Sơn, tôi gặp anh Quyết, trưởng ban chính sách tỉnh đội Quảng Bình, người
cùng làng với anh Nựu. Biết tin anh ốm nặng, tôi nhờ Quyết chuyển hộ thư thăm
hỏi và một khoản tiền nhỏ để anh thêm vào mua thuốc uống. Cuối năm đó, Quyết kể
với tôi rằng, khi đọc thư và cầm mấy trăm bạc tôi gửi, anh Nựu đã khóc. Hơn một
tháng sau thì anh từ trần ở quê.
Ngày 12 tháng 6 năm 1967, Tiểu đoàn 7 chúng
tôi đánh nhau với quân Mỹ một trận quyết liệt ở chân Bình độ 100. Đến 9 giờ
tối, xét thấy sức chiến đấu của tiểu đoàn đã bị tiêu hao sau hơn một tháng hoạt
động, cấp trên lệnh cho tiểu đoàn rút về phía sau củng cố. Khi tổ chức cho toàn
đợn vị rút ra theo thế cuốn chiếu, đề phòng quân địch đánh tập hậu, tiểu đoàn
giao cho Trung đội 2 Đại đội 3 do anh Đinh Xuân Bài làm trung đội trưởng ở lại
bám trụ trận địa, rút ra sau cùng. Cả tiểu đoàn hành quân độ hơn một tiếng đồng
hồ, khi đã qua suối La La, Đồi Không Tên được khoảng bốn cây số, anh Trần giao tôi trở lại trận địa dẫn trung đội anh
Bài rút ra.
Giữa đêm tối mịt mùng, phía trên đồi là
quân Mỹ, với khẩu AK trong tay, đạn đã lên nòng, hai quả lựu đạn mỏ vịt dắt
lưng, một mình tôi quay trở lại trận địa. Từ khi đơn vị chưa vào cho đến suốt
thời gian hoạt động, chúng tôi đã có nhiều lần đi trinh sát, nên tôi nắm rất chắc địa hình ở
đây. Bám theo đường cũ, từng chặng một tôi quan sát nghe ngóng động tĩnh, rồi
lao đi thật nhanh. Cứ thế, gần một giờ sau tôi đã vào trận địa của trung đội
anh Bài. Trên đường đi tôi sợ gặp địch đã đành, nhưng khi gần sát tới trận địa
ta tôi lại sợ anh em tưởng nhầm là thám báo địch mò vào mà bắn thì nguy hơn.
Bởi thế, tôi chọn cách là bò vào như đi trinh sát đồn địch để tiếp cận vào ngay
hầm anh Bài rồi nhảy tót vào. Trong trường hợp đang tiếp cận mà anh em phát
hiện được nổ súng trước, bị trúng ngay loạt đạn đầu thì đành chịu. Còn nếu chưa
trúng thì tôi sẽ dựa vào một vật che chắn rồi hô toáng lên, chắc chắn anh em sẽ
nhận ra.
Theo kinh nghiệm, tôi cho rẳng, vào ban
đêm nói chung là bắn trượt, trừ phi phát hiện trước từ xa ngắm thật kỹ. May
quá, tôi vào được hầm anh Bài mà không ai biết. Khi nhận ra, anh Bài vừa dang
tay đón tôi vừa nói:
- Trời ơi! Đẩu hở em!
Tôi nói nhanh:
- Anh ơi, cả Tiểu đoàn đã rút về phía sau rồi. Anh Trần nói, anh cho toàn thể trung đội rút ra theo em.
- Trời ơi! Đẩu hở em!
Tôi nói nhanh:
- Anh ơi, cả Tiểu đoàn đã rút về phía sau rồi. Anh Trần nói, anh cho toàn thể trung đội rút ra theo em.
Đến rạng sáng thì chúng tôi về tới hậu cứ tiểu
đoàn. Đang chợp mắt, nghe tin tôi về, anh Trần nhảy phắt dậy ôm choàng lấy tôi
như người cha ôm lấy con trai từ nơi hiểm nguy trở về.
Kết thúc đợt chiến đấu ở khu vực núi Hồ
Khê, Đá Bạc, khi bình xét khen thưởng, tôi được đơn vị đề nghị trên tặng thưởng
Huân chương Chiến công Giải phóng Hạng Ba. Ngày đó, việc bình xét khen thưởng
chặt chẽ, thậm chí khắt khe nữa.
Sau hơn một tháng củng cố, tiểu đoàn trở
lại hoạt động ở làng An Cát Khê và làng Trung An thuộc huyện Gio Linh. Lúc này,
các anh tiểu đoàn điều tôi sang làm tiểu đội trưởng trinh sát thay anh Sơn đi
làm trung đội trưởng bộ binh ở Đại đội 1. Trước khi đơn vị vào xây dựng công
sự, trinh sát chúng tôi đi nắm địch và nghiên cứu địa hình. Đây là vùng sát
đồng bằng, cách Đường 1 không xa. Là vùng giáp ranh giữa ta và địch, nhân dân
đã sơ tán hết. Trong các khu vườn chè, tiêu và rất nhiều cây ăn quả rậm rạp, đã
lâu không có người chăm bón, thu hoạch. Có nhiều quả mít chín thơm lừng, nhiều
buồng chuối chín rục, chúng tôi mang về ăn. Có một lần, tôi đang cắt một buồng
chuối, thì phát hiện ra một tử sĩ của ta nằm bên cạnh một gốc mít. Phần thịt đã
tiêu hết, chỉ còn một bộ xương khô trong bộ quân phục vải Tô Châu. Bên cạnh là
một khẩu AK đã hoen rỉ. Cầm khẩu súng lên thấy băng đạn vẫn còn, khóa súng vẫn
mở, tôi tháo băng đạn, kéo khóa nòng thì viên đạn văng ra. Chứng tỏ, lúc hy
sinh người chiến sĩ vẫn trong tư thế nằm bắn. Mấy anh em đào huyệt an táng
người liệt sỹ vô danh vào giữa vườn chè của dân. Trước đó, ở khu vực này, tháng
7 năm 1966, Trung đoàn 2, Sư đoàn 324 đã đánh nhau rất quyết liệt với quân Mỹ.
Cạnh nhà thờ Trung An vẫn còn một chiếc trực thăng H34 bị bắn cháy khi đổ quân,
nằm chỏng chơ.
Ngoài việc nghiên cứu địa hình tại khu
vực, chúng tôi còn phải đi trinh sát nắm tình hình địch trong phạm vi xa hơn.
Sang tận các làng Nam Đông, Nam Dương, dọc theo trục Đường 74, ra gần sông Hiền
Lương. Ở các vùng ven đó, để bảo vệ cứ điểm Cồn Tiên và Dốc Miếu, cả quân Mỹ và
quân ngụy tăng cường hoạt động. Cùng với chủ lực địch, lực lượng bảo an dân vệ
cũng ngày đêm bố phòng canh gác.
Tôi nhớ có lần tôi và hai người nữa là
Thiên và Hồi vào làng Nam Dương nắm địch. Đã khuya, trời sáng trăng, chúng tôi
đang tiếp cận vào một cái chốt của dân vệ, thì nghe trong đó nói vọng ra the
thé một giọng con gái còn trẻ:
- Chà!
Trăng sáng quá hỉ. Khẩu súng mới toanh thế ni. Bây chừ mà gặp mấy thằng
Việt Cộng bắn thử, nghe ngon dữ hè.
Tôi biết, để lấy tinh thần cho nhau,
chúng chỉ nói bâng quơ, tình cờ chúng tôi nghe được. Nhưng điều đó chứng tỏ sự
đối kháng một mất một còn trong chiến tranh là không thể mơ hồ. Khi đã lùi ra
ngoài cánh đồng, Thiên còn tức tối nói với tôi:
- Tiên sư nó, hôm nay không vì đi trinh sát, ta vào đó xả cho bọn chúng
một trận nên thân.
Ngày 10 tháng 8 năm 1967, tiểu đoàn chúng
tôi chặn đánh quân địch hành quân từ Nam Đông ra khu vực Miếu Bái Sơn. Lần này
chúng dùng xe tăng làm mũi đột kích chủ yếu. Đại đội 2 đánh chặn ở khu vực làng
Trung An, Đại đội 3 đánh chặn địch ở phía đông làng An Cát Khê. Khi địch đưa 2
xe tăng lên trước, Trung đội 2 Đại đội 2 dùng B40 bắn cháy tại chỗ 1 xe tăng.
Chiếc còn lại dùng pháo trên xe bắn phá dữ dội. Đặc biệt là, lần này trên xe
tăng có trang bị súng phun lửa. Từng quầng lửa lớn nóng rực, phun cháy cả mấy
bụi tre và cả vườn chè cháy trụi. Lần đầu tiếp xúc với vũ khí mới của Mỹ, bộ
đội ta có người cũng hoảng. Anh Trần hét lên qua điện thoại:
- Các anh em đừng sợ, cứ bám chắc vào
công sự, nó phun kệ nó, chờ nó tới gần dùng B40 tiêu diệt.
Anh dặn thêm:
- Cử ra hai người thoát ra khỏi công sự,
một AK yểm trợ và một B40 cơ động vòng ra ngoài đến gần bắn vào bên sườn xe
tăng.
Mấy phút sau, một tiếng nổ rất to, một
cột khói bốc lên cao, chiếc xe tăng còn lại bị trúng đạn B40, đạn trong xe cũng
đã nổ theo. Quân địch lùi về phía sau. Máy bay các loại và pháo địch dồn dập
bắn vào trận địa tiểu đoàn. Đang ngồi cảnh giới trên miệng hầm chỉ huy, Nguyễn
Văn Tự chiến sĩ liên lạc bị một quả pháo nổ rất gần mảnh pháo cắt cụt cẳng chân
trái, máu ra xối xả. Chúng tôi ôm Tự đưa xuống hầm, nhanh chóng băng ga rô cầm
máu. Tự quê ở thôn Tự Nhiên xã Hoằng Trung, huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa, bổ
sung vào đơn vị từ tháng 6 năm 1966.
Chiều hôm đó, mấy lần liền, với chiến
thuật dùng phi pháo bắn phá dọn đường, dọn bãi, sau đó bộ binh Mỹ tiếp tục tấn
công vào trận địa ta. Mặc dù bị thương vong mất một số, nhưng cả tiểu đoàn
chúng tôi vẫn kiên cường, đánh bật nhiều đợt tấn công của quân Mỹ. Đến chiều
tối, tôi gặp anh Cao Sĩ Tính và mấy cán bộ của đại đội đặc công trung đoàn. Vốn
là tiểu đội phó của tôi hồi ở Lào, bây giờ anh Tính đã là mũi trưởng đặc công.
Sau khi hỏi tôi về địa hình, địch tình, anh Tính nói vói tôi là, trung đoàn
giao cho đại đội đặc công ra đây nghiên cứu để tối nay tổ chức tập kích quân
địch đang dừng chân ở phía trước Tiểu đoàn 7.
Đến 8 giờ tối, trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 7
chúng tôi bàn giao trận địa cho đại đội đặc công, di chuyển toàn bộ đội hình về
khu vực Miếu Bái Sơn, ở chân cao điểm
88. Nơi đó công sự trận địa đã có sẵn, chỉ cần gia cố thêm, cả tiểu đoàn gấp
rút chuẩn bị đánh địch trong ngày mai.
Đường từ Trung An, An Cát Khê về cao điểm
88 bị pháo địch bắn phá dữ dội. Để tránh thương vong do phi pháo địch bắn chặn
đường, tôi đề nghị với anh Trần cho tiểu đội trinh sát dẫn bộ đội hành quân cắt
góc phương vị về hướng bắc chừng 2 tiếng đồng hồ rồi mới quặt về hướng tây vào
trận địa ở cao điểm 88 trước khi trời sáng. Anh Trần đồng ý. Mở bản đồ ra, đặt
địa bàn, chúng tôi lấy góc phương vị và bắt đầu hành quân. Các tử sĩ hy sinh
trong ngày đều đã được an táng vào khu vực bố trí sẵn ở làng Trung An. Còn
thương binh nặng thì cáng đi cùng bộ đội. Chúng tôi hành quân trong đêm tối mịt
mùng. Bỏ lại phía sau làng Trung An và làng An Cát Khê nghi ngút khói lửa dưới
ánh đèn dù pháo sáng máy bay Mỹ thả. Phía xa trên khu giáp ranh, pháo địch vẫn
bắn liên hồi. Khoảng 5 giờ sáng chúng tôi về đến trận địa mới. Mọi người bắt
tay vào củng cố công sự, nấu cơm ăn.
Khoảng hơn 10 giờ, tôi thấy anh Ma Vĩnh
Lan trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Cảnh chính ủy trung đoàn, anh Nguyễn Hoán
tham mưu trưởng trung đoàn đều có mặt ở Sở chi huy tiểu đoàn. Hầm chỉ huy sở
khá rộng. Ngồi trong hầm có các anh Bùi Trần, Nguyễn Văn Đào, ba anh thủ trưởng
trung đoàn. Anh Trần ngồi ở chính giữa
ngoảnh mặt ra cửa hầm. Cạnh đó là anh Đào chính trị viên. Các anh khác
ngồi hai bên. Còn tôi ngồi cảnh giới ở cửa hầm. Sau khi nghe anh Trần báo cáo,
anh Lan mở bản đồ, cầm bút chì vừa nói vừa chỉ. Mắt quan sát bên ngoài nhưng
tai tôi vẫn nghe ngóng bên trong. Chẳng phải tò mò mà vì công việc đòi hỏi biết
được các hoạt động có liên quan. Anh Lan nói:
- Tối qua đại đội đặc công tập kích địch
co cụm ở Trung An, đạt kết quả tốt. Rạng sáng nay, sau khi đã hoàn thành nhiệm
vụ, đại đội đặc công đã rút về phía sau. Đồng thời, sáng nay, ĐKB (hỏa tiễn)
của Mặt trận sẽ tập kích địch ở Nam Đông , Nam
Dương, Trung An. Cấp trên chỉ thị đưa Tiểu đoàn 7 về đây để tiếp tục
đánh chặn địch vào hôm nay. Yêu cầu tiểu đoàn cho các đơn vị vào trạng thái
chiến đấu ngay.
Chấp hành chỉ thị của anh Lan, anh Trần
điện cho các đại đội tăng cường cảnh giới, nắm địch, chuẩn bị chiến đấu. Khoảng
hơn một giờ chiều, đài quan sát báo về, địch bắt đầu chuyển quân lên Miếu Bái Sơn.
Anh Trần điện cho anh Sơn, lúc này đang là đại đội phó, quyền đại đội trưởng
Đại đội 1, chú ý theo dõi địch sẵn sàng nổ súng. Chừng nửa tiếng sau, súng nổ
dồn dập ở hướng Đại đội 1. Điện thoại reo, anh Trần nghe anh Sơn báo cáo tình
hình. Anh thông báo lại với cả hầm cùng nghe là, Đại đội 1 đã dùng mìn định
hướng và các loại hỏa lực sát thương, chặn đứng và đánh lùi địch xuống chân cao
điểm. Anh Trần chỉ thị đại đội tranh thủ củng cố lại công sự, tăng cường quan
sát, không để bị bất ngờ.
Mấy phút sau, một tốp máy bay Mỹ oanh tạc
ngay vào khu vực Sở chi huy tiểu đoàn. Nhiều quả bom nổ rất gần. Có cả bom đào
và bom sát thương. Bom đào nghe tiếng nổ trầm đục không to, chỉ thấy đánh ục
một cái, rồi cả căn hầm lắc lư, chao đảo, xiêu vẹo. Bom sát thương mảnh bay rào
rào trên mặt đất, cây cối bị phạt đổ ngổn ngang.
Anh Trần nhắc:
- Sau mỗi loạt bom, các bộ phận nhớ liên
lạc với nhau ngay, nhỡ có hầm nào trúng bom bị sập, còn kịp thời đào bới, cứu anh em khỏi bị chết
ngạt.
Khoảng nửa tiếng sau, Anh Trần quay lại
nói với tôi:
- Thôi, Đẩu về bên hầm tranh thủ nghỉ đi một chút. Mấy đêm thức trắng
rồi, còn để sức tối nay nữa. Cho cậu nào sang trực thay cũng được.
Nhảy ra khỏi hầm chỉ huy, chạy về hầm trinh sát cạnh đó, tôi gọi Thiên
sang thay. Khi Thiên đi, tôi dặn:
- Chú ý thường xuyên cảnh giới và giữ
liên lạc với các bộ phận.
Nguyễn Ngọc Thiên chiến sĩ trinh sát, đẹp
trai, khỏe mạnh, hơn tôi hai tuổi, quê ở làng Khương Hà, xã Hưng Trạch, huyện
Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Máy bay oanh tạc chừng 10 phút, thì pháo địch
bắn tới tấp vào khu vực Đại đội 1 và Sở chỉ huy tiểu đoàn. Thực ra, ở trận địa
bị pháo bắn còn căng thẳng hơn bị máy bay oanh tạc. Liên tục, dai dẳng cứ như
người ta đánh đáo vậy. Chẳng biết có quả nào trúng hầm mình không. Thôi thì
phải chấp nhận sự may rủi.
Đang miên man, thì có một quả pháo nổ
ngay cạnh hầm tôi, phía trước hầm chỉ huy. Chợt nghe tiếng kêu từ phía hầm chỉ
huy, tôi nhảy ra khỏi hầm, giữa mịt mù khói đạn cay xè, khét lẹt. Tới cửa hầm,
tôi thấy xác Thiên nằm sõng soài, đầu vỡ toác, máu lênh láng. Lao vào trong
hầm, tôi thấy anh Trần đã gục xuống tấm bản đồ. Ngực, lưng anh và cả tấm bản đồ
ướt đẫm máu. Cạnh đó, anh Lan, anh Cảnh,
anh Đào đang lả đi vì bị sức ép, bị ngạt.
Quả đạn pháo nổ sát miệng hầm, một mảnh
pháo cắt ngang phần nửa trên đầu Thiên xuyên thẳng tới ngực anh Trần, chắc
trúng tim. Tôi chạy sang báo cáo với anh Phan Hà, Tiểu đoàn phó và anh Ngô Đình
Nựu, Chính trị viên phó ở một hầm cách đó chừng 20 mét. Hai anh chạy sang. Anh
Hà yêu cầu chúng tôi lấy võng bọc thi thể anh Trần và Thiên lại để dưới miệng
hầm, rồi anh ngồi vào vị trí chỉ huy.
Hết đợt pháo kích, quân địch tấn công vào
toàn bộ trận địa tiểu đoàn. Anh Hà chỉ thị, bằng mọi giá, các đại đội phải tập
trung giữ bằng được trận địa. Mười phút sau, Đại đội 1 báo cáo, anh Sơn đại đội
phó và anh Túng trung đội trưởng bị hy sinh khi chỉ huy bộ đội phản kích ở phía
nam Cao điểm 88. Ở hướng Đại đội 2 và hướng Đại đội 3 đều chặn đứng, đánh lui
được nhiều đợt tấn công của quân địch, giữ vững trận địa. Nhưng, thực tế là,
qua mấy ngày chiến đấu, bộ đội ta thương vong với một số lượng tương đối lớn.
Trong số bị thương vong, một phần bị phi pháo và nhiều hơn là trong tác
chiến với bộ binh địch. Anh Sơn quê ở
làng Tượng Sơn, xã Quảng Long, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Anh Túng quê
ở gần Hoàn Lão, xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Đến 8 giờ tối, sau khi trao đổi với anh
Cảnh chính ủy, Anh Lan trung đoàn trưởng
lệnh cho Tiểu đoàn 7 tổ chức lui quân về phía tây. Sau khi an táng Thiên tại chỗ,
chúng tôi dùng cáng đưa thi thể anh Trần cùng hành quân với đơn vị. Khi đã qua
suối La La, chúng tôi an táng anh Trần ở chân Đồi Không Tên.
Trong chiến đấu, tôi đã nhiều lần vĩnh
biệt đồng chí, đồng đội, nhưng việc anh Trần hy sinh là điều đau xót nhất đối
với tôi. Anh vừa là thủ trưởng trực tiếp, vừa như người anh vô cùng thân thiết
trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là những lúc hiểm nguy. Tôi được nhiều lần đi
trinh sát nắm địch cùng anh Trần. Có lần khi đi trinh sát ở Đường 9 mạn gần Cam
Lộ, tối dừng lại ở chân Cao điềm 35 cạnh
làng Tân Kim, tôi và anh ngủ trong một cái hầm cũ. Đây là vùng địch kiểm soát,
thám báo Mỹ vẫn thường xuyên lùng sục. Trước khi đi nằm, hai anh em kéo cành
cây khô làm hàng rào chắn, ít nhất là tạo ra tiếng động khi có người đi qua.
Chưa yên tâm, đến khuya anh nói tôi dậy
lấy 4 quả lựu đạn cài 4 phía, cách hầm chừng hơn chục mét.
Cài lựu đạn giống như cài mìn. Khi cài
không ngại. Ngại nhất là khi gỡ. Chỉ cần sơ suất một chút là chết người. Sáng
tinh sương, anh bảo tôi dậy cùng gỡ lựu đạn để đi tiếp. Tôi bảo anh cứ ngồi
trong hầm, nếu có sự cố gì, mình em chịu. Trong sinh hoạt, anh luôn coi tôi
như đứa em út.
Quê anh ở xóm Sỏi, xã Vạn Ninh, huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Trên đường hành quân vào B, anh đưa tôi tạt về
nhà. Ngày đó bà cụ Trực mẹ anh vẫn còn. Chị Thuyết vợ anh là cán bộ phụ nữ tỉnh
Quảng Bình. Anh chị có hai con. Cháu Yên sinh sau khi hòa bình lập lại ở Miền
Bắc. Cháu Chiến là kết quả của lần anh tạt về tranh thủ trước khi đi chiến đấu
ở Lào, năm 1965. Cuối năm 1967, Trung đoàn cho tôi và anh Ngô Trí Thướng,
Trưởng tiểu ban quân lực chuyển di vật anh về gia đình. Chị Thuyết đã ôm lấy
tôi khóc gào thảm thiết. Lúc đó cháu Yên, cháu Chiến còn nhỏ, ngơ ngác chưa
biết gì.
28 năm sau, năm 1995, tôi vào công tác ở
Đồng Hới. Khi đang ngồi làm việc với anh Cao Lương Bằng, Thiếu tướng, Tỉnh đội
trưởng Quảng Bình, thấy một người đi ngang trước cửa phòng. Nhìn thoáng qua tôi
thấy rất quen mà không nhớ nổi là ai. Tôi liền hỏi anh Bằng, đó là ai. Anh Bằng
nói là lái xe của anh ấy. Tôi nghĩ chắc mình nhầm với ai đó. Thiên hạ thiếu gì
người giống nhau.
Trưa ăn cơm xong, như có điều linh tính
mách bảo, tôi tìm người lái xe hỏi:
- Này, cậu quê ở đâu?
Cậu lái xe trả lời:
- Quê em ở huyện Quảng Ninh, xã Vạn Ninh.
Tôi hỏi dồn:
- Có biết nhà ông Bùi Trần con cụ Trực
không?
Cậu ta giật mình trả lời:
- Ôi! Em là con ông Trần đây, sao Thủ
trưởng lại biết nhà em.
Tôi thảng thốt:
- Ơ! cháu là Chiến à?! Trời ơi, hèn chi
cháu giống bố thế. Gần 30 năm trước chú là liên lạc của bố cháu. Ngày đó, bố
cháu trạc tuổi cháu bây giờ thôi.
Mọi người đều quay lại nhìn chúng tôi.
Anh Bằng nói:
- Anh Đẩu nói đúng đấy. Chiến giống bố nó
lắm. Tôi nghe bà Thuyết, mẹ Chiến nói lại, có lần một bà cô đến nhà chơi đã
mắng Chiến, cớ làm sao mà cháu dám đặt ảnh của mình lên bàn thờ ông bà tổ tiên
vậy? Chiến phải nói ngay rằng, cô ơi, đó
là di ảnh của bố cháu đấy chứ. Bà cô ngẩn người nhìn lại, chà, bố con cháu
giống nhau như hai giọt nước.
Chiều hôm đó, Chiến đưa tôi về thăm nhà.
Bà cụ Trực đã mất, chị Thuyết đã già đi nhiều, nhưng vẫn nhận ra tôi sau nhiều
năm xa cách.
Tháng 10 năm 1967, sau đợt hoạt động dài ngày
ở chiến trường Bắc Đường 9, cấp trên điều Trung đoàn chúng tôi ra Miền Bắc củng
cố. Bắt đầu xuất phát từ một khu rừng ở mạn
phía tây bắc huyện Gio Linh, Tiểu đoàn 7 hành quân vượt qua Bến Tắt –
gần Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn bây giờ. Mấy ngày sau toàn đơn vị về đóng quân ở khu rừng già phía tây
huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình, cách Khương Hà khoảng 5 cây số. Qua một con
sông hình như sông Son thì phải. Tiểu đoàn 7 đóng quân cách Trung đoàn bộ hơn 3
cây số. Tiếng là về hậu phương củng cố nhưng cả đơn vị vẫn đóng quân trong các
khu rừng già, cách động Phong Nha không xa. Cả tiểu đoàn được bổ sung quân số,
trang bị, xây dựng thao trường huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật. Ban chỉ huy
Tiểu đoàn lúc này có sự thay đổi. Anh Phan Hà được bổ nhiệm làm tiểu đoàn
tưởng. Anh Nguyễn Văn Đào được cấp trên điều đi đơn vị khác. Sau này tôi mới
biết là anh Đào vào Tây Nguyên. Anh Ngô Đình Nựu làm chính trị viên tiểu đoàn.
Anh Tăng Văn Miêu quê ở Thái Thụy, Thái Bình, đại đội trưởng Đại đội 4 được bổ
nhiệm làm tiểu đoàn phó. Anh Nguyễn Thái quê ở Nho Quan, Ninh Bình, chính trị
viên Đại đội 3 được bổ nhiệm làm chính
trị viên phó tiểu đoàn. Thời kỳ này máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá ác
liệt trên trục đường 15 từ Hoàn Lão lên phà Xuân Sơn, sang tận Lào. Có lần tiểu
đoàn giao cho các đại đội cử người ra Khương Hà nhận lương thực, bị bom bi Mỹ
rải dọc đường và bến sông hy sinh mất mấy anh em.
Ngày 15 tháng 12 năm 1967, anh Nguyễn
Hoán tham mưu trưởng trung đoàn về làm việc với Tiểu đoàn 7. Gặp tôi, anh nói:
- Sắp tới vào Miền Nam sẽ đánh
lớn, mình về trung đoàn bàn với các anh sẽ điều cậu lên Ban Tham mưu trung
đoàn.
Tôi chẳng biết nói gì. Mấy ngày sau có quyết
định điều tôi lên trung đoàn làm trợ lý trong Tiểu ban quân lực. Tôi chia tay
với anh em trong tiểu đội liên lạc, tiểu đội trinh sát là hai nơi tôi đã gắn bó
trong suốt mấy năm ở chiến tường. Các anh: Phan Hà, Ngô Đình Nựu, Nguyễn Thái,
Tăng Văn Miêu trong Ban chỉ huy Tiểu đoàn dặn tôi như vậy là em được cấp trên
tin tưởng giao nhiệm vụ mới. Em phải nỗ lực phấn đấu để xứng danh là lính Tiểu
đoàn 929, xứng đáng với lòng mong mỏi của các anh. Chia tay các anh giống như
chia tay những người ruột thịt, ngày ra đi tôi đã khóc.
Sau này tôi được biết, khi ở chiến trường
ra, tại buổi làm việc với Tiểu ban cán bộ Trung đoàn, khi nói đến tôi, trong
Ban chỉ huy tiểu đoàn có hai ý kiến khác nhau. Người thì đề nghị cho tôi đi học
Trường Sĩ quan Lục quân vì có chỉ tiêu của trên mà tôi lại cũng đủ tiêu chuẩn.
Người thì đề nghị giữ tôi lại để bồi dưỡng thành cán bộ của đơn vị, như thế
nhanh hơn. Khi biết được tình hình đó, anh Hoán đòi đưa lên cơ quan Trung đoàn.
Anh Nguyễn Hoán là Tiểu đoàn trưởng của
chúng tôi hồi còn chiến đấu ở Lào. Anh vốn xuất thân con nhà giàu, được học
hành đầy đủ từ nhỏ. Năm 1945 vào bộ đội, năm 1946 vì đã có bằng thành chung (
tốt nghiệp phổ thông trung học ) anh được chọn đi học Trường Võ bị Trần Quốc
Tuấn. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp anh giữ chức tiểu đoàn trưởng rồi tham
mưu phó trung đoàn. Trong đợt phong quân hàm đầu tiên, năm 1958, anh được trao
cấp bậc đại úy. Thuở đó như vậy là to rồi. Nhưng vì là con địa chủ, có thể do
tư tưởng thành phần chủ nghĩa của một số người chi phối công tác cán bộ trong
một thời kỳ dài, đường công danh của anh không suôn sẻ. Từ tham mưu phó trung
đoàn anh lại trở lại giữ chức tiểu đoàn trưởng.
Anh Hoán là con người vừa có tài, vừa có
tâm. Trong chỉ huy chiến đấu anh là người mưu lược, dũng cảm, quyết đoán. Còn
trong cư xử với mọi người, từ cấp dưới đến cấp trên, anh là người chân thành,
lịch lãm. Anh sống khiêm nhường. Đó là sự khiêm nhường có ý thức của người thường xuyên
tự ti, mặc cảm, cố ý rèn luyện mình.
Có
lần hành quân ở Đèo 1001, tôi thấy anh dừng lại vác hộ khẩu trung liên của một
chiến sĩ bị lên cơn sốt. Chúng tôi thật sự cảm phục một trung đoàn phó lưng đeo
súng ngắn K59, vai vác khẩu trung liên, mặt đỏ au, mồ hôi nhễ nhại, vững bước đi giữa đoàn quân ra trận. Hành
động đó có ý nghĩa hơn cả những lời thuyết giáo dài dòng, sáo mòn, trống rỗng.
Nhiều khi vào các khu vực quân Mỹ mới rút, đồ hộp, dụng cụ và giấy tờ vứt lại
ngổn ngang, chúng tôi mù tịt chẳng biết gì, anh Hoán cầm đọc từng loại bằng
tiếng Anh và bày cho chúng tôi, nhất là khai thác khoản đồ hộp của Mỹ.
Dáng người anh Hoán cao to, quắc thước, râu quai nón, đôi mắt
sáng, đầu húi cua. Trình độ công tác tham mưu của anh rất giỏi. Cách ra chỉ thị
bằng khẩu lệnh hoặc viết điện của anh luôn luôn chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu.
Theo anh, sự chính xác, ngắn gọn và dễ hiểu trong mệnh lệnh của cấp trên là
điều kiện thuận lợi đầu tiên cho cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Cùng sống với
anh, cả trong chiến đấu cũng như trong sinh hoạt, chúng tôi được học nhiều
điều.
Ngày 25 tháng 12 năm 1967, tôi có mặt
nhận nhiệm vụ ở Ban Tham mưu trung đoàn. Ban Tham mưu Trung đoàn có Tham mưu
trưởng và các tiểu ban: Tác chiến, Trinh sát, Thông tin, Công binh, Pháo binh,
Quân lực, Cơ yếu. Anh Hoán tham mưu
trưởng dẫn tôi sang giao cho anh Ngô Trí Thướng trưởng Tiểu ban Quân lực. Tiểu
ban Quân lực lúc đó có 5 người. Anh Thướng trưởng tiểu ban và 4 trợ lý: anh
Nguyễn Thanh Chương quê Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh, trợ lý quân số; anh Lê Văn Xảo quê
Thọ Xuân- Thanh Hóa, trợ lý trang bị; anh
Phí Văn Mao quê Lập Thạch – Phú Thọ, trợ lý chính sách. Anh Thướng biết
tôi từ trước. Các anh khác tôi mới gặp lần đầu. Anh Thướng giao cho tôi trước
mắt cứ tìm hiểu công việc chung của cơ quan, rồi sẽ phân công công việc cụ thể
sau.
Cơ quan tham mưu lúc bấy giờ toàn những
người hơn tuổi tôi. Các anh lãnh đạo đều là bộ đội từ hồi chống Pháp. Các anh
trợ lý cũng đều là lớp trên tôi. Cả cơ quan chỉ có Trương Tấn Phượng hơn tôi
hai tuổi, mới được điều từ Đại đội 12 ly 7 lên làm trợ lý bảo mật. Hai “tân
binh” trở thành đầu sai của cơ quan trong các công việc đòi hỏi đến sức khỏe.
Phượng trầm tĩnh, cẩn thận, chắc chắn bù lại tôi tháo vát, nhanh nhẹn, xông
xáo. Bởi thế, tôi và Phượng thân nhau ngay từ những ngày đầu gặp gỡ. Phượng quê
ở làng Quảng Cư, xã Xuân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, đang học dở lớp
9 năm 1965 thì đi bộ đội.
Tôi lên Trung đoàn được 3 ngày thì cả đơn
vị bắt đầu hành quân đi chiến đấu. Lần này, Trung đoàn không trở lại chiến
trường Đường 9 mà hành quân vào sâu hơn. Lệnh của trên là cả Trung đoàn phải
hành quân cấp tốc. Tôi nhớ hôm vượt qua phà Long Đại. Ở đây có qui định các đơn
vị chỉ được qua phà lúc trời đã tối hẳn, đề phòng lộ bến máy bay Mỹ phát hiện
oanh tạc. Đơn vị đi đầu của Trung đoàn đến bến lúc 4 giờ chiều. Anh trưởng bến
phà, nói giọng Khu 5 rất gay gắt, dứt khoát không cho qua. Anh ấy nói:
- Việc qua phà ban ngày là vi phạm kỷ
luật chiến trường. Ai muốn qua, phải bước qua xác tôi.
Căng quá. Thậm chí đưa cả điện khẩn tối
mật của cấp cao nhất cho anh ấy đọc và nói thế nào cũng không được. Các anh chỉ
huy Trung đoàn đang lúng túng chưa biết tính sao, thì anh Lê Văn Dánh, Phó Chính ủy Trung đoàn nói:
- Lúc này mệnh lệnh hành quân chiến đấu
là trên hết, chậm trễ thì không hoàn thành nhiệm vụ. Thuyết phục không được,
phải cưỡng bức.
Nói rồi, Anh Dánh giao cho mấy anh em
trinh sát giữ chặt anh Trưởng bến phà lại. Chờ đến khi cả Trung đoàn qua sông
xong thì thả ra. Đó là cách làm lưỡng tiện. Trung đoàn chúng tôi kịp hành quân
theo mệnh lệnh của trên. Mà chỉ huy bến phà cũng không vi phạm qui định.
Cả
trung đoàn vượt Đèo 1001, Dốc Chè. Sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, khi vượt Sông Bồ
đi về Hương Trà-Thừa Thiên, qua Đài Phát thanh được nghe Thơ Chúc tết của Bác
Hồ:
”Xuân
này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng
trận tin vui khắp nước nhà
Nam
Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến
lên!Toàn thắng ắt về ta”.
Từng đoàn quân trên đường ra trận khí thế
ngất trời. Chúng tôi mừng vô cùng. Bầu không khí rầm rập, rạo rực bao trùm cả
đội hình hành quân. Lúc này hình như không còn giữ bí mật nữa. Cả đoàn quân đi
náo nức, oai hùng. Mấy anh cán bộ mang đài bán dẫn mở hết cỡ. Đài Tiếng nói
Việt Nam
và Đài Phát thanh giải phóng liên tục đưa tin thắng trận ở thành phố Huế, Sài
gòn và trên khắp chiến trường. Cả Miền Nam bắt đầu cuộc Tổng Tấn công và
nổi dậy đồng loạt. Chúng tôi như bay, như nhảy trên đường hành quân. Trung đoàn
29 chúng tôi được giao nhiệm vụ vào tham gia chiến đấu ở Huế. Các trung đoàn
lúc đó đều gọi là Đoàn (Quân khu Trị Thiên Huế có các Đoàn 4,5,6,8,9). Trung
đoàn 29 đổi tên là Đoàn 8. ( Đến đầu năm 1969, khi vào đội hình của Sư đoàn 324
thì Đoàn 8 lại đổi là Trung đoàn 3).
Chiều tối Mồng Một Tết hành quân qua ngã
ba Hương Trà, xuống Miếu Ông Ầm, các tiểu đoàn rẽ đi các hướng theo nhiệm vụ
chiến đấu được giao. Tiểu đoàn 7 đánh vào Thành nội, chợ Đông Ba. Tiểu đoàn 9
đánh vào Cửa Chánh Tây, An Hòa. Tiểu đoàn 8 đánh ở ngoại thành Huế, vùng La
Chữ, Quế Chữ. Ngày Mồng Hai Tết, các đơn vị bước vào tham chiến với cả quân Mỹ
và quân Ngụy. Trời mưa phùn gió lạnh.
Tiểu ban Quân lực lúc này chia làm hai bộ
phận. Anh Thướng, anh Xảo, anh Mao đi cùng Ban Tham mưu Trung đoàn. Anh Chương
và tôi được bố trí ở Hương Trà có nhiệm vụ tiếp nhận quân và vũ khí đạn dược bổ
sung đưa lên phía trước ; đồng thời thu dung thương binh, phân luồng đi chữa
trị ở các Bệnh viện dã chiến.
Cả thời kỳ chiến đấu ở Huế, trung đoàn
tôi được bổ sung tám đợt tân binh. Ban
Tham mưu Trung đoàn phân phối quân số bổ sung cho các đơn vị tùy thuộc vào hai
yếu tố: Số lượng thương vong trong chiến đấu và nhiệm vụ được giao của từng đơn
vị, nhất là các đơn vị đang trực tiếp chiến đấu. Có anh em bổ sung vào đơn vị
lúc chập tối, chưa biết phiên hiệu đơn vị, thậm chí chưa biết mặt, biết tên thủ
trưởng trực tiếp, cứ thế bước vào chiến đấu. Đến đêm có người hy sinh, có người
bị thương, cán bộ cơ sở không nắm được cụ thể. Bộ đội chiến đấu bị thương ở các
hướng đưa về phía sau cũng nhiều loại, nhiều kiểu. Thương binh nặng thì cáng
lên viện ở phía sau xa hơn. Thương binh vừa và thương binh nhẹ thì bố trí đến
các đội điều trị hoặc các viện dã chiến. Phần đông thương binh vừa và thương binh nhẹ, trừ trường hợp bị thương vào
chân, đều tự đi đến cơ sở điều trị.
Trong chiến đấu nhiều đồng chí có quyết
tâm cao. Bị thương nặng coi như bị thương nhẹ. Bị thương nhẹ coi như không bị
thương. Tiếp tục ở lại cùng chiến đấu với đơn vị. Nhưng cũng có trường hợp, tuy
không nhiều, mượn cớ bị thương để lùi về phía sau. Có trường hợp rất cá biệt,
dùng súng tự thương để rời khỏi chiến trường, thoái thác nhiệm vụ.
Bằng thực tiễn đó, mấy chục năm sau, khi đã là
Cục trưởng Cục Chính sách, tôi càng hiểu hơn, thông cảm hơn một tình hình là
tại sao trong chiến đấu việc quản lý quân số hy sinh, bị thương của các đơn vị
ở chiến trường khó khăn đến thế. Những tồn đọng về chính sách nhiều năm sau
chiến tranh chưa giải quyết xong do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân chủ quan
do trách nhiệm và khả năng, nhưng có những nguyên nhân khách quan trong chiến
đấu ở chiến trường là bất khả kháng.
Từ chỗ đóng quân trên đất Hương Trà,
theo sự phân công của anh Thướng, tôi đến các đơn vị để nắm tình hình thực lực
quân số, trang bị. Đến các đội điều trị, các viện dã chiến để nắm số lượng và
danh sách quân nhân bị thương. Hồi đó, tôi được anh Thướng giao cho một tập
giấy khống chỉ chứng nhận bị thương đã ký tên anh Nguyến Hoán tham mưu trưởng Trung đoàn và đóng dấu sẵn để kịp thời giải
quyết cho những anh em khi bị thương rời đơn vị chưa được cấp. Giấy chứng nhận
bị thương là căn cứ pháp lý để thực hiện chính sách. Giấy này dùng để phân biệt
người bị thương trong chiến đấu với các trường hợp khác. Căn cứ vào bệnh án và
lời khai của từng người, tôi điền vào giấy khống chỉ rồi trao tận tay cho anh em.
Những ngày đầu, ta bất ngờ tấn công, đánh
chiếm hầu hết các mục tiêu quan trọng của Thành phố Huế. Địch bị thất bại nặng
nề, chỉ còn trụ lại được ở cứ điểm Mang Cá. Nhưng sau đó chúng đã được tăng
viện liên tiếp phản kích chiếm lại những vị trí đã mất.
Sau 27 ngày liên tục bám trụ chiến đấu ở Huế, giành giật, chống trả nhiều đợt tấn công với qui mô lớn của bộ binh địch, dưới sự bắn phá ác liệt của phi pháo địch, mặc dù đã được bổ sung mấy đợt liền nhưng vẫn không bù đủ quân số thương vong của Trung đoàn. Quân số thiếu hụt, vũ khí đạn dược đã cạn kiệt, bảo đảm lương thực khó khăn, không thể duy trì được sức chiến đấu. Tinh hình bộ đội ta ở Mặt trận Huế cũng là tình hình chung của toàn chiến trường Miền Nam lúc bấy giờ.
Sau 27 ngày liên tục bám trụ chiến đấu ở Huế, giành giật, chống trả nhiều đợt tấn công với qui mô lớn của bộ binh địch, dưới sự bắn phá ác liệt của phi pháo địch, mặc dù đã được bổ sung mấy đợt liền nhưng vẫn không bù đủ quân số thương vong của Trung đoàn. Quân số thiếu hụt, vũ khí đạn dược đã cạn kiệt, bảo đảm lương thực khó khăn, không thể duy trì được sức chiến đấu. Tinh hình bộ đội ta ở Mặt trận Huế cũng là tình hình chung của toàn chiến trường Miền Nam lúc bấy giờ.
Hai mươi năm sau (1988), ba mươi năm sau
(1998), bốn mươi năm sau (2008), đã có nhiều hội thảo khoa học lịch sử quân sự
về Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 – Một cột mốc lớn
chói sáng trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Tại các lần hội thảo và trên nhiều
sách báo, các nhà lãnh đạo chính trị, các nhà lãnh đạo, chỉ huy cấp chiến lược
ở Trung ương, các vị Tướng lĩnh - Tư lệnh các chiến trường, các nhà nghiên cứu
lịch sử, nghiên cứu khoa học quân sự,…trên từng bình diện khác nhau, đã có
những đánh giá về thắng lợi, về khuyết điểm hạn chế, rút ra những bài học kinh
nghiệm về sự kiện lịch sử này.
Ý kiến qua lại thì nhiều, trong đó có cả
ý kiến khác biệt. Điều đó cũng dễ hiểu. Xưa nay là vậy, lịch sử diễn ra chỉ một
lần nhưng viết lịch sử, đánh giá lại, định vị lại giá trị của lịch sử thì lại
diễn ra bằng nhiều lần. Mọi người có cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
khác nhau. Hơn nữa, độ lùi cho phép của thời gian, sự đầy đủ của thông tin và
kết cục của cuộc chiến càng làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà ngay trong chiến tranh
chưa có điều kiện kiểm chứng. Nhưng nói gì đó thì nói, tựu trung lại có thể
khái quát ngắn gọn là: Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giành được thắng lợi to lớn, toàn diện, có
ý nghĩa chiến lược quan trọng. Ta đã táo bạo bất ngờ tiêu diệt một bộ phận quan
trọng sinh lực cấp cao của Mỹ ngụy; đánh chiếm những mục tiêu hiểm yếu, phá hủy
một khối lượng quan trọng các phương tiện chiến tranh và cơ sở hậu cần hiện đại
nhất của Mỹ - ngụy. Thắng lợi đó, về cơ bản, đã đánh bại chiến lược “chiến tranh
cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đã tạo ra một sự đột biến
làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo điều kiện và thời cơ tiến lên giành
thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
Khuyết điểm chính là: Do nhận thức và đánh giá chưa thật sát đúng tình hình.
Trong khi lực lượng Mỹ-ngụy và chư hầu đông tới 1 triệu 20 vạn tên, nắm trong
tay những phương tiện chiến tranh hiện đại, khổng lồ, đang chiếm giữ những căn
cứ được phòng thủ vững chắc, cuộc chiến tranh đang diễn ra quyết liệt, việc đề
ra chủ trương Tổng tiến công-Tổng khởi nghĩa là không sát thực tế. Đã kéo dài
cuộc Tổng tiến công vào các đô thị khi yếu tố bất ngờ không còn, địch đã củng
cố, thực hành phản công quyết liệt. Chậm chuyển hướng chiến lược. Những khuyết
điểm, sai lầm ấy đã gây cho ta những tổn thất rất to lớn. Sau này tổng kết lại,
có ý kiến cho rằng, nếu ngày đó mục đích của Tổng tiến công chỉ là đánh địch
thiệt hại nặng, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán, thì công bằng mà nói,
cái giá phải trả quá đắt.
Đánh giá về toàn cục của các cấp chiến
lược là vậy. Nhưng ở cấp cơ sở, quả thật lúc đó, ban đầu trong khí thế hừng hực
sục sôi, qua tuyên truyền và ý kiến chỉ đạo, phổ biến của lãnh đạo chỉ huy trực
tiếp, chúng tôi cứ nghĩ rằng, đây là trận chiến đấu cuối cùng để giải phóng
Miền Nam, thống nhất đất nước. Tuồng như,
nếu chậm chân sẽ không có vinh hạnh được góp mặt trong cái ngày trọng
đại, huy hoàng ấy. Nhưng sau đó, bom đạn ác liệt quá, thương vong nhiều quá,
địch mạnh quá, dường như ta không cân sức, thì nhiều người sinh ra bi quan dao
động, thậm chí có một số đã đào ngũ, chạy dài về phía sau. Điều mà trước đó hầu
như ở đơn vị chúng tôi không hề có.
Ngày 22 tháng 2 năm 1968, Quân khu ra
lệnh cho Trung đoàn chúng tôi rút ra khỏi Huế hành quân về vùng giáp ranh Bình
Điền, Hương Trà để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho trận chiến đấu tiếp theo.
Tại đây, ngày 20 tháng 5 năm 1968, tôi được chuyển thành Đảng viên chính thức.
Sau khi tái chiếm hoàn toàn thành Huế và
các huyện đồng bằng, địch bắt đầu đánh nống lên vùng giáp ranh. Các loại máy
bay trực thăng, phản lực và máy bay cánh quạt C130 ngày đêm thay nhau quần đảo,
bắn phá ác liệt. Thêm vào đó, nhiều lần B57, B52 ném bom rải thảm và pháo bầy
các loại 105 ly, 175 ly,…từ các căn cứ ở đồng bằng cấp tập dội vào trận địa ta.
Có lần bộ binh Mỹ đã đánh đến cách Trung đoàn bộ không đầy cây số. Quân số
thương vong nhiều hơn, cả đơn vị và cơ quan. Gạo tiếp tế từ Miền Bắc không vào
kịp, gạo ở đồng bằng không lên được vì bị địch đánh chặn các ngả đường. Tiêu
chuẩn mỗi người mỗi ngày chỉ được 2 lạng gạo, không đủ nấu cơm, phải nấu cháo
độn rau môn thục hoặc rau tàu bay. Đặc biệt là muối ăn không đủ. Con người ta
đói ăn, khát uống không căng bằng thiếu muối. Người cứ lả đi, chân tay rời rã.
Thiếu ăn dẫn đến nhiều loại bệnh tật phát sinh, nhất là bệnh phù thũng. Đây bắt
đầu là thời kỳ khó khăn đối với chủ lực ta.
Đồng đội tôi, phần thì hy sinh trong chiến đấu ở Huế, phần thì hy sinh ở
Bình Điền, Hương Trà, đã vãn đi khá nhiều. Riêng quân số hy sinh ở Huế trong
Tết Mậu Thân của Trung đoàn tôi lên tới mấy trăm người. Ác liệt, gian khổ,
thương vong diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Một không khí bi hùng bao trùm lên
toàn đơn vị.
Chính thời gian rút ở Huế lên Bình Điền,
Hương Trà, nghĩ rằng, trong điều kiện bom đạn ác liệt, biết đâu sự hy sinh ập
đến lúc nào không biết trước được, tôi đã làm sẵn một quyển sổ bìa cứng để ghi
lại những cảm xúc của mình trong những ngày đó. Đây không phải biểu hiện của tư
tưởng bi quan lo lắng mà là chủ động một tâm thế thanh thản lạc quan. Ngoài
bìa, tôi nắn nót viết một dòng bằng chữ
in: KHI TÔI HY SINH, ĐỀ NGHỊ ĐƠN VỊ CHUYỂN HỘ VỀ CHO CHA TÔI. Trong quyển sổ đó, tôi ghi chép nhiều
thứ như là Nhật ký chiến trường. Đặc biệt là, có một bản di chúc tôi gửi cha
tôi.
Bản Di chúc tôi viết là: “Cha kính yêu! Khi cha nhận được quyển sổ
này, thì Nguyễn Mạnh Đẩu – đứa con trai thân yêu của cha đã hy sinh ngoài mặt
trận. Cha! hãy bình tĩnh lại Cha ạ. Lúc còn nhỏ, Con vẫn được Cha dạy rằng,
việc sống chết là luật tiết của tạo hóa. Dẫu có sống đến 800 tuổi như Ông Bành
Tổ rồi cũng phải chết, không ai qua được. Vấn đề là, sống và chết thế nào cho
xứng đáng. Tiếc là con hy sinh quá sớm,
khi mới tròn 20 tuổi đầu. Con ân hận là chưa làm được gì để đền đáp công ơn
sinh thành, dưỡng dục của Cha Mẹ. Nhưng, về phận sự với đất nước, con có quyền tự hào là trong cuộc chiến đấu quyết liệt với quân thù,
con đã sống xứng đáng trên tuyến đầu và đã hy sinh vẻ vang vì sự nghiệp,…Cuối
cùng, Con cầu mong Cha khỏe mạnh, bình an. Mong cha nuôi dạy các em con mau
khôn lớn trưởng thành để sau này thay con phụng dưỡng cha lúc tuổi già, sức
yếu. Xin vĩnh biệt Cha!” . Cuối bản Di chúc là mấy câu thơ:
”Hãy
vui lên Cha, Con hy sinh
Cũng
vì giải phóng đất nước mình
Cha ơi, tương lai đà soi sáng
Vì mọi người, Con hiến tuổi xanh”.
Đây là những lời tâm sự, nhắn nhủ tâm
huyết, viết ra trong nước mắt, thốt ra tự đáy lòng, tôi gửi lại cho cha tôi -
người thân yêu nhất trên đời. Nhưng mãi tới mấy chục năm sau, cho đến khi từ
trần, cha tôi cũng chưa hề đọc bản Di chúc đó của tôi. Tôi cũng không bao giờ
kể với ông chuyện này.
Cứ mỗi khi có điều kiện, tôi lại ghi
chép. Và mỗi lần đi chiến đấu tôi đều gửi lại hậu cứ Quyển sổ bìa cứng đó.
Trong chiến dịch Đường 9-Nam Lào năm 1971, khi nghe tôi bị thương nặng không
qua khỏi, anh Phạm Huy Chưởng, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 về hậu cứ mở quyển
sổ ra đọc rồi giữ lại chờ dịp chuyển về cho cha tôi. Nhưng sau đó, năm 1972, đi
chiến đấu chiến dịch Động Tranh ở tây Thừa Thiên, sợ mình không giữ được, anh Chưởng lại giao
cho anh Lê Văn Thảo phụ trách hậu cứ. Sau này, theo lời anh Chưởng, tôi tìm gặp
anh Thảo ở Thành phố Thanh Hóa thì được biết rằng hậu cứ bị trúng bom cháy hết
không còn gì. Thảo bị cụt một chân trong trận bom đó. Tôi tiếc vô cùng. Anh
Phạm Huy Chưởng quê Hương Khê - Hà Tĩnh, cùng chiến đấu với tôi từ hồi ở Lào.
Sau này anh là Thiếu tướng, Tỉnh đội trưởng Thừa Thiên Huế rồi Phó Tư lệnh
–Tham mưu trưởng Quân khu 4. Mỗi lần chúng tôi gặp nhau, anh Chưởng vẫn thường
nhắc về quyển sổ này. Anh cũng còn kể cho nhiều người nghe.
Sau một thời gian chiến đấu ở vùng giáp
ranh, chấp hành mệnh lệnh của Quân khu, các đơn vị chủ lực lần lượt rút lên
rừng để củng cố. Trung đoàn 8 rút về Phu
Rếch- Cô Trang gần Đường 12 tây Thừa
Thiên, rồi sau đó rút lên tận Mường Nòng (Lào).
Ngày 10 tháng 6 năm 1968, theo chỉ thị của
trên, trước yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, Trung đoàn tái thành lập đại đội đặc
công, lấy phiên hiệu là C20. (Đại đội đặc công cũ đã bàn giao cho Mặt trận Bắc
Quảng Trị khi Trung đoàn hành quân vào đánh Huế). Qui trình là bộ khung của đại
đội được xây dựng trước, rồi đón tân binh ở Miền Bắc vào bổ sung, lắp ráp thành
từng tiểu đội, trung đội. Sau đó tổ chức huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật đặc
công.
Đặc công là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ,
yêu cầu chất lượng cao, tinh binh, tinh cán. Bộ khung từ tiểu đội trưởng cho đến cán bộ đại đội, đều là những
cán bộ trẻ, khỏe, nhanh nhẹn, mưu trí, dũng cảm, đã lập được nhiều thành tích
trong chiến đấu bộ binh, được lựa chọn trong toàn thể Trung đoàn. Trên cơ sở
tiêu chuẩn đã được xác định, Trung đoàn giao chỉ tiêu cho tập thể cấp ủy các
đơn vị lựa chọn đề nghị lên. Trung đoàn thẩm tra, xem xét lại rồi quyết định.
Ban đầu bộ khung được hình thành là : Ban chỉ huy đại đội bốn người. Đại đội có
ba trung đội, mỗi trung đội 3 cán bộ. Mỗi trung đội có ba tiểu đội, với ba tiểu
đội trưởng. Đại đội trưởng là anh Nguyễn Duy Hào, quê Thọ Xuân, Thanh Hóa, vốn
là đại đội trưởng Đại đội 9 Tiểu đoàn 9. Chính trị viên đại đội là anh Trương
Anh Dung, quê Quang Minh, Kim Anh, Vĩnh Phú, vốn là chính trị viên Đại đội 12
ly 7 cao xạ. Đại đội phó là anh Đinh Minh Chúng, quê Trung Hóa, Tuyên Hóa,
Quảng Bình, vốn là đại đội phó Đại đội 3 Tiểu đoàn 7. Chính trị viên phó là anh
Hồ Văn Bé, quê Nghi Xuân, Hà Tĩnh, vốn là chính trị viên phó Đại đội 1, Tiểu
đoàn 7. Khi mới thành lập đại đội đặc công, do xác định tính chất hoạt động độc
lập, phân tán trong địch hậu, mỗi trung đội có biên chế một chính trị viên.
Một buổi tối tháng 6 năm 1968, ở vùng giáp
ranh Hương Trà, anh Hoán cho liên lạc gọi tôi sang hầm của anh. Thay mặt lãnh
đạo, anh trao quyết định phong cấp trung đội bậc trưởng cho tôi. (Một cách
phong quân hàm hồi đó đối với Quân Giải phóng. Với bậc này, nếu ra Miền Bắc,
tôi được phiên sang thiếu úy). Sau đó, anh
vừa dặn dò vừa tâm sự, đại ý, em lên công tác ở cơ quan Trung đoàn được
6 tháng rồi. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ tốt, được tập thể cơ quan tín nhiệm.
Với đà đó em có triển vọng phát triển ở cơ quan tham mưu. Bây giờ em có nguyện
vọng gì không. Rất phấn khởi vì được phong quân hàm và thực sự cảm động về những lời nói ân tình chí nghĩa
của anh Hoán, tôi bày tỏ cám ơn sự quan tâm dìu dắt của các anh mà đặc biệt là
anh Hoán. Đồng thời, đây là dịp tốt tôi có điều kiện giải bày nguyện vọng cùa
mình. Bởi vậy, tôi thành thật xin anh Hoán cho tôi về đơn vị chiến đấu. Tôi
nói:
-
Anh ạ ! Phong cách làm việc ở cơ quan không thật sự phù hợp với lứa tuổi
như em. Em xin về đơn vị chiến đấu, vì về lại dưới ấy dù có vất vả hơn nhưng
trẻ trung, vui vẻ, sôi nổi với bạn bè cùng trang lứa, đầy chất lính hơn.
Chăm chú nghe tôi trình bày hết, anh Hoán
nói nhỏ nhẹ:
- Thôi được, anh hiểu em, để anh bàn với
các anh trong Ban chỉ huy Trung đoàn. Trước mắt, em về tiếp tục làm tốt công
việc của mình.
Mười ngày sau, tính từ buổi tối gặp anh
Hoán, tôi có quyết định của Trung đoàn điều động về Đại đội 20 đặc công nhận
nhiệm vụ với cương vị chính trị viên Trung đội 2. Ngày đó, dưới con mắt của mọi
người, đặc công được kính nể vì những chiến công xuất quỉ nhập thần trong các
sào huyệt của địch. Được tuyển chọn vào bộ đội đặc công là một vinh dự. Tôi vui
mừng và có phần hãnh diện. Trung đội trưởng trung đội 2 là anh Cao Hồng Nhụy
quê Tuyên Hóa, Quảng Bình, trung đội phó là anh Trần Văn Thành quê Hương Khê,
Hà Tĩnh. Tôi về Đại đội 20 đặc công được hơn nửa tháng, thì đi nhận tân binh ở
Lao Bảo- Quảng Trị.
Tân binh nhập ngũ đợt tháng 2-1968, quê
chủ yếu ở hai huyện Tiền Hải và Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Quân số đại đội lúc
này lên tới 120 người. Chúng tôi hành quân về Dốc Giao, tổ chức huấn luyện
ngay.Theo chỉ thị của trên, thao trường được chuẩn bị rất công phu. Hào đào sâu
hơn 3 mét, rộng 5 mét. Dưới lòng hào cắm chông nhọn tua tủa. Làm hàng rào thép
gai mấy lớp: rào đơn, rào cũi lợn, bùng
nhùng, giàn mướp. Chặt gỗ ghép lại thành các bức tường cao hơn 3 mét. Xây dựng
lô cốt, chiến hào, ụ súng, giao thông hào. Tất cả đều như thật. Kỹ thuật, chiến
thuật, võ thuật đặc công có sức hấp dẫn đối với lớp trẻ. Lại được nghe giới
thiệu nhiều chiến tích của bộ đội đặc công hồi đó, chúng tôi hăm hở ngày đêm
hăng say luyện tập.
Tình huống giả định có khi mật tập và có
khi cường tập vào đồn địch. Mật tập là bí mật tiếp cận mục tiêu để tiêu diệt.
Cường tập là khi vào chưa tới mục tiêu đã bị lộ, phải nhanh chóng vượt qua mọi
chướng ngại vật, lao vào mục tiêu để đánh. Khó và nguy hiểm nhất là khi tập
cường tập. Từng người và cả đội hình phải băng qua hàng rào thép gai, vượt hầm
chông. Có buổi tập xong, người bị xây xát máu. Một lần đang huấn luyện tại thao
trường, bị máy bay Mỹ thả bom bi, cậu Tuyển y tá bị trúng bom hy sinh. Trong
suốt thời gian huấn luyện, Quân khu cho một tổ giáo viên trinh sát đặc công của
Bộ gồm năm người về làm giáo viên huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và võ thuật
đặc công. Tổ trưởng giáo viên là anh Nguyễn Như Huyền.
Có sự trùng hợp ngẫu nhiên, 31 năm sau,
năm 1999, cùng đợt thăng quân hàm Thiếu tướng một ngày với tôi có hai người
cùng đơn vị cũ là anh Nguyễn Như Huyền, Cục trưởng Cục Tác chiến – Bộ Tổng Tham
mưu và anh Tăng Văn Miêu, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 3.
Tháng 10 tháng 1968, cả Trung đoàn hành
quân về Lệ Thủy, Quảng Bình. Đại đội đặc công đóng quân trong nhà dân ở xã Mai
Thủy, Lệ Thủy. Về Mai Thủy được mấy ngày, tôi được Bộ Tư lệnh Quân khu Trị
Thiên Huế quyết định thăng quân hàm đại đội bậc phó, bổ nhiệm giữ chức chính
trị viên phó đại đội thay anh Hồ Văn Bé đi làm chính trị viên phó Tiểu đoàn
7.
Ban chỉ huy đại đội ở trong nhà chị
Trường, một cái nhà ngói to, vườn rộng, có cây mít sai quả. Chị Trường có chồng
là anh Lê Văn Giang, quê ở Quảng Nam, Thiếu úy, Thuyền trưởng Hải
quân, đã hy sinh trong trận chiến đấu với máy bay Mỹ, năm 1965, ở căn cứ Thanh Khê, cửa biển Sông Gianh. Về đây, chúng
tôi tiếp tục xây dựng thao trường và huấn luyện. Tổ chức biên chế của đại đội
lúc này không là trung đội nữa mà cả đại đội có sáu mũi với 120 quân. Mũi trưởng Mũi 1 là anh Lê
Văn Ba. Mũi trưởng Mũi 2 là anh Cao Hồng Nhụy. Mũi trưởng Mũi 3 là anh Trần
Viết Xuân. Mũi trưởng Mũi 4 là anh Lê Văn Rật. Mũi trưởng Mũi 5 anh Bùi Công Tiếp. Mũi trưởng Mũi 6 là anh Lê
Văn Khoa.
Sau một tháng thục luyện, cuối tháng 12, Trung
đoàn giao cho đại đội đặc công tổ chức diễn tập dưới sự giám sát của Thủ trưởng
và cơ quan Trung đoàn. Mục tiêu là đánh vào “một căn cứ của địch” có hàng rào thép gai, công sự vững chắc. Để
đảm bảo sát với thực tế chiến đấu, Trung đoàn cho đại đội trinh sát làm quân
xanh, bố trí mìn sáng và canh gác rất nghiêm ngặt. Trong chiến đấu đặc công,
việc tiềm nhập qua các chướng ngại vật (bãi mìn, hàng rào,…) tiếp cận vào sát
mục tiêu là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định sự thành bại của trận đánh. Nếu
tiếp cận mục tiêu mà bị lộ thì phải cường tập. Đó chỉ là giải pháp tình thế,
bất đắc dĩ, vì tỷ lệ thương vong sẽ rất cao. Trong diễn tập, khi tiềm nhập nếu
bị lộ thì phải thực hành cường tập. Trường hợp này coi như hoàn thành nhiệm vụ
ở mức thấp. Theo sự phân công trong Ban chỉ huy đại đội, tôi đi với Mũi 1 đánh
vào hướng chủ yếu. Lệnh nổ súng là tiếng nổ của
khối bộc phá đánh vào chỉ huy sở của “địch”. Theo thuật ngữ quân sự gọi là “bộc phá lệnh”. Khi đã tiềm nhập vượt qua các hàng rào, các vọng
gác, chúng tôi tiếp cận vào mục tiêu chủ yếu, mà “ quân địch “ vẫn không phát hiện được.
Tôi nhìn đồng hồ vừa đúng thời gian nổ
súng theo hiệp đồng. Anh Ba mũi trưởng đưa tay ám hiệu với tôi cho bắt đầu
đánh, tôi gật đầu. Cậu Sức lao lên đặt bộc phá vào hầm chỉ huy của “địch”,
giật nụ xòe. Một quầng lửa rực trời, kèm theo một tiếng nổ rất to. Sức ép của
quả bộc phá hất chúng tôi dạt xuống. Tiếp đó, định thần lại rất nhanh, từng cá
nhân theo sự phân công trước trên sa bàn, tiến đánh “tiêu diệt” các mục tiêu. Ở các mũi khác đều thực hành suôn sẻ. Kết
thúc diễn tập, lúc rút kinh nghiệm, tôi hỏi anh Ba mũi tưởng, tại sao bộc phá
lệnh nổ to thế. Anh Ba nói rằng, khi gói bộc phá lệnh anh em đã tự ý tăng khối
lượng bộc phá lên để nổ thật to, thật oách. Chúng tôi cùng cười.
Có
lần tập võ thuật, tôi và anh Trương Anh Dung thực hành bài đánh dao găm đối
kháng bằng dao thật. Đến động tác tôi quật ngửa anh Dung, ngồi lên ngực, hai
đầu gối ghì chặt hai tay anh, dùng hai tay đâm bổ thượng từ trên xuống để “ tiêu diệt”. Theo bài tập trong trường
hợp này, anh Dung chỉ cần cùng một lúc gồng bụng lên hất mạnh, giật hai tay ra
đưa lên trên luồn vào giữa hai cánh tay tôi thì không bao giờ dao đâm thấu
người anh. Thế nhưng, không hiểu tại sao, tay anh Dung đưa lên quá chậm và mũi
dao găm của tôi đâm vào giữa trán anh. Không sâu xuống phần xương nhưng thủng
da chảy máu. Cũng may tôi đâm nhẹ. Thật hú vía. Tôi biết trước đây có lần trinh
sát Tiểu đoàn 929 khi tập võ thuật có trường hợp bị đánh chết chỉ vì không kịp
đỡ một quả đấm của bạn tập.
Thời kỳ huấn luyện ở Mai Thủy, có một lần
anh Trần Minh Dần, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 28 đóng quân ở xã
Mỹ Thủy đến thăm tôi . Anh là người cùng xã, là anh ruột của anh Hợi cùng nhập
ngũ với tôi một ngày. Chúng tôi đã từng biết nhau từ hồi chiến đấu ở Lào và
Đường 9. Anh tuổi Mậu Dần, sinh năm 1938, hơn tôi 10 tuổi. Tôi nghe anh kể, mẹ
tôi lúc còn làm cán bộ phụ nữ xã, có đến dự đám cưới anh, vui lắm.
Là người chiến đấu rất dũng cảm và sống
rất nhân nghĩa nên đi đến đâu, anh Dần cũng được mọi người kính trọng, quí mến.
Anh thường quan tâm và động viên tôi trong chiến đấu và công tác. Tôi coi anh
như người anh ruột. Hai anh em chơi với nhau được một buổi rồi anh về đơn vị .
Không ngờ đó là lần cuối cùng, tôi vĩnh viễn xa anh. Năm 1969, đơn vị anh hành
quân vào Tây Nguyên. Tháng 4 năm 1972, đang làm Trung đoàn phó Trung đoàn 28,
anh Dần được điều sang làm Trung đoàn phó
Trung đoàn 66 chiến đấu ở Đắc Tô – Tân Cảnh, bị bom Mỹ đánh trúng Sở chỉ
huy tiền phương, anh hy sinh. Trước đó, anh Hợi, em ruột anh cũng đã hy sinh ở
tận Nam Bộ. Sau này về quê, tôi mấy lần đến thắp hương ở Nhà bia tưởng niệm
liệt sĩ của xã nhà. Danh sách liệt sĩ hy sinh trong các thời kỳ chiến tranh
được khắc vào tấm bia lớn bằng đá xanh, khá to. Bảng danh sách nối dài hàng
trăm người. Đọc hết một lượt, tôi bồi hồi xúc động. Mỗi dòng tên một cuộc đời.
Họ hy sinh khi đang độ tuổi thanh xuân. Các anh đã tô thắm truyền thống quê
hương. Góp phần rất xứng đáng vào thành tích xuất sắc của xã Anh hùng trong
thời kỳ chống Mỹ. Dừng lại dòng tên Trần Minh Dần, hình ảnh chất phác, kính
quí, ánh mắt và nụ cười thân thương của anh hiện về trong tâm trí tôi với bao
kỷ niệm ngậm ngùi.
Thời kỳ ở Lệ Thủy, Quảng Bình, Sư đoàn
324 được thành lập. Thực ra, Sư đoàn 324
thành lập từ trong kháng chiến chống Pháp. Còn đây là Sư đoàn 324 thứ bao nhiêu rồi. Trong kháng
chiến chống Mỹ, một Sư đoàn có thể “nở” thành nhiều Sư đoàn theo sự phát triển của quân đội trước yêu cầu của chiến tranh. Chúng tôi được
biết, ban đầu lúc mới thành lập, Sư đoàn lấy phiên hiệu là Sư đoàn 169- thành
lập tháng giêng năm sáu chín. Sau một thời gian ngắn đổi lại tên là Sư đoàn
324. Tư lệnh Sư đoàn là anh Chu Phương Đới. Chính ủy Sư đoàn là anh Nguyễn Công
Trang. Sư đoàn phó là anh Mai Hiền, Phó Chính ủy Sư đoàn là anh Trần Văn Ân.
Anh Thái Cán làm Tham mưu trưởng Sư đoàn. Anh Bùi Phan Kỳ làm Chủ nhiệm chính
trị.
*
* *
Sau Tết Nguyên Đán Kỷ Dậu, chúng tôi rời
Lệ Thủy hành quân đi chiến đấu. Lần này lại trở lại chiến trường Thừa
Thiên-Huế.
Quảng Trị và Thừa Thiên là hai tỉnh đất không
rộng, người không đông. Nếu tính từ sông Bến Hải giới tuyến quân sự tạm thời
đến Đèo Hải Vân thì địa hình rất dài. Nhưng bề ngang từ biên giới Việt-Lào trên
dãy Trường Sơn ra đến Biển Đông thì rất hẹp. Có nơi chỉ khoảng 40 cây số. Đất
đã hẹp rừng núi lại nhiều, nhưng nơi đây là vùng tiếp giáp với Miền Bắc, là nơi
đối đầu, đọ sức của hai bên, nên cuộc
chiến tranh diễn ra vô cùng khốc liệt. Một dải đất hẹp, với số dân mấy chục vạn
người, vậy mà trong kháng chiến chống Mỹ, ở Trị - Thiên hình thành hai quân
khu. Chiến trường phía bắc Quảng Trị
tính từ Đường 9 trở ra do Mặt trận B5
đảm nhiệm. Từ phía nam tỉnh Quảng Trị, tính từ Đường 9 trở vào đến đèo
Hải Vân do Quân khu Trị Thiên - Huế (B4) đảm nhiệm. Thực ra, từ trước năm 1966,
Trị Thiên Huế còn là Phân khu Bắc thuộc Quân khu 5. Sau đó lực lượng phát triển
lên thành Quân khu Trị Thiên - Huế tách khỏi Quân khu 5.
Khi vượt qua Đường số 9 được mấy ngày,
vừa mới đến Trạm 19 ở động A Vương trên đường vào A Bia, A Sầu thì địch đổ quân
ở động Cô Ác phía trước.Trung đoàn giao cho đại đội đặc công cùng với Đại đội 7
Tiểu đoàn 8 tiến hành trinh sát nắm
địch, chuẩn bị tập kích vào quân địch ở Cô Ác.
Cô Ác là một cứ điểm dã chiến của quân Mỹ
ở tây Thừa Thiên. Là một dãy đồi mà Mỹ đã dùng máy bay ném bom phát quang và
bom na-pan đốt cháy đen, trọc lóc. Lực lượng đi trinh sát gồm có anh Hào đại
đội trưởng, tôi, các mũi trưởng và một tổ trinh sát. Đại đội 7 có anh Thỉ đại
đội tưởng , anh Phan Văn Đân chính trị viên cùng ba trung đội trưởng.
Đến vị trí tập kết, chúng tôi chia ra
thành mấy bộ phận để đi trinh sát ở mấy hướng. Tôi cùng đi với anh Đân, anh
Thịnh trung đội trưởng Đại đội 7cùng một chiến sĩ liên lạc. Trước khi tiếp cận
vào mục tiêu, chúng tôi chọn một ngọn đồi đối diện cách cứ điểm Cô Ác khoảng
1.000 mét để đặt đài quan sát. Tìm được một vị trí thích hợp, giao cho anh
Thịnh và một chiến sĩ liên lạc làm nhiệm vụ cảnh giới ở dưới, tôi và anh Đân
trèo lên một cây cao để quan sát. Khi dứng trên ngọn cây cao, hai anh em nhìn
vào cứ điểm Cô Ác rõ lắm. Vòng ngoài là hai lớp rào kẽm gai cánh bướm. Phía
trong là những dãy nhà bán âm, căng dù lên trên. Sở chỉ huy ở trung tâm, cạnh
đó là đài thông tin vì có cột ăng ten cao. Cách Sở chỉ huy khoảng 200 mét là
trận địa pháo 4 khẩu. Chốc chốc lại bắn về phía xa. Mỗi khi pháo bắn, chúng tôi
nhìn rõ cả khói và nghe tiếng nổ đầu nòng (đề-pa) rất to. Trong trận địa thấy
lố nhố quân lính đi lại. Có lần liếc xuống dưới đất, tôi thấy anh Thịnh trung
đội trưởng đang ngồi trải tấm bản đồ đặt địa bàn trên đó, hình như đang xác
định tọa độ khu vực.
Tôi và anh Đân vừa quan sát vừa trao đổi
về phương án phối hợp tác chiến giữa đặc công với bộ binh, thì bất thần mấy
loạt tiểu liên bắn rất đanh ở ngay dưới gốc cây. Lúc đầu tôi nghĩ là súng anh
Thịnh cướp cò. Ép mình vào cành cây to, khi tiếng súng đã im, tôi nhìn xuống
thì anh Thịnh đã hy sinh nằm gục trên tấm bản đồ, mấy tên thám báo Mỹ đang bu
quanh xì xồ, lục lọi. Anh Đân và tôi nói nhỏ với nhau, nếu cứ ở trên này thì
khi nó ngước nhìn lên sẽ bắn xiên táo cả hai anh em. Chúng tôi quyết định thả
lựu đạn xuống trước, rồi lao xuống thoát ra ngoài. Tức thì, 4 quả lựu đạn mỏ
vịt cùng thả xuống một lúc. Lựu đạn nổ rất đanh, mảnh bay rào rào. Bị bất ngờ,
bọn thám báo không kịp đối phó. Chúng tôi bám cành cây tụt rất nhanh xuống đất. Khi cách mặt đất gần 5m,
chúng tôi nhảy đại, liếc nhanh tôi thấy mấy tên thám báo Mỹ chết gục cạnh gốc
cây. Anh Đân và tôi mỗi người một khẩu súng ngắn bắn đại mấy viên có tính chất uy
hiếp, rồi chạy một mạch về khu vực tập kết.
Anh Phan Văn Đân sinh năm 1936 cùng là
tuổi Tý, hơn tôi một giáp. Quê anh ở làng Võ Xá, xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình. Kết thúc chiến tranh chống Mỹ, anh làm Chính ủy Trung đoàn;
sau đó được bổ nhiệm Phó Sư đoàn trưởng về Chính trị Sư đoàn 324. Anh nghỉ hưu
với quân hàm Đại tá. Bây giờ anh đã có chắt nội. Mấy lần gặp nhau ở Hà Nội, hai
anh em xúc động kể lại chuyện xưa.
Ngày hôm sau, để nắm chắc địa hình và
địch tình toàn bộ khu vực, chúng tôi tổ chức một bộ phận đi trinh sát một vòng
tròn xung quanh cứ điểm động Cô Ác. Đồng thời, tiến hành tiềm nhập vào phía sau
cứ diểm của địch. Thành phần trinh sát có tôi, anh Xuân mũi trưởng mũi 2, anh
Hội trợ lý trinh sát Trung đoàn và một tổ trinh sát ba người do anh Dực làm tổ
trưởng. Đề phòng thám báo tuần tra xung quanh cứ điểm, từ vị trí tập kết,chúng
tôi cắt góc phương vị đi vòng ngoài khá xa. Xuất phát từ sáng sớm đến tối mịt
chúng tôi dừng lại chọn hướng tiếp cận vào cứ điểm của địch. Ăn tối bằng lương
khô xong, uống no nước suối, chúng tôi chia làm hai tổ đi tiềm nhập. Tổ một có
tôi và anh Xuân và một chiến sĩ trinh sát. Tổ hai có anh Hội, anh Dự và hai
chiến sĩ trinh sát. Mục tiêu được phân công là Sở chỉ huy và trận địa pháo của
địch. Hẹn nhau cố gắng trinh sát xong trong đêm, rạng sáng mai sẽ hợp nhau về
điểm xuất phát.
Đúng 9 giờ tối, ba anh em chúng tôi bắt
đầu tiềm nhập. Phương pháp tiềm nhập là, qua từng đoạn một, giao cho chiến sĩ
trinh sát làm nhiệm vụ cảnh giới, tôi và anh Xuân lần lượt chui qua bãi cây đổ
ở vòng ngoài rồi qua lớp hàng rào kẽm gai lò xo. Đến 2 giờ sáng, chúng tôi tiềm nhập vào được trận địa pháo của địch.
Nhìn chếch lên phía trên là hầm thông tin và sở chỉ huy. Đối chiếu giữa thực
địa và nhìn thấy từ ban ngày không khác bao nhiêu. Chúng tôi lần lượt quay ra
theo đường cũ. Đến hơn 4 giờ sáng về tới nơi xuất phát. Trời mưa to, quần áo
ướt sũng, nhưng chúng tôi mừng vì trời mưa sẽ xóa sạch các dấu vết tiềm nhập.
Chúng tôi chờ khoảng 30 phút thì bộ phận anh Hội cũng về tới. Bên đó các anh
cũng vào được gần sát sở chỉ huy.
Đề phòng gặp địch sẽ lộ hết bí mật, lần
về chúng tôi lùi ra xa hơn và cắt đường về khu tập kết. Nào ngờ, do xác định góc phương vị không
chuẩn, đã vòng đi quá xa. Đi mãi hai ngày, lương khô mang theo đã hết, nhưng mở
bản đồ xác định tọa độ vẫn cách vị trí tập kết khá xa. Bụng đói meo, chân chồn,
gối mỏi, tôi cảm thấy bắt đầu hoa mắt. Dừng lại bên một con suối cạn, mấy anh
em lần bắt được hơn chục con cua đá, cứ
thế xé ra ăn sống, ngon lắm, tỉnh ra, lại đi tiếp.
Đến trưa ngày thứ tư, chúng tôi về đến
nơi tập kết. Anh Hào đại đội trưởng mừng rỡ ôm lấy tôi. Anh nói:
- Trời ơi, mấy hôm nay bọn mình nghĩ rằng
các cậu đã rơi vào ổ phục kích và đã hy sinh hết cả rồi.
Tôi lả đi, chẳng nói gì, nhìn thấy mấy
vắt cơm rất thèm, chực ăn. Thấy thế, cậu Long y tá nói:
- Thủ trưởng không được ăn nhiều cơm
ngay, vì sợ bội thực mà chết.
Nói rồi, cậu ta bẻ nắm cơm ra cho chúng
tôi ăn một ít, còn lại đem nấu cháo. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ cảm thấy
ăn cơm không mà ngon đến vậy. Ăn đến đâu biết đến đó và sức khỏe hồi phục dần.
Mắt sáng ra, chân tay đỡ bủn rủn.
Ngày hôm sau chúng tôi trở về đơn vị,
khớp lại thông tin kết quả trinh sát,
đắp sa bàn tổ chức hội nghị quân nhân, thông qua chi ủy và báo cáo cấp
trên thông qua phương án chiến đấu. Phương án tác chiến là, dùng đại đội đặc
công tập kích vào hai hưởng: chỉ huy sở,
trận địa pháo và đại đội bộ binh của địch. Đại đội 7 Tiểu đoàn 8 làm thê đội 2,
sẵn sàng tiếp sức cho đại đội đặc công khi gặp khó khăn. Trong trường hợp đại
đội đặc công đánh thắng giòn giã, thì Đại đội 7 sẽ tiếp quản trận địa do đại
đội đặc công bàn giao lại.
5 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm
1969, chúng tôi đã có mặt ở khu tập kết,
kiểm tra lại toàn bộ công tác chuẩn bị. 8 giờ tối, các mũi bắt đầu tiếp cận để
tiềm nhập mục tiêu. Thời gian nổ súng là 12 giờ đêm.
Tôi cùng đi với mũi 3 do anh Xuân làm mũi
trưởng, anh Việt làm mũi phó. Muc tiêu được giao cho mũi 3 là đánh vào trận địa
pháo và phát triển sang sở chỉ huy. Khi
cả mũi đã luồn hết qua hàng rào kẽm
gai, nhìn đồng hồ mới hơn 11 giờ. Sợ vào
sớm quá mà bị lộ thì gây khó khăn cho các mũi khác, tôi nói anh Xuân cho dừng
lại. Dừng tại chỗ độ 10 phút, chúng tôi bò tiếp về phía trước, trời tối om,
không một tiếng động, bốn bề lặng lẽ. Khi đã sát vào tới trận địa pháo, chúng
tôi mới phát hiện ra không có một tên địch nào cả. Các dấu hiệu còn lại cho
thấy khả năng chúng đã rút từ lúc chiều. Chiều nay khi có nhiều lượt trực thăng
H34 đỗ xuống cứ điểm động Cô Ác, ở đài quan sát trinh sát lại nhận định là chúng
đổ quân tăng cường, nào ngờ là rút quân. Lúc này đề phòng hai tình huống dễ xảy
ra là: Hoặc là, bộ đội ta ở các hướng khác trong đêm không nhận ra nhau, tưởng
là địch, sẽ bắn nhầm. Hai là, địch biết
ta đã vào trong cứ điểm, chúng dùng pháo bắn cấp tập. Thực tế ở chiến trường đã
diễn ra một số trường hợp như vậy. Tôi điện đề nghị anh Hào cho các mũi rút ra
ngay, theo đường cũ.
Trong chiến đấu, việc nắm chắc địch tình,
địa hình và làm tốt các khâu chuẩn bị coi như thắng lợi được một nửa. Suốt mấy
ngày trinh sát nắm địch, chuẩn bị chiến đấu, thu được những kết quả rất tốt,
anh em mong muốn được ra quân đánh thắng trận đầu. Nhưng khi tiếp cận, chuẩn bị
nổ súng thì không còn một mống địch, anh em trong đơn vị chưng hửng. Chúng tôi
trở về khu tập kết tiếp nhận lại đồ đạc và hành quân tiếp về phía Nam. Sau mấy
ngày hành quân, chúng tôi về đóng ở vùng A - Lê - Thiêm, A – Lê - Lốc sẵn sàng
nhận nhiệm vụ mới.
Nhiệm vụ của Trung đoàn 3 Sư đoàn 324 lúc đó
là dùng Tiểu đoàn 8 chốt chặn đánh địch ở dãy núi ABia. Sau đó
dùng lực lượng Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 tấn công vào quân địch ở thung lũng A
Sầu phía tây dãy điểm cao A Bia, sát biên giới Việt – Lào, cách Huế khoảng 50
km về phía tây nam.
Đầu tháng 5 năm 1969, Tiểu đoàn 8 dưới sự
chỉ huy của anh Nguyễn Văn Ninh tiểu đoàn trưởng và anh Lê Ngọc Mai chính trị
viên tiểu đoàn, bằng công sự trận địa đã bố trí sẵn, trong điều kiện phi pháo
rất ác liệt, đã liên tục giữ vững trận địa trong nhiều ngày, kiên cường dũng
cảm đánh bật hàng chục đợt tấn công của quân Mỹ. Đại đội 6 là lực lượng chủ
công của Tiểu đoàn 8 do anh Cao Thanh Giáo đại đội trưởng và anh Lê Văn Thi
chính trị viên đã lập công xuất sắc.
Ngày 12 và ngày 13 tháng 5 năm 1969, dưới
sự chỉ huy của Trung đoàn 3, Tiểu đoàn 7 do anh Tăng Văn Miêu tiểu đoàn trưởng
và anh Trần Triền chính trị viên tiểu đoàn chỉ huy, cùng Tiểu đoàn 9 do anh Võ
Vượng tiểu đoàn trưởng và anh Hồ Chư chính trị viên tiểu đoàn chỉ huy tấn công
vào một đơn vị của Sư đoàn không vận số 101 Mỹ ở thung lũng A Sầu, phía tây cao
điểm A Bia. Ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 300 tên Mỹ, phá hủy nhiều phương
tiện chiến tranh, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân ứng cứu. Lúc bấy giờ,
quân Mỹ kinh hoàng gọi A Bia là đồi thịt băm (Hămbagiơ).
Sau Mậu thân, địch tăng cường càn quét
bình định, gây không ít khó khăn cho cách mạng ở vùng đô thị, đồng bằng, kể cả
vùng giáp ranh trên các chiến trường. Chiến thắng A Bia góp phần giữ vững hành
lang chiến lược, thúc đẩy phong trào đánh dịch ở đồng bằng Thừa Thiên.
Phát huy chiến thắng của trận ABia, ngày
4 tháng 6 năm 1969 Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế giao nhiệm vụ cho Tiểu
đoàn 3 đặc công của Quân khu được tăng cường Đại đội 20 đặc công của Trung đoàn
3, tiến hành trinh sát, nghiên cứu quân địch trong cứ điểm 817-Ta Tách và cứ
diểm Ba Đu, Tà Bạt. Sau khi được anh Ma Vĩnh Lan trung đoàn trưởng và anh Kiều
Tam Nguyên chính ủy trung đoàn giao nhiệm vụ, anh Nguyễn Duy Hào đại đội trưởng
cùng tôi đến gặp anh Trần Duy Thị tiểu đoàn trưởng và anh Lê Văn Doãn chính trị
viên Tiểu đoàn 3 để nhận nhiệm vụ cụ thể.
Tiểu đoàn 3 là đơn vị đặc công của Bộ
được huấn luyện rất cơ bản, được điều vào Quân khu Trị Thiên. Mới vào chiến
trường mấy tháng nhưng Tiểu đoàn 3 đã đánh thắng giòn giã trận Cô-Ca-Va, tiêu
diệt một cứ điểm của quân Mỹ ở tây Thừa Thiên. Trận Cô-Ca-Va là một trận thắng
có ý nghĩa lớn cả về quân sự và chính trị. Mở đầu cho một năm chiến đấu trong
thời kỳ mới. Chấm dứt thời kỳ khó khăn sau Mậu Thân. Ngày đó, được chiến đấu
trong đội hình của tiểu doàn 3, chúng tôi tin tưởng lắm. Tiểu đoàn trưởng là
anh Trần Duy Thị, quê ở Cẩm Hòa, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. (Sau này, anh Thị là Đại
tá, Phó Tư lệnh Binh chủng Đặc công). Chính trị viên tiểu đoàn là anh Lê Văn
Doãn, quê ở Thanh Hóa. Trong số cán bộ của Tiểu đoàn 3 ngày đó, có anh Lê Văn
Hân là chính trị viên Đại đội 3. Mấy chục năm sau, anh Lê Văn Hân là Trung
tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Nhiệm vụ của đại đội chúng tôi là chia
làm hai bộ phận: Lực lượng chính của đại đội tham gia cùng Tiểu đoàn 3 do anh
Thị tiểu đoàn trưởng chi huy đánh Ta Tách. Cử một mũi -mũi 3- do anh Trần Văn
Thành làm mũi trưởng- tham gia với Đại
đội 1 của Tiểu đoàn 3, do anh Vân tiểu đoàn phó chỉ huy đánh vào Ba Đu, Tà Bạt.
Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Đoàn cán bộ đi
trinh sát nghiên cứu địch ở Ta Tách lên đường do anh Thị và anh Doãn dẫn đầu.
Anh Hào và tôi cùng năm anh mũi trưởng, ba chiến sĩ trinh sát tham gia đoàn.
Chúng tôi vượt qua khu vực Kho 61 ở A Lưới, vượt qua thung lũng A Sầu, cắt đường ô tô đi sâu vào phía động Ta Tách.
Khi đến một khu rừng cách cao điểm Ta Tách chừng 5 km, có một con suối nhỏ, hai
bên bờ có nhiều cây to, anh Thị cho đoàn dừng lại và chọn làm nơi tập kết.
Buổi chiều hôm đó, trên đường đi, cánh trinh
sát bắt được một con rùa, cả bộ phận chúng tôi chặt cây bông báng lấy lõi nấu
với thịt rùa ăn rất ngon. Đang ăn, tôi chợt nghĩ, dân gian vẫn có câu:” gặp rắn
thì đi, gặp qui trở lạị”. Gặp rùa mà lại ăn cả thịt rùa thế này, chắc là báo
hiệu điềm không may sẽ xảy ra. Nghĩ vậy, nhưng tôi không dám nói ra. Bởi lẽ,
với tư cách là cán bộ chủ trì về chính trị lúc đó, tôi sợ anh em đánh giá mình
mê tín dị đoan, gieo rắc sự lo lắng, hoang mang ngay từ đầu cho mọi người. Khi
thực hiện những công việc hệ trọng mà lại nguy hiểm nữa, thì trạng thái tâm lý
cần được thoải mải, thanh thản, tự tin, tuyệt đối không ám ảnh, lởn vởn, vướng
víu vào những điều không cần thiết.
Tối hôm đó, ngủ lại bên bờ suối, mở đài bán
dẫn, tôi nghe tin thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam do
ông Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch. Chính phủ lâm thời là với Mặt trận Giải phóng
Miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch là nòng cốt cùng với
Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam do Luật sư Trịnh
Đình Thảo làm Chủ tịch lập ra. Đây là một sự kiện chính trị, đánh dấu bước phát
triển mới trong phong trào Cách mạng ở Miền Nam. Là những người lính cầm súng
chiến đấu trên chiến trường khi nghe tin này chúng tôi rất phấn khởi.
Theo thông báo của trên, tại Cao điểm 817
- Ta Tách lực lượng địch có một tiểu đoàn quân Mỹ thuộc Lữ đoàn 47 thủy quân
lục chiến. Đây là một căn cứ được bố trí vững chắc. Ở ngoài cùng là hàng rào
bằng cây đổ, tiếp đến là 3 hàng rào thép gai. Trong trận địa có hệ thống liên
hoàn chiến hào, giao thông hào, ụ súng, lô cốt.
Trên cơ sở phân công trước, Đại đội 20
chúng tôi được giao nhiệm vụ tổ chức 3 mũi đánh vào mỏm B nơi địch bố trí trận
địa pháo và một đại đội thủy quân lục chiến. Anh Hào và tôi thống nhất chia làm
3 tổ đi trinh sát ở 3 hướng. Hướng một do anh Hào đại đội trưởng phụ trách cùng
với anh Ba mũi trưởng Mũi 1 tiếp cận vào phía Nam. Hướng hai do tôi phụ trách
cùng với anh Ngãi mũi phó Mũi 4 (mũi trưởng Mũi 4 là anh Cao Hồng Nhụy bị ốm,
anh Ngãi đi thay) tiếp cận vào phía Đông. Hướng ba do anh Xuân mũi trưởng Mũi 2
tiếp cận vào hướng Tây. Tổ trinh sát hướng đông gồm có tôi, anh Ngãi và cậu Phết
- chiến sỹ trinh sát. Từ trưa, xuất phát
từ vị trí tập kết, chúng tôi cắt góc phương vị đi về phía đông. Đến 3 giờ chiều
gặp một hang đá kiểu hàm ếch ở chân cao điểm 817, cách địch khoảng 2 km, chúng
tôi chọn làm vị trí dừng chân. Từng người một thay nhau cảnh giới ở cửa hang,
chúng tôi tranh thủ chợp mắt để tối đi tiềm nhập. Mục tiêu tiềm nhập là phải
nắm được hệ thống chướng ngại vật, hệ thống công sự trận địa bố phòng và trận
địa pháo của địch. Đến 6 giờ tối, sau khi ăn lương khô xong, bỏ lại các thứ lặt
vặt, chúng tôi bắt đầu tiềm nhập vào đồn địch. Ngãi và Phết mang mỗi người một
khẩu AK báng gấp, hai quả lựu đạn ,dao găm. Tôi mang một khẩu súng ngắn, hai
quả lựu đạn, dao găm và một cái địa bàn. Từ ngoài, chúng tôi thực hành tiếp cận
kiểu sâu đo. Nghĩa là, lần lượt từng người tiếp cận lên phía trước rồi dừng lại
lợi dụng địa hình địa vật cảnh giới cho người sau tiến lên. Người sau lại tiến
sâu hơn nữa rồi lại làm nhiệm vụ cảnh giới. Cứ thế, đến 7 giờ tối chúng tôi đến
chân hàng rào đầu tiên. Bố trí cậu Phết trinh sát cảnh giới ở mép rào, tôi và
Ngãi bắt đầu động tác dùng tay dò mìn, chống rào, rồi lại dùng tay do mìn trong hàng rào để chui qua.
Sau khi tôi và Ngãi đã qua được rào, làm nhiệm
vụ cảnh giới cho Phết chui qua. Giữa hàng rào ngoài cùng với hàng rào thứ hai
là một bãi trống với chiều sâu chừng 70 mét, trừ đường tuần tra, còn lại địch
cài nhiều mìn sát thương và mìn chiếu sáng các loại. Ba anh em chúng tôi phải
vừa dò gỡ mìn vừa trườn lên phía trước. Cứ thế mất gần một tiếng đồng hồ chúng tôi
mới tới được hàng rào thứ hai. Cách tiếp cận giống như khi qua hàng rào thứ
nhất. Nhưng khi mới đưa mình ra khỏi hàng rào, tôi nghe thấy trong đồn địch rú
lên một hồi còi, tiếp đó là các loại súng của địch thi nhau bắn ra ngoài đạn
bay chiu chít, có cả những viên đạn vạch đường đỏ lừ.
Ba anh em nằm sát mặt đất chỉ ghé mắt
nhìn, nên không việc gì. Sự việc này chúng tôi đã lường trước. Theo qui luật,
hàng đêm địch vẫn bắn súng báo động. Khi đi trinh sát, kể cả lúc tiềm nhập vào
đánh, nếu không bình tĩnh, tưởng bị lộ mà phản ứng là rất nguy hiểm. Chừng 2
phút sau, tiếng súng im bặt, bốn bề lại vắng lặng. Khi chui qua hàng rào thứ 3,
nhìn đồng hồ đã 2 giờ sáng, tôi ra hiệu cho Ngãi và Phết quay ra theo đường cũ.
Khi ra, người bò sau cùng phải xóa hết dấu vết. Đến 5 giờ sáng, chúng tôi về
đến hang đá. Tôi bàn với Ngãi và Phết là sẽ tiềm nhập tiếp đêm mai nữa mới có
thể hoàn thành nhiệm vụ trinh sát, mục tiêu cuối cùng là phải vào tận trận địa
pháo.
Hôm sau, anh em chúng tôi thay nhau ngủ
ban ngày đến 6 giò tối lại đi tiềm nhập căn cứ địch. Đêm thứ hai vì đã biết
trước, tốc độ tiềm nhập nhanh hơn. Đến 1 giờ sáng, chúng tôi vào được tận trận
địa pháo, đặt được tay lên càng pháo, đếm được 4 khẩu rồi mới quay ra. Đêm thứ
hai đi trinh sát, có hai điều mà sau này tôi vẫn kể cho anh em trong đơn vị
nghe và suốt đời tôi không bao giờ quên. Đó là, khi mới rời trận địa pháo quay
ra, để căn giờ, tôi nhìn đồng hồ nhưng trời tối đen không thấy gì ( hồi đó
chúng tôi đang dùng đồng hồ Pôlzot của Liên Xô, không có dạ quang). Tôi lo trời
sáng mà không ra kịp thì nguy. Chợt thấy một đốm lửa nhỏ gần đó thỉnh thoảng
lại sáng hơn một ít, tôi nghĩ đó là một thân cây cháy dở, ở trên cao chốc chốc
gió thổi làm sáng lên. Tôi vừa trườn vừa bò lại gần hơn để xem giờ. Nhưng khi
lại gần sát thì thấy cây đen đó động đậy, tôi hú vía. Té ra đó là một thằng
lính Mỹ da đen đứng gác, đang hút điếu thuốc lá xì gà loại to bằng ngón tay
cái. Mỗi lần nó rít vào thì điếu thuốc đỏ rực lên. Tôi nhẹ nhàng quay lui.
Khi ra đến hàng rào cuối cùng, thứ tự chui ra
là, cậu Phết ra trước làm nhiệm vụ cảnh giới, tôi ra thứ hai, anh Ngãi ra sau
cùng. Khi đã ra ngoài hàng rào, nhìn về phía đông trời đã gần hửng sáng, tôi
ngoái lại thấy anh Ngãi đang nằm giữa hàng rào, trong tư thế quay đầu vào phía
địch tay lăm lăm khẩu súng và cho chân ra trước. Đã cho chân ra trước thì tốc
độ chậm lắm, hết vướng cái nọ sang vướng cái kia. Tôi phải gỡ cho anh Ngãi từng
tý một.
Xưa nay, mọi việc ở đời người ta đã khái
quát đầu có xuôi đuôi mới lọt, có lẽ xuất phát từ một một động tác cụ thể này
đây. Thời gian càng trôi đi, trời sắp sáng đến nơi rồi mà anh Ngãi vẫn loay
hoay trong hàng rào, tôi sốt ruột lo lắng vô cùng. Sợ nguy hiểm cho cả tổ một
phần, nhưng đáng lo hơn là làm lộ, làm lỡ kế hoạch chung của toàn tiểu đoàn,
nói rộng ra là toàn Mặt trận. Khi đã ra đến vị trí an toàn hơn, tôi nổi cáu hỏi
Ngãi:
- Trời sắp sáng rồi. Ông điên hay sao mà lại chui ngược thế ?
- Trời sắp sáng rồi. Ông điên hay sao mà lại chui ngược thế ?
Ngãi phân trần :
- Anh không hiểu. Khi Phết và anh ra thì tôi làm nhiệm vụ cảnh giới. Các
anh ra cả rồi, mỗi mình tôi ra sau phải quay lại tự cảnh giới cho mình và còn
phải xóa dấu vết nữa chứ. Nhỡ đang chui rào mà có một tốp lính địch đi tuần
phát hiện được thì sao? Nó đến lôi mình ra như lôi con cá mắc lưới ấy chứ!
Nghe anh Ngãi nói, thấy có lý, chúng tôi cùng cười. Sau này về hậu cứ
huấn luyện, tôi vẫn hay đùa với anh em trong đơn vị là khi đi trinh sát cần
phải học thêm khoản chui rào ngược, đặt tên là chui rào kiểu ông Ngãi.
Sau ba ngày đi trinh sát, chúng tôi quay
về khu vực tập kết để báo cáo. Nhìn thấy anh Lộc đại đội trưởng Đại đội 2 quấn
khăn trắng ngang đầu, tôi hỏi vì sao. Anh Lộc trả lời khi nó bắn súng báo động,
anh ấy cố nghển đầu lên nhìn để định vị các hỏa điểm, không may dính một viên
xẹt qua đầu, may chỉ là phần mềm.
Tôi hội ý với anh Hào trước khi báo cáo
tiểu đoàn. Kết quả hướng một tiếp cận ở phía nam, hướng 2 tiếp cận ở phía đông
đạt kết quả tốt. Riêng hướng tây, tổ trinh sát của anh Xuân mới vào được hàng
rào thứ hai, chưa vào được tận trong cùng trận địa. Vì vậy, khi nghe báo cáo,
anh Thị tiểu đoàn trưởng đã yêu cầu cần trinh sát thêm. Anh Hào phân công tôi
cùng đi lại hướng tây với anh Xuân một lần nữa mới bảo đảm chắc chắn. Thế là
tôi, anh Xuân mũi trưởng mũi 2 và hai trinh sát lại lên đường.
Trong chiến đấu đặc công, việc vào cứ
điểm địch để trinh sát (điều nghiên) chẳng khác một trận đánh, nhiều lúc còn
căng thẳng hơn. Trong chiến đấu còn có lực lượng và hỏa lực trong tay để tiêu
diệt địch. Còn đi trinh sát vào trong đồn địch chỉ có ba, bốn anh em, vũ khí
gọn nhẹ, chủ yếu là để tự vệ lúc cần thiết. Và mỗi trận đánh, để đảm bảo chắc
thắng, có khi phải vào căn cứ trinh sát nhiều lần. Trong điều kiện địch bố
phòng bằng nhiều lớp hàng rào, nhiều bãi mìn các loại, nhiều vọng gác, nhiều
lần tuần tra, việc một tổ trinh sát vào tận trung tâm địch, đòi hỏi phải có
quyết tâm cao, dũng cảm và mưu trí.
Tối hôm thứ nhất, sau khi đã qua được hai
hàng rào, đến hàng rào thứ ba, giao cho trinh sát cảnh giới, tôi và anh Xuân
luồn qua, mới đến giữa hàng rào thì bất ngờ có một tốp lính đi tuần, chúng tôi
nằm bất động chờ chúng đi qua để trườn tiếp. Nằm được mấy phút, không hiểu sao,
tôi buồn ngủ đến lạ lùng và thiếp đi. Đến khi anh Xuân dùng tay cấu nhẹ, tôi
mới giật mình tỉnh giấc, suýt nữa thì bật nên lời. Trong chiến đấu, tôi thường
có tật rất buồn ngủ trong 3 trường hợp: Khi ngồi trong hầm nghe pháo bắn cầm
canh; khi ngồi phục kích địch; và khi tiềm nhập vào đồn địch. Nói ra có người
không tin, nhưng đó là sự thật. Chẳng phải tôi bình tĩnh đến mức đó đâu. Theo
tôi, có thể do căng thẳng quá, thần kinh tôi không chịu nổi, đã chùng xuống quá
ngưỡng, gây buồn ngủ.
Đêm đó chúng tôi vào được trung tâm trận
địa địch rồi quay ra an toàn.
Sau khi trinh sát xong, cả đoàn cán bộ
quay về hậu cứ ở A-Lê-Thiêm báo cáo cấp
trên và làm các công tác chuẩn bị. Hôm thông qua kế hoạch tác chiến trên sa bàn
do anh Chu Phương Đới, Tư lệnh sư đoàn chủ trì. Tham dự còn có anh Thái Cán,
Tham mưu trưởng Sư đoàn và cán bộ các cơ quan Quân khu, Sư đoàn, Trung đoàn.
Sau khi nghe anh Trần Duy Thị, Tiểu đoàn trưởng báo cáo, các cơ quan thay nhau
phát biểu khá sôi nổi.
Trước khi kết luận và giao nhiệm vụ, anh Chu
Phương Đới nói :
- Từ sáng đến giờ chúng ta mới chỉ nghe
các đồng chí đại diện các cơ quan phát biểu. Tốt thôi. Nhưng đó đều là ý kiến
tư vấn của những người không trực tiếp đánh nhau. Bây giờ chúng tôi cần nghe
chính kiến của mấy đồng chí cán bộ phân đội – là những người trực tiếp chi huy chiến đấu. Sự thành bại của
trận đánh do kết quả thực hành chiến đấu của bộ đội ở cơ sở. Nào, tiểu đoàn 3
đã trình bày rồi, đến lượt cán bộ Đại
đội 20 phát biểu đi.
Anh Hào giao tôi phát biểu. Tôi nói là:
- Báo cáo Tư lệnh Sư đoàn, Đại đội 20 chúng tôi nhất trí hoàn toàn về
phương án tác chiến của toàn tiểu đoàn, do anh Thị tiểu đoàn trưởng trình bày.
Riêng ở hướng thứ yếu, chúng tôi đã tiềm nhập vào cả 3 phía của mỏm B, thấy
rằng, nếu bộ đội tiềm nhập tốt, khả năng mật tập có thể giành thắng lợi lớn.
Còn khi bị lộ mà phải cường tập thì rất khó khăn, vì ở đó có tới 3 lớp hàng rào
thép gai và một hàng rào cây đổ. Hơn nữa địa hinh ở ngoài vào rất dốc, hỏa lực
địch dễ phát huy tác dụng.
Tôi vừa trình bày xong, anh Chu Phương Đới nói ngay:
- Đồng chí Đẩu nói đúng đấy. Phải mật tập
chứ. Cường tập là vạn bất đắc dĩ thôi.
Sau phần thảo luận, Tư lệnh sư đoàn kết
luận giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 3 và Đại đội 20. Theo đó, Tiểu đoàn 3 được
tăng cường Đại đội 20 có nhiệm vụ tập kích, đánh tiêu diệt tiểu đoàn thủy quân
lục chiến Mỹ, phá hủy toàn bộ trận địa pháo. Phân công nhiệm vụ cụ thể là: Tiểu
đoàn 3 đảm nhận hướng chủ yếu đánh vào Sở Chỉ huy, 2 đại đội thủy quân lục
chiến Mỹ. Đại đội 20 đảm nhận hướng thứ yếu, đánh vào trận địa pháo và 1 đại
đội thủy quân lục chiến Mỹ.
Anh Chu Phương Đới, dân tộc Tày, quê ở xã
Hưng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, có 8 năm liền làm Tư lệnh Sư đoàn 324
trong kháng chiến chống Mỹ. Sau này anh là Thiếu tướng, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Quân
tình nguyện Việt Nam tại Lào (BTL 678). Năm 2006, anh Đới từ Cao Bằng về điều trị ở Viện Y học
dân tộc quân đội ở Hà Nội, biết tin tôi đến thăm, anh em ôn lại thời kỳ chiến
đấu ở chiến trường Trị Thiên ác liệt, khó khăn.
Sau khi nhận nhiệm vụ, chúng tôi tổ chức
hội nghị quân nhân, họp chi ủy, chi bộ để quán triệt và bàn biện pháp triển
khai thực hiện cụ thể. Ngoài việc thảo luận trên sa bàn, chúng tôi còn làm thao
trường mô phỏng, có hàng rào, lô cốt, chiến hào, trận địa pháo để luyện tập. Khí thế đơn vị hăng hái lắm. Anh
em tin tưởng và có quyết tâm cao. Trận này, do anh Dung bị sốt cao, đi tiểu ra
máu, anh Chúng bị tái phát vết thương ở đầu gối, vì còn mảnh đạn, nên không
tham gia được. Bởi thế, trong Ban chỉ huy đã phân công: Anh Hào, đại đội trưởng
đi cùng Mũi 1 do anh Ba làm mũi trưởng đánh vào hướng nam. Tôi với cương
vị phụ trách chính trị viên đại đội đi
với Mũi 2 do anh Xuân làm mũi trưởng đánh vào hướng tây. Còn hướng đông do anh Nhụy mũi trưởng cùng anh
Ngãi mũi phó Mũi 4 chỉ huy, không có cán
bộ đại đội đi cùng.
3 giờ chiều ngày 16 tháng 6 năm 1969,
chúng tôi xuất phát từ hậu cứ hành quân vào chân động Ta Tách, cùng đi còn có
anh Nguyễn Văn Thuận, quê ở Hương Khê, Hà Tĩnh, chủ nhiệm trinh sát Trung đoàn.
Đến 6 giờ tối, khi đã qua thung lũng A Sầu, bộ phận đi đầu vướng mìn nổ, 3
người hy sinh tại chỗ gồm: anh Thuận chủ nhiệm trinh sát, anh Ba mũi trưởng Mũi
1 quê ở xã Đức Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh và một chiến sĩ. Cậu Nguyễn
Văn Lợi quê ở nhà số 10, Ngô Gia Tự, thị trấn Từ Sơn, Bắc Ninh bị thương nặng
khiêng được một quãng ngắn thì hy sinh. Đây là một tổn thất khi chưa bước vào
chiến đấu. Sau khi an táng cho anh em xong, chúng tôi giao cho anh Thỏa mũi phó
thay thế anh Ba chỉ huy Mũi 1. Cả đại đội
tiếp tục đi vào vị trí tập kết và chuẩn bị mọi mặt theo kế hoạch chiến đấu.
7 giờ tối ngày 17 tháng 6 năm 1969, rời
vị trí tập kết, tôi cùng Mũi 2 bắt đầu tiềm nhập vào phía đồn địch. Lực lượng
Mũi 2 có anh Trần Viết Xuân mũi trưởng, anh Nguyễn Quốc Việt mũi phó và 3 tổ,
mỗi tổ có 5 người. Đến 8 giờ tối cả Mũi
2 đã đến mép ngoài hàng rào cây đổ. 12 giờ30 đêm chúng tôi đã luồn qua hàng rào
thứ nhất. Theo kế hoạch là tất cả các mũi trong toàn tiểu đoàn sẽ nổ súng vào
lúc 1giờ30 phút sáng. Hiệu lệnh nổ súng là quả bộc phá của Đại đội 2 đánh vào
sở chi huy tiểu đoàn địch. Nhưng bất ngờ lúc 1 giờ 5 phút, tôi nghe tiếng súng
nổ giòn giã ở phía đại đội 2. Anh Xuân nói nhỏ với tôi, chắc là hướng chủ yếu
bị lộ mất rồi anh ạ. Tôi bảo, hãy dừng lại, bình tĩnh nghe ngóng xem sao. Độ 10
phút sau, một tiếng nổ rất to ở trung tâm, chắc đó là quả bộc phá lệnh. Cùng
lúc tiếng B40, B41, tiếng bộc phá của bộ
đội ta nổ rền cả ở mỏm A và mỏm B. Tất cả các hỏa điểm trong mỏm B đồn địch
đồng loạt nhả đạn ra phía chúng tôi. Cối 81 ly, súng phóng lựu M79, ĐKZ, súng
chống tăng của địch bắn cấp tập ra ngoài hàng rào. Lúc này yếu tố bí mật không
còn nữa. Máy thông tin 2 oát bị hỏng, không liên lạc được với tiểu đoàn. Tình
huống lúc này buộc chúng tôi phải chọn lựa một trong hai cách: Hoặc là, cường
tập vượt qua hàng rào trong cùng, rồi tiến đánh các mục tiêu theo phân công.
Nhưng khoảng cách tới được mục tiêu còn khá xa, địa hình dốc, lại còn phải băng
qua 2 lớp hàng rào, bãi mìn, dưới làn đạn dày đặc của địch, thương vong sẽ
nhiều, khả năng tiến sát để đánh địch là rất khó. Hoặc là, nhanh chóng tổ chức
bắn yểm trợ và cho anh em rút ra ngoài. Kinh nghiệm cho thấy, trong tình huống
này, người chỉ huy phải quyết đoán
nhanh, dứt khoát. Nếu ngập ngừng hoặc phủ phục tại chỗ để chờ cơ hội là
rất nguy hiểm. Anh Xuân nói nhanh với tôi: “ Xin anh cho dùng hai khẩu B41
phóng mấy quả vào mấy hỏa điểm để anh em rút ra”. Tôi cho rằng, không còn cách
gì khác, lao lên cường tập thì cũng không đánh chiếm được mục tiêu, mà sẽ
thương vong hết. Thôi đành vậy. Tôi đồng ý với đề nghị của anh Xuân. Đây là một
quyết định ám ảnh cả đời tôi. Là người chủ trì cao nhất lúc đó, tôi dám chịu
trách nhiệm và sẵn sàng nhận kỷ luật của cấp trên về quyết định của mình. Có
thể, có người cho là quyết định rút lui trong trường hợp đó là do dao động ý
chí chiến đấu. Sợ chết ư? Đúng! làm người ai mà chẳng sợ chết. Song, một khi đã
ý thức được chết cho ai, vì cái gì, đem lại cái gì, thì con người ta lại sẵn
sàng đón nhận cái chết về mình một cách thanh thản. Thực ra, đã vào chiến
trường bao nhiêu năm, chiến đấu bao nhiêu trận rồi, thì coi việc vào sinh ra tử
như một lẽ tự nhiên. Nhưng, bao giờ cũng vậy, lòng quả cảm không đồng nghĩa với
sự liều lĩnh. Gần hai chục mạng người lao vào chắc chắn là hy sinh cả, mà cuối
cùng cũng chẳng giải quyết được gì, thậm chí chẳng diệt nổi một tên địch.
Nhiều năm sau này, tôi về Thái Bình họp mặt
một số lần với anh em cùng Đại đội 20 đặc công thuở đó: Tạ Ngọc Dũng quê ở xã
Nam Cường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Trần Quang Bình quê ở xã Hồng Tiến,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Bùi Văn Tường và Bùi Văn Ký quê ở xã Nam
Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Lê Văn Thảo quê ở Phường Nam Ngạn, thành
phố Thanh Hóa; Nguyễn Viết Hiền quê ở xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
Định; Mai Sĩ Thanh quê ở thành phố Thanh Hóa; Nguyễn Văn Tiên quê ở xã Tây
Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Trần Văn Tảo quê ở xã Nam Cường, huyện
Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Nguyễn Văn Quân quê ở xã Bình Định, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình,…Mọi người nay đã trên dưới sáu mươi tuổi, thành ông nội, ông
ngọai cả rồi. Anh em đều nói với tôi : “ Đêm hôm đó nếu anh không ra lệnh bắn
yểm trợ và rút ra ngay, mà cứ đánh thốc vào hoặc lừng khừng, ngập ngừng ở giữa
các lớp rào thì rồi cũng chẳng giải quyết được gì. Điều chắc chắn là toàn bộ
anh em chúng ta sẽ chết hết như Mũi 4 của anh Nhụy cả rồi”. Nghe xong, tôi
chẳng nói gì, lòng ngậm ngùi nhớ về gương mặt phúc hậu của anh Cao Hồng Nhụy và
những anh em Mũi 4 thuộc Đại đội 20 đặc công ngày đó.
Sau khi ra khỏi hàng rào cuối cùng, pháo
địch bắn phá dữ dội xung quanh cao điểm. Điều đặc biệt là, ở bên ngoài hàng rào
độ 100 mét, địch đã đặt sẵn nhiều thùng chất độc hóa học. Khi pháo bắn trúng
vào đó, chất độc bung ra trở thành một hàng rào chất độc. Mọi người bị cay sặc.
Chúng tôi phải cởi áo ra, lấy nước tiểu của mình thấm vào và đặt lên mũi để
vượt qua khu vực chất độc mờ mịt, ngột ngạt. Không biết sau này trong số đó có
ai bị nhiễm chất độc hóa học của Mỹ hay không.
Khi chúng tôi về đến vị trí tập kết, thì
Mũi 1 do anh Hào chỉ huy cũng vừa về.
Tôi báo cáo với anh Hào, thì anh Hào nói bên đó tình hình cũng giống như hướng
chúng tôi. Chờ đến trưa không thấy Mũi 4 của anh Nhụy trở về, chúng tôi bắt đầu
lo lắng. Trước khi đưa anh em về hậu cứ,
tôi và anh Hào trèo lên đài quan sát để nhìn lại vào trong căn cứ địch. Qua ống
nhòm, chúng tôi thấy trong đó nhiều nơi vẫn còn khói lửa âm ỷ cháy. Một chiếc
trực thăng đang nổ máy tại chỗ, lố nhố mấy tên Mỹ đang áp giải một số chiến sỹ
ta (chắc là đã bị thương) bị địch bắt đưa lên máy bay. Chúng tôi nhận định là,
Mũi 4 đánh vào bị mắc kẹt trong căn cứ, hy sinh gần hết, còn một ít bị thương
rồi bị địch bắt. Thương xót anh em vô cùng mà chẳng biết làm sao.
Hôm sau, tôi hỏi lại anh Lộc đại đội
trưởng Đại đội 2 – mũi chủ yếu, tại sao ở phía bên này, chúng tôi nghe súng nổ
khoảng 10 phút rồi bộc phá lệnh mới nổ và kết quả ở hướng chủ yếu thế nào. Anh
Lộc cho biết là, khi đang tiềm nhập qua hàng rào cuối cùng, thì bất thần các
loại súng trong đồn bắn ra rất mạnh, tổ mũi nhọn 3 người hy sinh hết, chi ủy Đại đội 2 trao
đổi chớp nhoáng với nhau là địch bắn báo động theo qui luật chứ không phải bị
lộ, và cử người khác thay thế tổ mũi nhọn để tiếp cận vào đánh. Khi cả mũi đã
lọt qua hàng rào, thì bất ngờ một tốp lính Mỹ đi tuần. Anh Lộc cho anh em dùng
AK bắn liền mấy loạt. Mấy tên Mỹ chết gục tại chỗ, số còn lại chạy thục mạng vào trong. Mấy
phút sau, tổ mũi nhọn mới lao lên đánh vào hầm chỉ huy và các mục
tiêu lân cận. Do bị thương vong cả khi tiềm nhập và cả khi đánh vào trong, mũi
chủ yếu không đủ lực lượng đánh tiếp, đành phải rút. Anh Lộc mặc dù đã bị
thương vào chân, vẫn cố dìu được thương binh khác đưa ra ngoài. Ở các hướng
khác đều phát triển không thuận lợi.
Như vậy là, trận tấn công quân địch ở Cao
điểm 817 - Ta Tách đã không giải quyết dứt điểm được. Chỉ đánh thiệt hại một bộ
phận, tiêu hao một số sinh lực, phá hủy một số công sự và phương tiện của địch.
Về phía ta bị thương vong tương đối lớn. Riêng Đại đội 20 chúng tôi bị mất toàn
bộ mũi 4. Trước đó, trong trận Ba Đu,Tà Bạt do anh Vân chỉ huy cũng đã bị “phơi
áo” anh em thương vong nhiều, không hoàn thành nhiệm vụ. Cả mũi 3 của Đại đội
20 chúng tôi tham gia trận đó do anh Thành mũi trưởng chỉ huy đều bị hy sinh
hết.
Cả đơn vị về hậu cứ, một không khí buồn
bã, u uất, nặng nề bao trùm lên toàn thể cán bộ, chiến sĩ. Quân số đại đội có
85 người thì 30 người hy sinh, 25 người bị thương. Tinh thần chiến đấu của anh
em bị giảm sút, thiếu tin tưởng vào cách đánh đặc công. Thêm vào đó, lương thực
thiếu thốn, mỗi người mỗi ngày chỉ được 2 lạng gạo, còn lại phải ăn sắn, muối
ăn cũng khan hiếm, đời sống khó khăn. Nội bộ đơn vị xuất hiện tình hình mất
đoàn kết.
Tôi nhớ lúc họp rút kinh nghiệm ở Trung
đoàn, anh Đinh Minh Chúng đại đội phó đã phê phán gay gắt và còn văng tục.
Không giữ được bình tĩnh, tôi nổi cáu:
-
Này ông Chúng, ông nói gì thế? Ông dũng cảm, giỏi giang, nhưng khi anh em đi
trinh sát trong căn cứ địch và đi đánh, thì ông lại ngồi ở hậu cứ, để bây giờ
ông phán. Nói sau bao giờ chả đúng! Còn việc ông nói tục, nói bậy là không xong
với tôi đâu. Nói nữa là tôi bạt tai ông đấy.
Chúng cũng chẳng vừa, mặt đỏ tía tai, mắt
trợn trừng, quát lớn:
- Tôi nói thế đấy, ai làm gì nào. Tôi không đi được là do vết thương tái
phát chứ. Bao nhiêu đồng đội hy sinh vì chỉ huy kém cỏi, liều lĩnh. Còn ông Đẩu
làm chính trị viên mà dọa đánh tôi hở. Được thôi. Có giỏi thì đánh đi. Ông được
10 phần thì tôi cũng được 8 chứ, sợ gì ông…
Không chờ Chúng nói hết câu, tôi lao vào giáng cho Chúng mấy quả đấm.
Chúng vừa chống đỡ, vừa hét toáng lên:
- Anh em ơi, ông Đẩu chính trị viên đánh
tôi.
Tôi hăng máu vừa đánh vừa nói to:
- Nhân danh những người đã hy sinh và những người đang sống, tôi phải
trị ông. Đây là thằng Đẩu đánh thằng Chúng, bạn nó, vì nó nói bậy, chứ chẳng có
chính trị gì ở đây cả.
Mấy anh em chạy lại can, đưa mỗi người ra một
góc. Sau đó, tự mình, chúng tôi biết là sai nên ân hận. Đây là biểu hiện điều
bức xúc trước sự tổn thất của đơn vị, thương xót những những đồng đội đã hy
sinh. Chứ thực ra giữa tôi và Chúng chẳng có thù oán gì, thậm chí chơi thân với
nhau từ khi cùng chiến đấu với nhau ở Tiểu đoàn 929.
Ngày hôm sau, anh Lê Văn Dánh phó chính ủy Trung đoàn - vốn là thủ trưởng cũ
của chúng tôi khi còn ở Tiểu đoàn 929- cho gọi tôi và Chúng lên. Vừa nhìn thấy
chúng tôi bước vào, anh Dánh trừng mắt quát lớn:
- Thế nào hai ông? Các ông đẹp mặt quá
nhỉ. Cán bộ đại đội đánh nhau. Từ khi tôi vào bộ đội đến bây giờ chưa thấy ai
thế bao giờ. Trẻ con quá đấy. Đã hai mốt, hai hai tuổi rồi. Là lính Tiểu đoàn
929 với nhau, tôi thật xấu hổ về các ông.
Ngừng một lát, không cho chúng tôi kịp phân
trần, anh Dánh nói luôn:
- Thôi! Không nói gì cả. Có lỗi thì sửa.
Tôi thông cảm cho hành động nóng nẩy, bột phát, thiếu suy nghĩ của các ông. Bây
giờ về đơn vị, hai ông phải cùng nhau chung sức, chung lòng xây dựng đơn vị.
Sau này nếu còn tiếp diễn cảnh đó là không xong đâu nhé. Sẽ kỷ luật nặng đấy.
Thôi ! có mấy bánh lương khô đây, vào ăn đi rồi mà về.
Cả
hai chúng tôi ra về sau cái bắt tay xiết chặt, nồng ấm, chân thành của anh
Dánh. Cách của anh Dánh là vậy. Ở với nhau bao nhiêu năm rồi, anh hiểu chúng
tôi và chúng tôi cũng rất hiểu anh. Anh là mẫu cán bộ chính trị của công việc,
luôn luôn bám sát thực tế chiến đấu, gương mẫu, miệng nói tay làm. Trong lãnh
đạo, anh không nhiều lời giải thích dài dòng. Anh đề cập mọi vấn đề một cách
trực diện, thẳng thắn, chính kiến rõ ràng, hiệu quả.
Sau trận đánh Ta Tách và Tà Bạt, đại đội
chúng tôi được giao tập kích quân địch ở cao điểm 354. Ở trận này, sau khi
trinh sát kỹ, nắm rất chắc việc bố phòng của địch, Ban Chỉ huy đại đội quyết
định chỉ dùng có 11 chiến sỹ do anh Bùi Công Tiếp mũi trưởng chỉ huy. Trận đánh
nhanh gọn hiệu suất chiến đấu cao. Ta đánh thiệt hại nặng một đại đội quân Mỹ.
Phía ta hy sinh một người là Phạm Xuân Khu, xạ thủ B40, quê ở xã Bình Định,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sau này đã có lần tôi đến nhà thăm bố mẹ Khu
và thắp hương cho Khu.
Trong trận này có tình huống: Khi cả tổ đã tiềm nhập vào bên trong cứ điểm
địch, thì có một tên Mỹ lao ra bế xốc tổ trưởng Nguyễn Viết Hiền và quật xuống.
Quá bất ngờ, tên Mỹ thì cao to, Hiền thì nhỏ con không làm sao gượng lại được.
Loay hoay mất gần 1 phút, Hiền rút được một quả thủ pháo, đưa tay ra phía sau lưng
tên Mỹ, giật nụ xòe. Nụ xòe kêu đánh tách, lửa phụt ra, tên Mỹ hoảng quá buông
Hiền bỏ chạy. Ngay tức khắc, Hiền ném
quả thủ pháo, tên Mỹ bị chết tại chỗ. Vì quả thủ pháo nổ quá gần, Hiền bị
thương vào mắt. Hiền vốn là liên lạc của tôi mới đưa xuống làm tổ trưởng.
Khi về tới vị trí tập kết, tôi hỏi Hiền:
-
Làm sao không cho tên Mỹ ấy một nhát dao có gọn hơn không?
Hiền
nhỏ nhẹ trả lời:
- Thủ trưởng ạ, nó ôm ghì em chặt lắm
không cựa quậy nổi, may mà thò tay rút được quả thủ pháo, nghĩ rằng, sẽ cùng chết
chung với nó. Ai ngờ, nó hoảng quá buông ra, em ném luôn vào chân.
Nguyễn Viết Hiền quê ở xã Xuân Bắc, huyện
Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Hiện nay là thương binh ở quê. Năm 2003, tôi đã về
quê thăm gia đình Hiền.
Giữa năm 1969, đơn vị chúng tôi hoạt động
bám trụ chiến trường ở vùng núi tây Thừa Thiên. Lúc này đời sống khó khăn, gian
khổ lắm. Đang giữa mùa mưa, thời tiết ở rừng nặng nề. Từ sáng sớm đến chiều tối
mưa dai dẳng, cả ngày trời tối xầm. Lương thực thiếu thốn, mỗi người mỗi ngày
chỉ có 2 lạng gạo. Phải độn thêm ngô, sắn, chêm thêm măng, các loại rau tàu
bay, môn thục, dương xỉ và cả đọt lá sắn nữa mới đủ no. Thực phẩm không có.
Muối ăn cũng rất thiếu. Anh em trong đơn vị sốt rét nhiều. Tôi bị sốt rét mấy
ngày liền, không ăn uống gì được, người gầy xọp đi.
Giữa lúc đó, Đài Tiếng nói Việt Nam bất
ngờ thông báo về tình hình sức khỏe của
Bác Hồ. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn không thể quên được giọng đọc trầm
buồn, xúc động, nghiêm trang của người phát thanh viên trên Đài Tiếng nói Việt
Nam ngày đó. Ai nấy đều dừng tất cả mọi công việc, chăm chú, lo lắng, hồi hộp
lắng nghe. Rồi tiếp đến, chúng tôi đau đớn bàng hoàng nghe tin Bác Hồ từ trần.
Mọi người chúng tôi đều khóc. Một không khí đau thương trùm lên toàn đơn vị.
Theo thông báo của trung đoàn, chúng tôi tổ chức Lễ truy điệu Bác vào ngày 9
tháng 9, đúng với giờ Đài Tiếng nói Việt Nam tường thuật Lễ truy điệu ở Quảng
trường Ba Đình Hà Nội.
Đang lên cơn sốt rét, mặt đỏ phừng, chân
đi không vững, trời lại đang mưa tầm tã, cậu Long y tá đại đội đưa tôi uống mấy
viên Vitamin B1 rồi khoác tấm ni lông dìu tôi ra hội trường đại đội. Đó là một
cái hầm lộ thiên rộng, có hào râu tôm thông ra xung quanh. Anh em đã làm một
bàn thờ Bác, không có ảnh, không hương hoa. Đúng giờ, theo tiếng hô của anh
Trần Viết Xuân đại đội phó, cả đại đội gần trăm con người ngẹn ngào đứng dậy
trang nghiêm mặc niệm Bác. Mặc niệm xong, anh Xuân giới thiệu tôi lên phát
biểu. Tôi bước lên bục nói vo không giấy tờ nhưng đủ ý và xúc động. Bằng nhận
thức và tình cảm của mình, tôi nói ngắn, đại ý là: Khái quát về thân thế, sự
nghiệp và công lao vĩ đại của Bác Hồ đối với dân tộc Việt Nam. Bác Hồ mất đi là
một tổn thất vô cùng to lớn, không có gì bù đắp được đối với nhân dân và cách
mạng, để lại cho chúng ta sự tiếc thương vô hạn. Để xứng đáng với lòng mong
muốn của Bác, chúng ta - những người lính trực tiếp cầm súng chiên đấu trên
chiến trường - nguyện vượt qua mọi khó khăn, ác liệt, hy sinh, tiếp tục quyết
tâm chiến đấu giành thắng lợi lớn hơn, tiến tới thắng lợi cuối cùng. Sau phát
biểu của tôi, theo chương trình, một cán bộ và một đảng viên trẻ lên phát biểu
cảm tưởng và hứa quyết tâm. Cả hai người đều nói ngắn nhưng rất tình cảm và rất
đúng. Đó là những lời nói mộc mạc, dung dị nhưng rất chân thành, được chắt ra,
thốt lên tự đáy lòng.
Tháng 10 năm 1969, tôi được cử đi tập
huấn ở Quân khu Trị Thiên. Đối tương dự tập huấn là cán bộ cấp đại đội, tiểu
đoàn các đơn vị chiến đấu và một số cán bộ cơ quan Sư đoàn, Quân khu. Làm cán
bộ mấy năm rồi, mãi đến lúc đó tôi mới được đi tập huấn những kiến thức cơ bản
về quân sự, chính trị trong lãnh đạo, chỉ huy quản lý đơn vị. Phần đông cán bộ
trưởng thành trong chiến đấu là vậy. Ở chiến trường, lớp sau học lớp trước
và đồng thời tự mình rút kinh nghiệm qua
thực tiễn chiến đấu công tác là chính. Chúng tôi tập huấn ở Hội trường Thanh
niên, gần dốc Cao Bồi (tôi cũng không hiểu tại sao lại gọi như vậy). Giáo viên
dạy quân sự là anh Dương Bá Nuôi tham mưu phó Quân khu và các anh cán bộ chủ
chốt trong Bộ Tham mưu Quân khu. Giáo viên dạy chính trị là anh Thanh Quảng,
Phó Chính ủy Quân khu (ngày đó gọi là ông Hồ Tú Nam), anh Trần Văn Ân, Chủ
nhiệm Chính trị Quân khu, anh Mai Trọng Thường, Cục phó Cục Chính trị, anh Lê
Khả Phiêu, Trưởng phòng Tổ chức, anh Kiều Tam Nguyên , Trưởng phòng Tuyên
huấn,..Nhạc sĩ Trần Hoàn (ngày đó có tên là Hồ Thuận An) Phó ban Tuyên huấn Khu
ủy có đến giảng bài.
Bằng năng lực, kinh nghiệm, trách nhiệm và
tình cảm của mình, các anh lãnh đạo đã tận tình giảng giải cho lớp cán bộ trẻ
chúng tôi về nội dung, hình thức và phương pháp trong tiến hành lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị. Quả thật lúc đó, đầu óc chúng tôi như tờ giấy trắng, có chí tiến
thủ, đang khát khao hiểu biết để soi rọi, kiểm chứng vào thực tiễn sinh động
đang diễn ra ở chiến trường. Lại được các anh vừa có kiến thức sâu sắc, vừa có
sự trải nghiệm phong phú giảng giải cho, chúng tôi hứng thú, tin tưởng và ngưỡng mộ vô cùng.
Chúng tôi chăm chú say mê nghe giảng bài như nuốt lấy từng lời, uống lấy từng
đơn vị kiến thức. Đúng như Bác Hồ đã từng nói với học viên ở một lớp đào tạo
cán bộ: ”Học để làm người, học để làm cán
bộ”. Có những điều trước đây
chúng tôi mò mẫm làm, nay đối chiếu lại thấy có cái đúng, cái dở. Lớp học ngắn
thôi, nhưng trong hoàn cảnh đó, đã trang bị cho chúng tôi rất nhiều điều bổ
ích.
Sau khi tập huấn ở Quân khu về, tôi được
đề bạt lên cấp đại đội bậc trưởng (nếu ra Bắc thì được phiên sang là thượng
úy), đồng thời được bổ nhiệm làm Trợ lý thanh niên của Trung đoàn thay anh Bùi
Anh Sum quê xã Diễn Viên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An sang làm Trưởng tiểu
ban Tuyên huấn Trung đoàn. Trưởng tiểu ban Tuyên huấn trước đó là anh Nguyễn
Thái được điều động đi làm chính trị viên Tiểu đoàn 7 thay anh Trần Triền.
Khi giao nhiệm vụ cho tôi, anh Lê Văn Dánh,
Chính ủy Trung đoàn đã nói:
-
Đẩu ạ, em vừa tròn 21 tuổi. Em là cán bộ hăng hái sôi nổi, nói được, viết được, làm được, đảm nhiệm chức
vụ Trợ lý thanh niên Trung đoàn là phù hợp,
xứng đáng. Cả trung đoàn hơn hai nghìn quân, tất cả cán bộ cấp phân đội
và chiến sĩ đều đang độ tuổi thanh niên. Em phải tham mưu cho Chủ nhiệm chính
trị Trung đoàn, chỉ đạo các đơn vị trong toàn Trung đoàn làm tốt hai khâu : Một
là, Kiện toàn, củng cố tổ chức Đoàn luôn luôn vững mạnh, xứng đáng là trường
học, là chỗ dựa của thanh niên, đồng thời là cánh tay đắc lực của tổ chức Đảng
ở cơ sở; Hai là,Tăng cường giáo dục đoàn viên thanh niên về lý tưởng, niềm tin.
Cách giáo dục không cứng nhắc, phải phong phú, sinh động phù hợp với “khẩu vị”,
với nhu cầu tâm lý của thanh niên. Từ đó, động viên thanh niên hăng hái làm lực
lượng xung kích trong mọi mặt hoạt động của đơn vị. Kịp thời cổ vũ những gương
điển hình tiên tiến trong chiến đấu, công tác để nhân rộng ra trong toàn đơn
vị.
Nghe xong, tôi hứa sẽ cố gắng hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ, đồng
thời mong các anh chỉ huy lãnh đạo, mà nhất là Chỉnh ủy, quan tâm giúp đỡ.
Là trợ lý thanh niên của Trung đoàn, tôi
luôn bám sát các đơn vị. Khi xuống đơn vị, tôi không đơn thuần làm công tác
thanh niên mà là phái viên của cơ quan chính trị Trung đoàn đến kiểm tra, phát
hiện, hướng dẫn, tham gia chỉ đạo các
mặt công tác đảng, công tác chính trị và các lĩnh vực khác của đơn vị cơ sở.
Cùng ăn ở, cùng tham gia hoạt động chiến đấu, công tác với bộ đội, lúc đó, đối
với tôi có nhiều điều lý thú. Tuổi trẻ, sức khỏe, những kiến thức thu lượm
được, cộng với một số kinh nghiệm trong chỉ huy, lãnh đạo trước đây, đã giúp
tôi làm được nhiều việc hữu ích tại các
đơn vị trong Trung đoàn. Nói chung là,
tôi được lãnh đạo, chỉ huy và nhất là anh em thanh niên ở các đơn vị thân quí.
Tháng 8 năm 1970, Trung đoàn 3 đang tham
gia chiến dịch Cốc Bai ở tây Thừa Thiên, tôi được Ban Chính trị cử làm phái
viên đốc chiến ở Tiểu đoàn 9. Cùng làm phái viên như tôi, Ban Tham mưu trung
đoàn cử anh Cao Sĩ Nguyên trưởng tiểu ban Trinh sát ( anh Nguyên cùng chiến đấu
với tôi hồi còn ở Tiểu đoàn 929; sau này, anh đã nghỉ hưu ở quê - Tân Đức,
Tuyên Hóa, Quảng Bình).
Khoảng 3 giờ chiều, khi Tiểu đoàn 9 vừa mới
dừng lại chưa kịp bố trí xong đội hình chiến đấu, thì lực lượng địch khoảng một
tiểu đoàn quân ngụy xuất hiện ở tiền duyên. Đảng ủy và Ban chỉ chỉ huy tiểu
đoàn họp gấp, mời tôi và anh Nguyên cùng dự. Ban chỉ huy tiểu đoàn 9 lúc đó có
anh Lê Văn Tành, tiểu đoàn trưởng, quê ở Đại Phong, Lệ Thủy, Quảng Bình; anh Nguyễn Thụy, bí thư đảng ủy, chính trị
viên tiểu đoàn quê ở Tào Sơn, Anh Sơn, Nghệ An (mấy năm trước đó, hồi còn chiến
đấu ở Lào, tôi đã từng làm liên lạc cho anh Thụy, khi anh ấy làm chính trị viên
đại đội ); tiểu đoàn phó là anh Nguyễn Đăng Loạt quê ở Quảng Văn, Quảng Trạch,
Quảng Bình; chính trị phó là anh Lê Văn Tình quê ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Khi họp
bàn, có hai loại ý kiến khác nhau: đánh, chưa đánh, chưa ngã ngũ. Ý kiến đánh,
cho rằng, địch mới đến chưa có công sự, ta bất ngờ đánh phủ đầu ngay, địch bị
bất ngờ không kịp trở tay, chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Ý kiến chưa
đánh, cho rằng, không nên nóng vội, cần phải có thời gian nắm địch,
phải chắc thắng mới đánh. Nghe ra, ý kiến nào cũng có lý. Anh Thụy bí thư đảng
ủy, chính trị viên tiểu đoàn quay sang tôi và anh Nguyên. Anh nói:
- Đề nghị hai đồng chí phái viên
của Trung đoàn cho ý kiến.
Tôi phát biểu ngay:
- Ý kiến của anh Nguyên như thế nào tôi chưa biết. Nhưng theo tôi, đây
là thời cơ tốt, Tiểu đoàn 9 cần phải tổ chức đánh ngay khi địch vừa hạ ba lô,
chưa có công sự. Đánh địch ngoài công sự, trên mặt đất, bao giờ cũng thuận lợi
hơn đánh địch trong công sự. Không cầu toàn việc nắm địch. Quá trình tác chiến,
theo sự phát triển cụ thể sẽ tùy cơ ứng biến.
Dừng một chút, nhìn qua một lượt, xem xét
thái độ của mọi người, để tiếp tục khẳng định, tôi nói thêm:
- Với tư cách phái viên của Trung đoàn, chính kiến của chúng tôi là vậy.
Còn đánh hay không là quyền của các đồng chí. Nhưng kiểu gì, Tiểu đoàn 9 cũng
đều phải báo cáo về Thủ trưởng Trung đoàn.
Tôi vừa dứt lời, anh Nguyên nói tiếp:
- Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của anh Đẩu. Không sợ gì cả, Tiểu đoàn
9 đang sung sức, các anh cứ mạnh dạn cho đánh ngay. Theo tôi, vắn tắt cách đánh
là thế này: Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 12 hỏa lực cấp tập một đợt ngắn rồi cho
Đại đội 9 và Đại đội 11 đánh thốc lên. Nên để Đại đội 10 làm lực lượng dự bị.
Anh Nguyên nói xong, anh Thụy hỏi có ai ý kiến gì khác không? Cả hội
nghị nhất trí và thông qua phương án tác chiến cụ thể.
5
giờ chiều bắt đầu nổ súng. Đến chập tối, thì Tiểu đoàn đánh tan tiểu đoàn địch.
Đêm đến, khi quân địch co cụm lại, Tiểu đoàn 9 còn tổ chức tập kích bằng hỏa
lực cối 82 ly và ĐKZ 75 ly. Trận đó tiểu đoàn 9 giành thắng lợi lớn.
Sau chiến dịch, trong một cuộc họp, anh
Lê Văn Dánh, Chính ủy trung đoàn đã khen ngợi chiến công của lãnh đạo, chỉ huy
và toàn thể cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 9. Đồng thời, anh biểu dương hai phái
viên đốc chiến của trung đoàn, với trách nhiệm, ý chí, kinh nghiệm và uy tín
của mình, đã có những đóng góp đáng kể vào chiến công đó.
Tháng 7 năm 1970, khi giữ chức Trung đoàn
trưởng, trong lần dẫn bộ phận cán bộ đi trinh sát ở vùng A Lưới, gần Đường 12
tây Thừa Thiên, anh Nguyễn Hoán bị trực thăng địch phát hiện, chúng bắn rất rát
và hạ cánh đổ quân xuống đánh chụp. Khi đã bị thương, anh hô cậu Nhật liên lạc
chạy thật xa. Anh ném quả lựu đạn còn lại và bắn hết viên đạn cuối cùng rồi vứt
khẩu súng ngắn cách chỗ anh hy sinh đến hơn chục mét, chắc là không để cho địch
thu được. Đến khi Nhật dẫn chúng tôi chạy đến thì địch đã rút, anh đã hy sinh.
28 năm sau, năm 1998, tôi mới có dịp tìm được gia đình anh Hoán ở Vinh, trong khu tập thể gia đình quân
nhân. Bây giờ thì chị Lan vợ anh và cháu Hoài con gái duy nhất của anh chị
không còn ở Vinh nữa mà đã chuyển nhà vào thị xã Hà Tĩnh. Trước đây, khi còn
công tác, hàng năm tôi vẫn đến thăm gia đình, thắp hương anh Hoán.
Tháng 10 năm 1970, anh Trương Anh Dung
chính trị viên Đại đội 20 đặc công bị ốm nặng, hình như bị viêm cầu thận, phải
đi điều trị dài ngày ở Bệnh viện 68 của Quân khu. Chỉ huy và anh em Đại đội 20
đề nghị cấp trên cho tôi về lại đơn vị. Tôi cũng thích thế. Nhưng Ban Chính trị
Trung đoàn không đồng ý, với ý định sẽ bố trí tôi vào cương vị khác cao hơn. Cơ
quan đưa ra mấy phương án lựa chọn người về thay anh Dung, nhưng đều không được
Đảng ủy, Thủ trưởng Trung đoàn đồng ý. Cuối cùng, lãnh đạo chỉ huy Trung đoàn
đành cho tôi trở lại làm chính trị viên Đại đội 20 đặc công; đồng thời, chỉ
định tôi vào Đảng ủy cơ quan Tham - Chính (tức là Đảng ủy gồm các đơn vị: Ban
Tham mưu, Ban Chính trị Trung đoàn và Đại đội Trinh sát, Đại đội Đặc công).
Tôi về lại Đại đội 20 đặc công, dù mới xa
hơn một năm mà đã có nhiều thay đổi. Anh Hào đại đội trưởng chuyển sang làm
tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 9 đã hy sinh ở Cốc Muộn. Anh Dung sau khi khỏi bệnh
được điều động lên Ban Chính trị Trung đoàn. Khi tôi về, anh Đinh Minh Chúng
làm đại đội trưởng, anh Trần Viết Xuân làm đại đội phó, anh Lê Văn Rật quê ở xã
Liên Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng làm chính trị phó. Một thời gian
sau, trên điều động anh Chúng đi làm tham mưu trưởng Tiểu đoàn 9. Vì đã cùng
chung sống, chiến đấu với nhau nhiều năm, với biết bao kỷ niệm vui buồn, nên
ngày chia tay, anh Chúng và tôi ôm nhau nghẹn ngào khóc. Trên bổ nhiệm anh Trần
Viết Xuân quê xã Hương Thu, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, làm đại đội trưởng.
Sau mấy năm hoạt động ở chiến trường, đời
sống kham khổ, một vài trận chiến đấu không dứt điểm, tỷ lệ thương vong cao,
nội bộ không thật sự đoàn kết, thiếu tin tưởng. Không khí chung của đơn vị trầm
lắng. Trước tình hình đó, việc đầu tiên khi tôi về là bàn bạc cùng các anh
trong Chi ủy và Ban Chỉ huy nhanh chóng chấn chỉnh lực lượng, kiện toàn tổ
chức, biên chế. Cán bộ các mũi, các tổ
có sự điều chỉnh thích hợp hơn. Tiếp đó, chúng tôi lập kế hoạch tăng cường
luyện tập kỹ, chiến thuật; duy trì có chất lượng các chế độ sinh hoạt giáo dục
chính trị, lãnh đạo tư tưởng, rèn luyện kỷ luật, phát huy dân chủ, tăng cường
đoàn kết cán binh, xây dựng củng cố quyết tâm chiến đấu,…Sau một thời gian,
tình hình chung của đơn vị có nhiều chuyển biến tích cực. Từng bước, mọi hoạt
động đi vào nền nếp, khí thế hăng hái sôi nổi hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét