Chương
hai
Trên chiến trường nước bạn Lào
Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau “Sự kiện
vịnh Bắc Bộ”, đế quốc Mỹ cho không quân ồ ạt ném bom bắn phá Miền Bắc. Nhiều
nơi ở thành phố Vinh và Bến Thủy bị máy bay oanh kích. Rất bất ngờ, chẳng ai
biết trước. Cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của giặc Mỹ kéo dài gần một
thập kỉ với biết bao đổ nát, tang tóc, ập đến những người dân lành đầu trần,
chân đất quê tôi là vậy đó. Giữa trời nắng chói chang, nhiều nhà vừa ăn cơm
xong đang nghỉ trưa, thấy máy bay nhào liệng vun vút giữa trời cao, nhiều người
thấy lạ, hiếu kỳ xúm xít đứng xem, gọi nhau, hỏi nhau í ới. Sau đó nghe tiếng
nổ rất to đanh rền của bom, tiếng nổ lụp bụp của pháo cao xạ, biết là máy bay
Mỹ ném bom, mọi người nháo nhác hoảng
loạn. Nhìn lên phía Vinh thấy một cột khói đen kịt bốc cao lên tận trời. Mấy
ngày sau mới biết, đó là kho xăng dầu mỡ bị trúng bom, bốc cháy dữ dội, kéo
dài.
Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy
máy bay phản lực Mỹ. Hầm hố trú ẩn chưa có, mọi người hốt hoảng chạy nhào xuống
rào, nhảy đại xuống mương thủy lợi ở mép làng. Hễ có chỗ nào thấp và có cây
cối rậm rạp là chạy rạt xuống. Chưa có
kinh nghiệm gì. Mọi người cứ nghĩ là,
những chỗ đó máy bay không thấy hoặc bom nổ cũng đỡ thương vong hơn.
Nghe kể, có người chui đầu vào một cái hố, khi hết máy bay, kêu toáng lên vì
không ra được. Đầu mắc kẹt trong hố, chân tay vùng vẫy, khua khoắng ở ngoài.
Mọi người đến kéo ra, hỏi tại sao làm vậy. Thì người đó trả lời: “ Khi máy bay
ném bom, cố giữ lấy cái “gáo”. Chân tay có trúng đạn, chỉ bị thương thôi, cùng
lắm là cụt. Còn cái đầu mà trúng thì chỉ có chết. Hơn nữa cho đầu vào trong,
nghe tiếng bom nhỏ hơn, đỡ sợ hơn”.
Sau này tôi được biết, sự thực của “Sự
kiện Vịnh Bắc Bộ” là: Trước thất bại
nặng nề trên chiến trường Miền Nam, từ giữa năm 1964, đế quốc Mỹ có dã tâm dùng
không quân và hải quân đánh phá ác liệt Miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của
hậu phương lớn Miền Bắc đối với tiền tuyến lớn Miến Nam. Các nhà hoạch định
chiến lược của Mỹ đã tạo cớ bằng một kịch bản là cho tàu hải quân của Hạm đội 7
xâm phạm, khiêu khích, khiêu chiến trong vùng biển Miền Bắc Việt Nam. Trưa Chủ
nhật ngày 2 tháng 8 năm 1964, một phân đội tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam
được lệnh xuất kích tiến công tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ đang xâm phạm vùng
biển ta ở gần đảo Hòn Mê (Thanh Hóa), buộc tầu Ma-đốc vừa dùng pháo bắn chặn
vừa bỏ chạy ra vùng biển quốc tế. Đêm 4 tháng 8 năm 1964, chính quyền Giôn -
xơn đã cho dựng lên một vở kịch là: cho tàu chiến Mỹ đang ở ngoài khơi vịnh Bắc
Bộ bỗng nhiên bắn pháo sáng lên trời và bắn pháo cấp tập ra xung quanh để vu
khống là tàu chiến Mỹ bị tàu chiến của Hải quân Việt Nam tiến công ở vùng biển
quốc tế.
Dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”, Giôn-xơn
lấy cớ dùng không quân với 64 lần chiếc máy bay bắt đầu đánh phá miền Bắc từ 12
giò 30 phút trưa ngày 5 tháng 8 năm 1964. Quân và dân ta ở Vinh, Bến Thủy (Nghệ
An), cửa sông Gianh (Quảng Bình), Lạch Trường (Thanh Hóa), thị xã Hòn Gai (
Quảng Ninh) đã sẵn sàng và chiến đấu rất dũng cảm bắn rơi 8 máy bay hiện đại
của Mỹ, bắt sống tên giặc lái đầu tiên là Ê-vơ-rét An-va-rê ở Hòn Gai.
Ngày 5 tháng 8 năm 1964 là cột mốc mở đầu
cho cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Từ ngày đó quê tôi bắt đầu bước
vào cuộc sống thời chiến. Các gia đình đào hố phòng không trong nhà, trong
vườn. Hố đào sơ sài đơn giản. Nhiều hố trống không. Có hố gác mấy tấm ván mỏng
dính lên làm nắp. Dân quân luyện tập, canh gác trực chiến suốt ngày, từ trong
xã ra tận bãi biển Cửa Lò. Mọi người được quán triệt, cùng với việc phòng
tránh, đánh trả máy bay Mỹ, còn phải sẵn sàng đánh tàu chiến khi cập gần bờ.
Đặc biệt là, sẵn sàng đánh quân địch đổ bộ bằng đường không và đường biển.
Tháng 9 năm đó, gần tròn 16 tuổi, tôi được các chú, các anh cho vào dân quân.
Súng ít thôi, phần nhiều là súng cũ từ hồi đánh Pháp, được trên cấp thêm mấy
khẩu K44 gọi là súng trường kỵ binh Nga còn mới tinh. Súng đạn chỉ trang bị cho
những người đã qua kháng chiến chống Pháp và những người được coi là nòng cốt.
Theo qui định chung, tôi xin mẹ mấy đồng bạc mua một cây đòng và một cuộn dây
thừng. Mẹ tôi cười:
- Con còn bé, sức vóc thiếu niên ấy trói
được ai, bắt được ai. Mẹ nghe nói thằng Mỹ cao to lắm. Hơn cả thằng Pháp cơ.
Ban ngày tôi tập dân quân, có nhiều khoa mục: Kỹ thuật thì
xạ kích, đâm lê, ném lựu đạn, gói bộc phá, đào công sự,…Chiến thuật thì học
phòng ngự, phục kích, tập kích, bao vây, truy kích. Thao trường là sân kho hợp
tác xã, cồn Làng Đông và các phía bìa làng. Tình huống giả định là, sau khi
chiếm được Cửa Lò, địch cho quân tấn công làng Đại Xá, trung đội dân quân có
nhiệm vụ bám trụ phòng ngự cản bước tiến, tiêu hao sinh lực địch, giữ bàn đạp
cho bộ đội chủ lực cơ động phản công tiêu diệt địch. Giáo viên huấn luyện là
các chú bộ đội phục viên sau kháng chiến chống Pháp dùng tài liệu hướng dẫn của
trên. Ban đêm thì thay phiên nhau canh gác. Nhiều bữa tôi cùng các anh, các chị
ra gác tận Cảng Cửa Lò. Tuổi trẻ cộng hưởng với không khí chung, háo hức lắm.
Chiến tranh ác liệt đang tới gần nhưng
chúng tôi thấy rất vui. Thời gian đi tập dân quân được tính công điểm trong hợp
tác xã nông nghiệp như đi làm.
Tập dân quân chừng nửa tháng, tôi được
chọn làm liên lạc cho trung đội dân quân của làng. Liên lạc có nhiệm vụ truyền
đạt mọi chỉ thị, mệnh lệnh từ trung đội xuống các tiểu đội và các báo cáo từ trung
đội lên xã đội. Có lần, đang nửa đêm, Chú Lê Văn Ngọc trung đội trưởng giao
tôi ra Cửa Lò để truyền đạt mệnh lệnh
cho tiểu đội canh gác ngoài đó. Mệnh lệnh thì dài, nhiều khoản mục, nhưng không
được phép ghi lại bằng giấy.
Chú Ngọc nói :
- Tập cho quen, ngộ nhỡ trên đường đi “kẻ
địch” bắt được. Việc quân cơ, sống để dạ
chết mang đi, không để lại dấu tích gì cả.
Tôi phải nhập tâm, một mình đi bộ gần 5
cây số ra truyền đạt lại với chú Thanh Tùng không sót một chữ. Mọi người khen
tôi vừa gan vừa có trí nhớ tốt. Ngày đó đi đêm từ làng này sang làng khác giữa
đồng không mông quạnh, lại qua nhiều nghĩa địa, ai cũng sợ ma chứ không sợ trấn
lột như bây giờ.
Ngày đó ở quê tôi rầm rộ phong trào tòng
quân đi chiến đấu ở chiến trường. Trong năm mấy lần tuyển quân: đợt 1 tháng 4,
đợt 2 tháng 8, tiếp đến đợt 3 là tháng 10. Tôi trúng tuyển đợt 3. Đúng ra, vì
tôi bị viêm amidan không qua được phòng khám tai mũi họng. Tôi xin phiếu khám
khác và nhờ Phan Ngọc Thịnh, bạn cùng làng, khám thế ở phòng đó. Còn các phòng khác,
tôi qua được. Đến phòng kết luận cuối cùng của Hội đồng Nghĩa vụ quân sự, tôi
gặp anh Hoàng Văn Lượng, là anh vợ của
anh Thuần, con ông bác họ. Anh Lượng bảo tôi:
- Em chưa đủ tuổi, không đi được đợt này.
Tôi năn nỉ xin và được anh đồng ý khai
tăng thêm cho tôi một tuổi.Thế là từ đó, trong lý lịch quân nhân của tôi đều
ghi sinh năm 1947.
Tròn 16 tuổi, nặng 48 kg, cao 1,62 m, tôi lên
đường nhập ngũ. Thực ra, tôi đã trốn cha tôi để đi bộ đội. Ngày đó ông đang
tham gia khai hoang ở xã Nghi Kiều, cách nhà khoảng 30 cây số. Tôi sợ nói ra
cha tôi không cho đi. Bằng cách là ông sẽ kiện lãnh đạo địa phương, vì tôi chưa
đến tuổi. Tôi trốn đi, ông có biết cũng không thay đổi được nữa. Vì lúc đó tôi
đã vào tận chiến trường Miền Nam
rồi.
Đêm trước ngày lên đường, Ủy ban hành chính xã
Nghi Hợp mời các thanh niên trúng tuyển dự liên hoan chia tay. Đợt đó trong xã
tôi có bốn người tòng quân: Làng Kỳ Sơn có anh Trần Văn Hợi con cố Tý Bờng, anh
Nguyễn Đình Siêu con ông Siêu Sáng. Làng Đại Xá có anh Hoàng Quốc Định con ông
Ổn và tôi. Sau Ngày toàn thắng 30-4, thì anh Hợi và anh Siêu hy sinh; Anh Định
và tôi bị thương. Sau buổi liên hoan, trên đường về nhà, tôi cùng đi với chú
Bá, lúc đó là cán bộ Văn phòng Ủy ban xã. Chú Bá hỏi tôi:
- Thế anh không tin cho bác trai biết à?
Tôi trả lời:
- Thôi chú ạ, không kịp nữa rồi. Vào trong đó, tôi sẽ viết thư về xin
phép. Và sau này, nếu còn sống trở
về, tôi tạ lỗi cha tôi cũng được. Nhờ
chú ở nhà động viên hai ông bà hộ.
Như phần trên tôi có nói, chú
Nguyễn Văn Bá là dân quân bị thương năm 1953 do ném thử lựu đạn khi quân Pháp
đổ bộ lên Cửa Lò. Chú là con ông Nguyễn Văn Oanh, theo thứ bậc trong họ, chú
gọi tôi bằng anh, mặc dù chú hơn tôi 21 tuổi.
Đêm dự liên hoan ở xã về, tôi tâm sự với
mẹ. Mẹ tôi đã khóc rất nhiều. Suốt cả đêm hai mẹ con không tài nào ngủ được.
Cha thì chưa về, chị thì thoát ly ở xa. Mẹ ở nhà với ba em còn nhỏ dại, thơ
ngây. Em Đào lên 6 tuổi. Em Loan lên 4 tuổi. Em Phượng mới hơn 1 tuổi. Kinh tế
gia đình túng bấn. Sáng dậy, mẹ đưa cho tôi 7 đồng bạc trong số 12 đồng mẹ mới
bán trái cây trong vườn. Phụ cấp binh nhì ngày đó là 5 đồng. Như vậy, số tiền
mẹ cho tôi còn hơn một tháng phụ cấp. Tôi mặc một cái áo xanh, một quần ka-ki.
Nhét vội 7 đồng bạc vào túi quần, tôi ôm choàng lấy mẹ trước giờ chia tay trong
nước mắt.
Tôi thật không ngờ, cái ngày 15 tháng 10
năm 1964 là cột mốc bắt đầu sự nghiệp cuộc đời tôi - mở đầu quãng đời đằng đẵng 45 năm quân ngũ,
cũng là ngày cuối cùng tôi chia ly vĩnh viễn mẹ tôi, không bao giờ gặp lại. Tôi
đi chiến trường được hai năm thì mẹ tôi mất. Bà mất ngày 21 tháng giêng âm lịch
năm 1966, khi mới 47 tuổi. So với bây giờ, phụ nữ ở tuổi đó còn trẻ lắm. Tin mẹ
mất đến với tôi rất muộn. Trong chiến tranh thư từ vô cùng khó khăn. Cả đời tôi
và cả gia đình tôi đều xót thương mẹ. Bà sinh thành, dưỡng dục năm người con
trong bần hàn. Bà ra đi quá sớm chưa hề được một chút gì của con cái báo đáp.
Ngày tôi lên đường không một người đưa
tiễn. Đầu không mũ, chân đi đôi dép lốp, tay cầm một quyển sách, tắt qua vạt
vườn lên ngang nhà mự Doãn, mọi người đang lăn lúa ở sân hỏi tôi:
- Đấu đi đâu đó?
Tôi trả lời:
- Cháu đi bộ đội.
Mọi người nghĩ là tôi đùa.
Cứ thế, tôi lẳng lặng một mình đi lên thị
trấn Quán Hành, nơi tập trung tân binh. Tới nơi, tôi thấy nhiều gia đình tiễn
con em đi bộ đội rất nhộn nhịp. Anh Ổn, anh Vĩnh làng tôi đi tiễn anh Định. Anh
Tý người làng Kỳ Sơn đi tiễn anh Hợi. Đến trưa mọi người mở cơm nếp, thịt gà ra
ăn. Tôi chẳng có gì. Thấy thế, các anh xẻ cho tôi một nắm xôi và một miếng thịt
gà luộc. Tôi cầm ăn, không nuốt nổi vì tủi thân, mũi cay xè, nước mắt rơi lã
chã, lòng nghẹn ngào khôn tả.
Đêm đầu tiên ngủ lại nhà dân ở xã Nghi
Trung. Sáng ngủ dậy, chúng tôi tập trung
ở thị trấn Quán Hành và lần lượt được cán bộ nhận quân gọi tên từng người
lên xe ô tô. Những chiếc xe ca, trên đầu cắm cờ đỏ, hai bên thành xe là hai
khẩu hiệu lớn, nền đỏ chữ vàng: “Quyết
tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” và“Chào
mừng thanh niên lên đường nhập ngũ”.
Đúng 7 giờ xe chuyển bánh. Trước đó mấy phút, nhìn xuống vệ đường, tôi nhìn
thấy mự Việt là bà con trong làng, quẩy gánh, hình như đi Chợ Cầu. Tôi thò đầu
qua cửa kính,gọi thật to:
- Mự Việt ơi! Xin chào mự. Cháu đi bộ đội
đây nhé. Mự về nói lại với mẹ cháu là cháu đã lên đường rồi.
Chẳng biết có nghe không, tôi thấy mự gật gật
đầu.
***
Xe qua cầu Bến Thủy, chạy bon bon dọc đất
Hà Tĩnh rất dài. Đến Đèo Ngang xe chạy chầm chậm, tôi quan sát kỹ hai bên đường
thấy quả là nơi đây đẹp thật - một danh lam thắng cảnh, non nước hữu tình. Qua
văn học, tôi được biết đây là nơi dừng chân ngắm cảnh, đề thơ của các tao nhân
mặc khách. Tôi nhớ lại và se sẽ đọc bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh
Quan:
"Bước
tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom
khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ
nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da
Dừng chân nhìn lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta."
Lòng tôi ngổn ngang cảm xúc vừa vui, lại
vừa buồn. Vui vì được tòng quân lên đường chiến đấu như ý muốn. Buồn vì xa gia
đình, quê hương, bè bạn, đặc biệt là xa mẹ tôi.
Đến thị trấn Ba Đồn (Quảng Trạch, Quảng Bình), xe rẽ phải theo quốc lộ
20 đi về phía tây. Qua phà Minh Cầm, xe dừng lại đổ quân xuống. Trời mưa tầm
tã, chẳng có áo mưa vì chưa được phát quân trang. Mỗi đứa chúng tôi cầm một
cành lá cọ, bắt đầu hành quân bộ. Trời mưa rét, đường trơn, chúng tôi xuyên
rừng vượt Đèo Khế. Đây là con đường mòn của thợ sơn tràng. Đèo cao lắm, leo dốc
mệt vô cùng. Giữa trời rét mà mô hôi cứ túa ra, ướt cả áo. Lần đầu tiên tôi
hiểu thế nào là vượt dốc, trèo đèo, mưa rừng, gió núi. Chân đạp lên những mỏm
đá tai mèo sắc nhọn, chảy cả máu. Ngửi thấy mùi máu, vắt bám theo tua tủa. Lần
đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy cảnh
này, ghê lắm.
Tối mịt, chúng tôi đến một làng khá rộng dưới
chân đèo, giữa thung lũng, phía trước là một con sông. Cả đơn vị dừng lại đóng
quân trong nhà dân. Đó là làng Cổ Liêm, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Cán bộ
chỉ huy phổ biến: “Tại đây, các đồng chí được cấp quân trang, biên chế chính
thức vào từng tiểu đội, trung đội, đại đội và tiến hành huấn luyện tân binh.
Vừa huấn luyện vừa ăn bồi dưỡng. Thời gian khoảng 1 tháng nữa sẽ hành quân đi B
dài”.
Hàng ngày, sáng ngủ dậy chúng tôi ra bờ
sông đánh răng, rửa mặt. Nước sông trong xanh, chảy xiết, cát trắng mịn. Dưới
ánh bình minh, bóng núi chiếu xuống lòng sông, trông thật đẹp. Hồi đó nghe nói
ở đại đội bên có người đi đánh răng, sơ ý
trượt chân ngã bị nước lũ cuốn chết đuối.
Đồng bào nơi đây ở nhà sàn. Hình như là người
dân tộc. Tối về chúng tôi ngủ trên sàn lát nứa cùng đồng bào. Dưới sàn là mấy
con trâu buộc ở chân cột nhà. Đêm đông miền núi, cạnh lèn đá vôi, rét lắm.
Không ngủ được, mấy anh em ngồi dậy quây quần bên bếp lửa. Bếp lửa là cả những
cây gỗ khô to bằng cổ chân để dài cứ thế đốt suốt ngày. Trên giàn bếp đầy bồ
hóng, tôi thấy những chiếc đầu bò, chân bò, đầu trâu, chân trâu đen kịt và cả
những xâu ngô treo lủng lẳng. Ở đây ngô gọi bằng sạo. Tôi được biết, những thứ
đó đều là thực phẩm, lương thực dự trữ quanh năm của đồng bào. Khi mổ trâu bò,
chặt chân và đầu cứ để tươi thế đem gác bếp đến khô quắt lại. Không hề bị hỏng.
Những ngày mưa gió không có thức ăn tươi, họ lấy những thứ đó ra, đẽo lấy mấy
miếng ngâm nước gạo, rửa sạch, đem xào nấu, hoặc nấu canh ăn.
Tôi được biên chế vào Tiểu đội 1, Trung đội 2,
Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 101, Sư đoàn 325B. Được biết, trước đó, Sư
đoàn 325A đã vào B. Sư đoàn 325 (thời kỳ đầu gọi là Đại đoàn) thành lập ở Bình Trị Thiên từ
trong kháng chiến chống Pháp, trên cơ sở ba trung đoàn: Trung đoàn 18 Quảng
Bình, Trung đoàn 95 Quảng Trị và Trung đoàn 101 Thừa Thiên. Tư lệnh kiêm Chính
ủy đầu tiên của Sư đoàn là ông Trần Quí Hai, quê Quảng Ngãi, một trong những
người lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ. Sau này Ông Trần Quí Hai là Trung tướng, Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu phó, kiêm Trưởng ban Cơ yếu Trung
ương). Sư đoàn 325B lúc đó do ông Trần Văn Trân làm Tư lệnh, ông Trần Xuân Lư
làm Chính ủy. Trung đoàn 101 do ông Nguyễn Xuân Lực, Anh hùng quân đội, làm
Trung đoàn trưởng. Tiểu đoàn 4 của chúng tôi do ông Nguyễn Văn Thoại làm Tiểu
đoàn trưởng.
Ngày hai buổi chúng tôi được tập trung ở các
bãi cỏ cạnh chân núi để huấn luyện quân sự. Tập bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê,
mắc tăng võng, đào bếp Hoàng Cầm…Nhiều hơn cả là tập hành quân mang vác nặng,
trèo đèo, lội suối. Ngoài ra, còn làm nhiều việc khác như đi vào rừng đốn củi,
xuống bếp thay nhau làm cấp dưỡng,…Với tôi, việc gì cũng khó, cũng lạ vì ở nhà
tôi chưa bao giờ làm những việc đó. Các anh lớn tuổi hơn coi tôi như đứa em út
trong tiểu đội, thương và thường xuyên giúp đỡ tôi mọi việc từ nhỏ đến lớn.
Cùng với việc huấn luyện quân sự, hậu cần, kỹ
thuật, chúng tôi còn được phổ biến thời sự, học tập chính trị nhằm quán triệt
tình hình, nhiệm vụ, xác định quyết tâm lên đường chiến đấu. Cán bộ chính trị
của đơn vị tuyên truyền về hai sự tích anh hùng còn tươi rói trong năm 1964 là:
Gương liệt sỹ Nguyễn Văn Trổi, chiến sỹ biệt động Sài Gòn đặt mìn ám sát Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Mac-na-ma-ra ở cầu Công Lý ngày 9-5-1964 không thành, bị
địch bắt. Và, những giây phút lịch sử cuối cùng của anh ở pháp trường trước giờ
địch xử bắn ngày 15-10-1964. Gương liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân, chính trị viên Đại
đội 3, Tiểu đoàn 14 cao xạ, Sư đoàn 325B, trong trận chiến đấu khốc liệt với
máy bay Mỹ, ngày 18-11-1964, tại khu vực Cha Lo miền tây Quảng Bình, với khẩu
lệnh bất hủ: “Nhằm thẳng quân thù, bắn”. Chúng tôi chăm chú nghe không sót một
câu, lòng ngưỡng mộ vô cùng. Toàn đơn vị
được khích lệ trong không khí sôi nổi, hăng hái, sẵn sàng lên đường thi
đua giết giặc lập công. Mỗi người đều
viết quyết tâm thư, có người viết bằng máu.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước phải hơn 10
năm sau, với biết bao xương máu, gian khổ hy sinh chồng chất, mới giành được
thắng lợi cuối cùng. Vậy mà ngày đó, đám lính trẻ chúng tôi cứ lạc quan, hăm
hở, háo hức như thể, không đi nhanh vào B sẽ không kịp góp mặt trong ngày Miền
Nam hoàn toàn giải phóng. Mà cũng chẳng phải riêng chúng tôi, có lẽ cả đất nước
đều vậy. Đi bộ đội là một niềm vinh dự. Càng vinh dự hơn là được vào Nam
chiến đấu. Cách tuyên truyền như nhà văn Bảo Ninh đã viết trong tiểu thuyết Nỗi
buồn chiến tranh, là: " Ta thắng, địch thua, Miền Bắc được mùa, thế giới chia
làm hai phe rõ rệt ”.
Cách tuyên truyền ngày đó, có mặt tích
cực là khơi gợi, phát huy lòng nồng nàn yêu nước, chí căm thù giặc sâu sắc của
nhân dân ta; cổ vũ động viên cả nước lên đường, mọi người ra trận. Đồng thời có
mặt hạn chế, sau này chúng tôi mới nhận ra, đó là cách tuyên truyền đơn điệu,
phiến diện, một chiều, chỉ thấy thuận lợi không thấy khó khăn, gây tâm lý ảo
tưởng, chủ quan, nóng vội. Chỉ thấy mặt hào hùng, không thấy sự khốc liệt của
cuộc chiến. Vì thế, đến khi đối mặt với thực tế khốc liệt, đầy gian khổ hy
sinh, khó khăn phức tạp trăm bề, thậm chí không ít lần thất bại, thoái trào,
thì tưởng như đây là sự phũ phàng, bị dối lừa, dễ dao động, hoang mang, ngờ
vực. Thậm chí, có người quay lưng lại phủ nhận tất cả. Cá biệt có người chiêu
hồi, đầu hàng địch.
Ban ngày tôi hăm hở say mê làm mọi việc khẩn
trương, gấp rút theo không khí chung. Lợi thế của tuổi trẻ và sức khỏe giúp con
người ta dễ thích nghi với hoàn cảnh sống. Đêm về, trời rét đậm, hình như cái
giá lạnh từ trong lèn đá lan tỏa sang. Thao thức không ngủ được, nghe tiếng
vượn kêu thảm thiết vọng từ trong núi ra, tôi nhớ nhà, nhớ quê hương kinh
khủng, đặc biệt là nhớ mẹ da diết. Nhiều hôm đứng gác giữa trời đêm, mưa phùn,
gió lạnh, cô quạnh quá, tôi ôm súng thút thít khóc một mình.
Có
lần tôi được cử đi thị trấn Qui Đạt để nhận khiêng lợn về cho đơn vị. Đến bến
sông nước lũ đục ngầu chảy xiết. Thỉnh thoảng nhìn thấy những cây gỗ to từ
thượng nguồn lao vun vút theo dòng nước chảy xiết. Mọi người trèo lên ngồi trên một cái thuyền độc mộc, từ một thân cây
gỗ đục ra. Một dây song rất dài, to bằng cổ tay nối vào hai gốc cây hai bên bờ.
Chúng tôi cùng bám vào hợp sức kéo dây song thật mạnh, đưa thuyền sang bờ bên
kia. Tôi hình dung, nếu giữa dòng, dây song bị đứt thì chắc chắn cả cái thuyền
độc mộc sẽ bị nhấn chìm và tất cả chúng tôi bị nước cuốn chết đuối hết. May cả
đi lẫn về, chúng tôi đều trót lọt.
Hồi huấn luyện ở vùng Qui Đạt, trước khi
đi B, ngoài anh Định cùng nhập ngũ, tôi còn gặp hai người cùng làng: Chú Lê Văn
Kỷ và anh Phan Ngọc Mai. Mới thoát ly, lúc xa nhà trên miền đất lạ gặp được
đồng hương, lại là đồng hương làng, thật là quí hiếm. Chú Kỷ làm trung đội
trưởng trong cùng đại đội. Anh Mai làm văn thư quân lực tiểu đoàn. Anh Mai hơn
tôi 4 tuổi, học trên tôi 1 lớp, đi bộ đội trước tôi 1 năm. Ngày đó giữa đám tân
binh quân phục còn thơm mùi hồ, nhìn thấy anh Mai rắn rỏi trong bộ quân phục
bạc màu, tôi nể phục lắm.
Hết thời gian huấn luyện và bồi dưỡng sức
khỏe, chúng tôi hoàn tất mọi công việc chuẩn bị lên đường đi B. Mọi người được
trang bị đầy đủ: ba lô con cóc, quần áo,
chăn màn, mũ tai bèo, tăng võng, ni lông, bi đông, túi đựng cơm, lương khô, mắm
kem, bao gạo (ruột tượng), hộp thuốc cá nhân, thuốc pha với nước lã uống trực
tiếp, băng cá nhân. Trên danh nghĩa, chúng tôi sẽ là chiến sĩ Quân Giải phóng
Miền Nam Việt Nam.
Do đó, theo qui định bắt buộc, tất cả những thứ tư trang, đồ dùng cá nhân, từ
tấm ảnh, giấy tờ tùy thân, sổ lưu bút, nhật ký, có cái gì liên quan đến Miền
Bắc xã hội chủ nghĩa đều phải gửi lại, bỏ lại, không được mang theo người. Phát
hiện ra ai không chấp hành, cố tình mang đi là bị xử lý kỷ luật.
Ngày đó tôi là đứa trẻ mới lớn, chưa có người
yêu. Những anh lớn tuổi hơn, có người yêu, thậm chí có vợ con rồi, khi bỏ lại
những tấm ảnh của người thân, tần ngần, xúc động, tiếc lắm. Mà ảnh thì có phải
nhiều như bây giờ đâu. Có người cả đời chưa chụp ảnh. Nhiều người trước lúc
chia tay, vội vàng chụp một pô ảnh đen trắng để làm kỷ niệm, nên rất quí. Có
người dùng túi ni lon bọc ảnh rất kỹ, cố giấu ảnh tận đáy ba lô. Trên đường
hành quân đi B và khi ở chiến trường sau này, thi thoảng một mình nhớ nhà quá,
mở ra xem. Tiền thừa còn lại và tư trang đều phải gửi về nhà qua đường bưu
điện. Từng người kê khai, đóng gói, tập trung lại do đơn vị cử người đi gửi.
Tôi gom góp lại được 100 đồng, gồm tiền ăn bồi bưỡng còn thừa được thanh toán
cộng với tiền trong túi còn lại. Đồng thời giặt sạch bộ quần áo ngày mặc lên
đường gấp lại kèm một bức thư gửi về cho mẹ.
Chúng tôi được lãnh đạo, chỉ huy đơn vị phổ
biến là theo mệnh lệnh của trên, đơn vị sẽ đi “B dài”. “B dài” nghĩa là, đơn vị
sẽ vào chiến đấu lâu dài ở Miền Nam từ nam Đường 9 cho tới tận cùng Nam Bộ. Còn
“B ngắn” là chiến đấu ngắn ngày, thường là một chiến dịch, trên chiến trường
Bắc Quảng Trị, còn gọi là “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam”. Hoặc những cán bộ được
cử vào chiến trưòng “B dài” công tác một thời gian rồi trở ra Bắc. Đi “B dài”,
gia đình ở hậu phương sẽ được địa phương
đăng ký, quản lý, cấp phát tiền trợ cấp B cho những thân nhân chủ yếu (cha, mẹ,
vợ, con) chưa đến hoặc đã hết tuổi lao động; được hợp tác xã , trường phổ
thông, cơ sở y tế,…thực hiện đầy đủ mọi chính sách hậu phương quân đội theo qui
định của Nhà nước. Còn “B ngắn” thì gia đình không được hưởng trợ cấp B. Thời
gian ở chiến trường “B ngắn” quân nhân được bảo đảm toàn bộ chế độ cung cấp;
đồng thời được hưởng chế độ tiền lương, phụ cấp cao hơn khi ở Miền Bắc- khoảng
gần gấp rưỡi. Sau từng đợt chiến dịch,
trên dưới 1 năm, đơn vị rút ra Miền Bắc để cung cố, an dưỡng, huấn luyện.
Thường đóng ở Quảng Bình, Hà Tĩnh. Từng người được thanh toán truy lĩnh toàn bộ
tiền lương, phụ cấp trong thời gian đi chiến đấu ở chiến trường. Mỗi người dồn
lại một cục gửi về gia đình.
Ngày 25 tháng 12 năm 1964, toàn đơn vị nhập
trạm giao liên bắt đầu lên đường đi B. Chúng tôi được biết, lộ trình hành quân
sẽ là từ miền tây Quảng Bình vào Nông
trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh), lên Làng
Ho, vượt qua Đường 9 vào Trường Sơn sang Lào. Từ vùng giải phóng Lào đi dọc
theo tuyến tây Trường Sơn thẳng về Nam. Tùy theo nhiệm vụ của từng đơn
vị bổ sung cho từng chiến trường mà rẽ ngang về Trị Thiên, về Khu 5, vào Tây
Nguyên, hoặc đi thẳng qua đất Cămpuchia vào tận Nam Bộ.
Ngày đó, chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ mới giới hạn ở những trọng điểm nhất định, chưa lan rộng như 1 - 2 năm sau.
Đông và Tây Trường Sơn vẫn là những cánh rừng nguyên sinh nhiệt đới bạt ngàn
rậm rạp, nhiều tầng, có nơi lâu lắm rồi hình như chưa có dấu chân người. Đường
hành quân bộ là đường mòn Hồ Chí Minh. Một lối đi nhỏ thôi, hàng một, vươn ra, vươn xa dưới
những khu rừng đại ngàn được phủ kín bóng cây cao bóng mát, vượt qua nhiều con
suối nước trong xanh. Sau này, khi nghe
bài hát Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây, nhạc của Hoàng Hiệp, lời thơ của Phạm
Tiến Duật, có câu “ Đường ra trận mùa này
đẹp lắm”, đám lính trẻ chúng tôi tranh luận với nhau sôi nổi. Có người lập
luận, nhà thơ đã lãng mạn hóa, thi vị hóa để cổ động tuyên truyền mọi người ra
trận, chứ thực ra đường ra trận có gì
đâu mà đẹp. Hơn nữa, bất cứ ở đâu, lúc nào, mọi cuộc chiến tranh, kể cả chiến
tranh chính nghĩa, đều là điều bất đắc dĩ đối với con người. Chiến tranh là một
biện pháp giải quyết tình thế giữa các tập đoàn xã hội, khi không còn phương
cách nào khác, thì hãy đừng coi đó là đẹp. Có người lại nói, kể ra nếu dùng từ
“vui” thay cho từ “đẹp” thì đúng hơn. Vì ngày đó với khí thế hừng hực, như nhà
thơ Tố Hữu đã viết: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương
lai”, trong không khí rộn rịp, thì dùng
từ “vui” hợp lý hơn. Với tôi, tôi cho rằng ở thời điểm cuối năm 1964 đầu
năm 1965, đường hành quân đi B chưa bị bom đạn địch cày xới, cây rừng còn xanh
tươi, chưa bị chất độc làm trụi lá, non nước hữu tình, cộng với khí thế hào
hùng sôi nổi hăm hở của những chàng trai trẻ đi chiến đấu, trùng điệp những
đoàn quân ra trận, thì quả thật, đường ra trận vừa vui, vừa đẹp.
Trên đường hành quân mỗi người mang theo
trên mình khoảng 30 kg. Trong đó riêng bao gạo đủ ăn được 10 ngày. Đến từng
trạm bổ sung dần lương thực, thực phẩm. Mỗi ngày chúng tôi hành quân qua một
cung trạm. Từ trạm này sang trạm khác khoảng 30 cây số. Trên đường đi cứ bình
quân 1 tiếng đồng hồ nghỉ giải lao độ 10 phút. Thường là sau khi đã ăn sáng, đổ đầy nước sôi vào bi đông, được lệnh
xuất phát từ 5 giờ thì đến trạm tiếp theo khoảng 5 giờ chiều. Ở rừng trời mau
tối. Hơn 5 giò chiều đã nhá nhem, mọi người chuẩn bị nấu cơm ăn, mắc tăng võng
để ngủ. Bếp ăn tiểu đội, mọi người chuẩn bị củi đuốc, che lại ánh sáng, khơi lại
bếp để nấu cơm tối và chuẩn bị bữa sáng mai, trưa mai.
Để bảo đảm bí mật, chỉ huy đơn vị phổ biến yêu cầu mọi người thực hiện nghiêm
ngặt mọi qui định. Thực hiện đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng.
Đúng như các cụ xưa thường nói: “Lai vô ảnh, khứ vô hình”. Đi không dấu là rời
khỏi nơi trú quân tuyệt đối không để lại dấu tích gì, dù là nhỏ nhất. Khi chặt
cây rừng để làm cột mắc võng hoặc lấy củi, phải rút hết toàn bộ cành lá xuống.
Nếu để lại, cành cây bị chết khô, từ trên cao, máy bay địch sẽ phát hiện được
dấu hiệu khả nghi. Nấu không khói là để tránh máy bay Mỹ phát hiện, khi nấu cơm
phải đào bếp Hoàng Cầm. Ban ngày thì không có khói. Ban đêm thì không phát ra
ánh sáng. Chúng tôi được biết bếp Hoàng Cầm xuất hiện từ hồi kháng chiến chống
Pháp do một chiến sỹ nuôi quân tên là Hoàng Cầm đã có sáng kiến đào đường hầm
dẫn khói đi trong lòng đất rồi lan tỏa dần. Như vậy là, ở nước ta có ba ông
Hoàng Cầm thành danh: Tướng Hoàng Cầm, nhà thơ Hoàng Cầm và chiến sĩ nuôi quân
Hoàng Cầm. Nói không tiếng là nói đủ nghe, không ồn ào, sợ biệt kích địch phát
hiện. Ngày đó Mỹ đã nghiên cứu chế tạo ra một loại máy thu phát tín hiệu, vỏ
bằng cao su, nhựa, bề ngoài không tinh mắt nhìn như một loại cây rừng - gọi là
cây nhiệt đới. Máy bay Mỹ thả cây nhiệt đới vào các khu rừng trên tuyến hành
quân của ta để thu thập và phát thông tin về các căn cứ của chúng.
Cứ thế, ngày đi đêm nghỉ. Đến một ngày cả
đơn vị vượt qua một con sông nhỏ trên một cái cầu mấy cây tre ghép lại, có tay
vịn. Tới giữa dòng, anh chính trị viên đại đội ngoái lại nói nhỏ với tôi rằng,
đây là sông Sê Pôn. Sang bên kia là
huyện Mường Phìn, tỉnh Savanakhet đất Lào rồi. Qua cầu, tôi ngoảnh lại
bờ đông là một rừng tre cao vút dưới nắng vàng, đẹp lắm. Nơi ấy là Tổ quốc
mình. Lòng tôi bồi hồi xúc động. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đi ra nước
ngoài. Đi ra nước ngoài mà không có hộ chiếu, không có giấy tờ tùy thân. Với bộ
quân phục Quân Giải phóng và chiếc mũ tai bèo, mà như nhà thơ Tố Hữu sau này đã
viết, chẳng làm đau một chiếc lá trên cành, đã thay cho hộ chiếu. Trong túi áo
của mỗi người chỉ vỏn vẹn một tờ giấy bìa cứng, rộng bằng cái chứng minh thư,
trên đó đề là Giấy chứng nhận XYZ, họ và
tên, được cử đi Bác Ái. Lúc đó tôi cũng chẳng biết giấy XYZ là cái gì, để làm gì, cất giữ ra sao, tại sao
lại lấy 3 ký hiệu toán học đặt tên cho nó. Đi Bác Ái nghĩa là đi đâu. Chỉ biết
rằng, mỗi người đi “B dài” đều được cấp giấy XYZ. Nhưng khi đã vào chiến đấu ở
chiến trường rồi chẳng còn quan tâm đến miếng giấy đó nữa. Sau này, khi ra Bắc,
nghe đâu cần có giấy chứng nhận XYZ để làm khen thưởng thì phải. Ai nghĩ ra
việc đó kể cũng lạ. Người lính bao năm lăn lộn vào sinh ra tử ở chiến trường,
ai còn giữ được một cái miếng giấy nhỏ bằng nửa lòng bàn tay!
Đêm dừng lại trú quân ở một cánh rừng tre,
trời mưa phùn, se lạnh, cơm nước xong,
trèo lên võng nằm, lòng bồi hồi cảm xúc, tôi viết mấy câu thơ làm kỷ
niệm sau này:
“ Ra đi chiều ấy cuối mùa Đông
Biên giới là đây một nhánh sông
Qua cầu tre nhỏ sang đất Bạn
Ngoảnh lại giang sơn chốn Lạc Hồng”.
Hành quân được bốn ngày, đến bữa ăn tôi thấy rất ngon miệng, cảm
giác như ăn bao nhiêu cũng hết, không biết no. Sau này mới biết đó là dấu hiệu
ban đầu của bệnh sốt rét rừng. Người bị bệnh sốt rét có hai thời điểm ăn rất
nhiều: trước khi bị ngả bệnh mấy hôm và sau khi hết bệnh ăn giả bữa. Sang ngày
thứ 5 khi đến trạm giao liên tôi bị sốt
li bì. Bên ngoài thì người đỏ lừ sốt cao, mà trong bụng thì rét kinh khủng. Rét
tận đáy lòng, thấu tận sống lưng. Tôi vơ bao nhiêu thứ đắp vào mà vẫn run cầm
cập, chui vào bếp đốt lửa sưởi cũng không hết rét. Lúc đầu tôi cứ nghĩ là bị
cảm lạnh nhưng không phải, chẳng hiểu bị bệnh gì. Đêm đến, anh tiểu đội phó lên
đại đội báo y tá xuống xem. Anh Soạn y tá đại đội, quê ở vùng Qui Đạt- Quảng
Bình đến gặp tôi sờ trán, hỏi han, cặp nhiệt kế đo nhiệt độ lên tới 39,5 độ.
Anh vừa mỉm cười, vừa nói :
- Như thế này là bị sốt rét rồi, em ạ.
Không sao đâu, chịu khó uống thuốc đủ liều,
rồi mấy bữa là khỏi thôi. Người ta nói, phi sốt rét bất thành Quân Giải
phóng mà. Sống ở rừng, trước sau thì ai cũng bị sốt rét cả, không ai thoát được
đâu. Có điều, em bị sốt rét hơi sớm. Mới hành quân được 5 ngày thôi đấy.Vào tận
cùng, nghe đâu, phải hành quân bộ mất
những 3 tháng nữa cơ.
Nói rồi, anh đưa tôi mấy viên thuốc quinin
và một bát nước. Tôi uống vào đắng lắm. Đến khuya thì tôi hạ sốt nhưng vẫn rét
run người.
Sáng ngày ngủ dậy tôi đau ê ẩm toàn thân, đầu đau như búa bổ, miệng đắng
ngắt, lưng đau nhừ, chân tay bủn rủn. Đến giờ hành quân, anh tiểu đội trưởng
san hết đồ đạc của tôi cho toàn tiểu đội. Người thì mang khẩu súng, người khoác
hộ ba lô, người quàng thêm bao gạo. Tôi chỉ chống một cây gậy thất thểu lên
đường, chân bước liêu xiêu. Cứ thế, mấy ngày sau, bệnh tình tôi không thuyên
giảm, thậm chí còn nặng thêm. Mấy bữa liền không ăn uống được gì, người tôi gầy
rộc và khuỵu xuống không đi được nữa. Anh em trong tiểu đội phải chặt một khúc
tre làm đòn khiêng cột võng vào làm cáng
để cáng tôi tiếp tục hành quân. Nằm trên võng lắc lư khi lên dốc, lúc
xuống đèo, vượt suối, người bị sốt li bì, tôi chẳng biết gì. Khi tỉnh dậy tôi
thương anh em đồng đội vô cùng. Cáng được tôi trên đường hành quân anh em đồng
đội vất vả lắm.
Ba
ngày sau, theo đề đạt của tiểu đội, trung đội, thủ trưởng đại đội xét thấy, tôi
không còn đủ sức đi tiếp mà để anh em cáng, thì làm chậm tốc độ hành quân của
đơn vị. Vì vậy, đề nghị lên tiểu đoàn gửi tôi lại trạm giao liên, đợi đến lúc
khỏe sẽ vào sau. Tôi cứ nằm trên võng, từng anh em trong tiểu đội đến cầm tay tôi nồng ấm bịn rịn chia tay:
- Em ở lại nhé, đi sau.
Tôi giàn giũa nước mắt lưu luyến giã từ đồng
đội. Đó là những người vừa là đồng đội, vừa là bạn học, vừa là đồng hương.
Chúng tôi không chỉ gắn bó với nhau bằng nhiều kỷ niệm trong thời gian mới vào
quân ngũ mà còn thân thiết với nhau từ khi còn ở quê. Tôi linh cảm, cuộc chia
ly này khó có ngày hội ngộ.
Quả thật, trong suốt thời gian ở chiến
trường và hơn thế, đằng đẵng 45 năm quân ngũ, trải qua nhiều cương vị, nhiều
đơn vị, nhiều địa bàn, tôi chưa bao giờ gặp lại những người cùng nhập ngũ, cùng
đơn vị ngày đó. Sau này tôi được biết, đơn vị đó hành quân vào Tây Nguyên chiến
đấu một thời gian rồi đi tiếp vào Nam Bộ. Sau hơn 10 năm chiến đấu, cùng nhập
ngũ với tôi ngày đó, rất nhiều người đã hy sinh, bị thương, số còn lại hầu hết phục viên về quê sau ngày toàn thắng,
số rất ít phục vụ quân đội đến tuổi nghỉ
hưu. Mãi tới sau này, tôi mới gặp lại hai người cùng ở đơn vị, đó là anh Nguyễn
Công Dung, Đại tá, Chỉ huy trưởng Quân sự Thị xã Cửa Lò- Nghệ An và anh Lương
Tiến Đại, Đại tá, Chỉ huy phó về Chính trị Tỉnh đội Quảng Bình, nghỉ hưu làm
Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Quảng Bình.
Khi anh em cáng tôi đến bàn giao cho trạm
xá của trạm giao liên hay của binh trạm, tôi mê man chẳng biết gì. Hôm sau tỉnh
dậy, tôi thấy cùng cảnh mới đến như tôi độ khoảng 10 người nữa. Cũng đều là đám
lính trẻ hành quân đi B bị sốt rét rừng, không chịu nổi, phải gửi lại. Còn lại
là số thương hinh, bệnh binh đã điều trị ở đây từ trước.
Trạm xá ở một khu rừng nước bạn Lào bằng
phẳng, cây cối tốt tươi, rậm rạp và đẹp.
Nép dưới tán lá cây rừng là mấy dãy nhà lợp cỏ tranh, xung quanh che chắn bằng
phên nứa. Các dãy lán dài trải bằng sạp nứa. Nằm trên đó có cả thương binh lẫn
bệnh binh. Chúng tôi được phổ biến rằng, đây là trạm xá dã chiến để thu dung
thương binh, bênh binh trên tuyến hành quân. Ai nhẹ thì điều trị một thời gian
rồi trả về đơn vị cũ hoặc bổ sung cho đơn vị khác theo quyết định của cấp trên.
Ai nặng thì chuyển về phía sau, nặng hơn nữa thì chuyển hẳn ra Bắc. Hàng ngày,
sau giờ ăn sáng, cấp thuốc uống hoặc tiêm, ai không bị lên cơn sốt thì, hoặc là
chơi tú lơ khơ, đánh cờ tướng, hoặc tha thẩn dạo chơi xung quanh trạm xá. Cũng
có khi chúng tôi ra suối câu cá hoặc vào rừng hái rau tàu bay, hoặc đào hái
măng đưa về cho nhà bếp cải thiện thêm bữa ăn.
Điều trị ở trạm xá được hơn mười ngày, dứt cơn
sốt, sức khỏe bình phục dần, tôi háo hức xin trạm xá cho lên đường đuổi theo
đơn vị. Nhưng các thủ trưởng ở trạm xá nói rằng, 10 ngày qua, đơn vị đó đã đi
xa lắm rồi, không thể theo kịp nữa, hãy chờ lệnh cấp trên bổ sung cho đơn vị
khác. Tôi lại phải tiếp tục ở đó thêm mấy hôm nữa.
Đến một buổi sáng, tôi và ba người nữa được thông báo có cán bộ đến nhận
về đơn vị mới. Tất cả bốn anh em chúng tôi tập trung lại nghe một anh cán bộ
trung tuổi, người tầm thước, thái độ niềm nở, vui vẻ, nói tiếng Nghệ Tĩnh, tự
giới thiệu là Hồ Chư, Thiếu úy, Trợ lý chính trị của Tiểu đoàn 929 Quân khu 4,
được đơn vị cử đến đón chúng tôi về. Chúng tôi cảm ơn, bịn rịn chia tay bác sĩ,
y sĩ, cán bộ và các anh chị nhân viên, y tá của trạm xá để lên đường. Chỉ hơn
mười ngày thôi nhưng các cán bộ, nhân viên trạm xá đã dành cho chúng tôi trách
nhiệm và tình cảm thân thương. Cảm động lắm, nhiều người đã nhiều đêm thức
trắng bên lán, chăm sóc cho chúng tôi từng viên thuốc, từng thìa cháo. Chắc chắn
là, trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt ở chiến trường, tình cảm giữa con người
với nhau gắn bó sâu nặng hơn.
Theo sự chỉ huy của anh Hồ Chư, chúng tôi bốn
người gồm: Nguyễn Văn Kiu, Trần Công Thuận, Nguyễn Trọng Năm và tôi hành quân
về đơn vị là Tiểu đoàn 929. Chúng tôi
cùng lứa tuổi, là đồng hương, cùng nhập ngũ,cùng hoàn cảnh hành quân đi B bị
sốt rét gửi lại trạm xá giao liên, cùng được bổ sung về một đơn vị lại cùng
chiến đấu nên thân thương nhau lắm. Anh Kiu quê ở xã Nghi Hưng, huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An, năm 1965, trong một trận chiến đấu ở tây Savanakhet (Lào), bị cụt
một chân, sau đó phục viên về quê. Anh Thuận quê ở xã Thanh Cát, huyện Thanh
Chương, tỉnh Nghệ An, năm 1968, làm trung đội trưởng, hy sinh ở khu vực Bình
Điền tây Thừa Thiên - Huế. Anh Năm quê ở xã Thanh Khai, huyện Thanh Chương,
tỉnh Nghệ An, năm 1969, làm chính trị viên phó đại đội hy sinh ở Đường 12 tây
Thừa Thiên-Huế. Còn anh Hồ Chư, quê ở xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh, năm 1969, làm chính trị viên Tiểu đoàn 9, rồi Trưởng tiểu ban tổ chức
Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, sau giải phóng Miền Nam nghỉ hưu, đã từ trần năm
2000.
Đang giữa mùa khô, trời nắng chói chang,
chúng tôi đi bộ trọn một ngày dưới rừng cây khộc khô khốc mới tới được đơn vị.
Tiểu đoàn bộ đóng quân ở một con suối cạn nằm ở phía tây huyện Mường Phìn, tỉnh
Savanakhet. Người ra tiếp chúng tôi là anh Võ Vượng, Trung úy, Trợ lý tác huấn
tiểu đoàn. Anh Vượng giới thiệu sơ bộ về đơn vị. Tiểu đoàn 929 là một trong 3
tiểu đoàn biên phòng của Quân khu 4 thành lập sau khi miền Bắc được giải phóng.
Tiểu đoàn 925 đóng ở biên giới phía tây tỉnh Nghệ An. Tiểu đoàn 927 đóng ở biên
giới phía tây tỉnh Hà Tĩnh. Tiểu đoàn 929 đóng ở biên giới phía tây tỉnh Quảng
Bình. Những năm huấn luyện trong thời bình, Tiểu đoàn 929 đóng quân ở Thanh
Lạng, xã Trung Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Địa bàn hoạt động lên tận
cửa khẩu Cha Lo. Từ năm 1961 đến lúc đó, đơn vị liên tục hoạt động ở Lào, từ
Khăm Muộn đến Savanakhet. Ở thời điểm chúng tôi có mặt, đơn vị đang chiến đấu
trên trục Đường 9 nhằm bảo vệ hành lang phía tây của Đường dây 559. Tiểu đoàn
trưởng là anh Hoàng Nhiên. Chính trị viên tiểu đoàn là anh Nguyễn Khuốc. Chính
trị phó tiểu đoàn là anh Lê Văn Dánh.
Cùng Tiểu đoàn 929 với tôi hồi đó hiện
nay điểm lại chỉ còn có mấy người : anh Lê Chí Tuân, quê ở xã Quảng Tiên, huyện
Quảng Trạch, tỉnh quảng Bình, sau này làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 379 - Quân khu
2 rồi về công tác ở Học viện Quốc phòng; anh Hoàng Huy Nhở quê ở Hậu Lộc -
Thanh Hóa, hiện đã nghỉ hưu ở quê; anh Đinh Minh Chúng quê ở xã Trung Hóa,
huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, là Thượng tá, nguyên tham mưu phó Sư đoàn 968
- Quân khu 4, hiện đã nghỉ hưu ở quê; anh Cao Sĩ Nguyên quê ở Tân Đức, Minh
Hóa, Quảng Bình, hiện nghỉ hưu ở quê; anh Hồ Sĩ Dục quê ở xã Hương Thu, huyện Hương
Khê, tỉnh Hà Tĩnh, hiện nay nghỉ hưu ở Vũng Tàu…
Trong
Ban chỉ huy Tiều đoàn 929 ngày đó có anh Lê Văn Dánh gắn bó với tôi mãi
nhiều năm sau này. Từ chiến trường Lào, vào Miền Nam và cả sau này nữa. Anh Lê Văn
Dánh quê ở xã Tiến Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình; sau này là Thiếu
tướng, Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 4. Anh là người chiến đấu dũng cảm,
thường xuyên có mặt ở những nơi hiểm nguy, gian khó. Vốn là cán bộ chính trị
nhưng ở anh trình độ quân sự cũng rất sắc sảo. Năm 1980, đang là Phó chính ủy
Sư đoàn, anh được bổ nhiệm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 324 - Quân khu 4. Trong lãnh
đạo chỉ huy, anh quyết đoán, rành mạch, rõ ràng, đơn vị luôn hoàn thành nhiệm
vụ trên chiến trường. Nhưng ở anh cũng bộc lộ một vài nhược điểm. Anh thường tỏ
ra coi thường những cán bộ chỉ nói hay, không làm hoặc làm dở. Vì vậy, có người
cho rằng anh kiêu binh. Anh thẳng thắn bộc trực đến mức hơi thái quá. Gặp bất
cứ ai, lần đầu, câu cửa miệng của anh là : “Cậu quê đâu?”. Những người nói
tiếng “trọ trẹ” đồng hương Khu 4 - nhất là Quảng Bình - thì ngay lập tức được
anh tin tưởng. Anh đánh giá cán bộ có khi cực đoan, có lúc định kiến. Với anh,
trong chiến đấu ai đó chỉ mất lòng tin một lần là mất tất cả. Anh tin tưởng ai
thì người đó luôn luôn đúng. Bởi thế, người quí trọng anh rất nhiều, nhưng
người không hài lòng với anh cũng không ít.
Tôi nhớ, năm 1991, khi còn làm Trưởng
phòng Kế hoạch Tổng hợp của Văn phòng Tổng cục Chính trị, tôi tham gia bộ phận
phái viên của Tổng cục Chính trị do anh Võ Thịnh, Phó Văn phòng TCCT dẫn đầu dự
Đại hội Đảng bộ Quân khu 4. Tại Đại hội đó, giờ kiểm phiếu bầu Đảng ủy Quân
khu, Đại hội nghỉ giải lao. Vừa kiểm phiếu xong, anh Lê Văn Mẹo, Chủ nhiệm
Chính trị Quân khu chạy ra nói nhỏ với chúng tôi:” Kết quả kiểm phiếu: anh Lê
Văn Dánh, Bí thư Đảng ủy đương nhiệm không trúng Đảng ủy mới”. Tôi giật mình,
quả thật đây là điều không bình thường. Toàn bộ phần nội dung tiếp theo của Đại
hội, như ra mắt Đảng ủy mới, hứa hẹn quyết tâm trước Đại hội; thông qua Nghị
quyết Đại hội, Đoàn chủ tịch đều đã phân công anh Dánh đảm nhiệm. Bây giờ anh
Dánh trượt Đảng ủy, không còn tư cách thể hiện nữa, phải là người khác làm.
Chúng tôi đề nghị anh Nguyễn Quốc Thước, Tư lệnh Quân khu nghiên cứu tài liệu
trước để đảm nhiệm toàn bộ phần việc đó.
Tôi kề bên anh Dánh. Anh rất bức xúc, mặt
tái đi, mồ hôi anh túa ra ướt đầm cả áo. Anh nói với tôi :
- Trong quân khu, tại Đại hội Đảng bộ có
người vận động chống anh, mới nên nông nỗi này.
Tôi ôn tồn:
- Thôi anh ạ, kết quả bầu cử như vậy rồi,
anh phản ứng là vi phạm nguyên tắc và liệu có ích gì, lại thêm phức tạp ra. Em
tham gia với anh trên hai tư cách. Về lý, em là phái viên của cấp trên đi dự
Đại hội Đảng bộ Quân khu. Về tình, em là thằng liên lạc của anh cách đây 25 năm
trên chiến trường, lúc anh còn là chính trị viên phó tiểu đoàn. Tính anh em
biết rồi, nóng nảy thường dẫn đến sơ suất. Vì vậy, từ giờ phút này em đề nghị
anh hết sức bình tĩnh.
Thế rồi, anh Dánh đã kiềm chế được. Nhưng
tôi biết anh vẫn rất buồn. Mấy tháng sau, anh bị bệnh nhũn não, điều trị ở Viện
108, tôi vào thăm mấy lần. Khi xét thấy anh nặng lắm rồi, gia đình xin đưa anh
về nhà để chăm sóc những ngày cuối đời.
Tháng 4 - 1992, khi là Cục phó Cục Chính
sách, tôi tham gia gia Đoàn Tổng cục Chính trị do anh Lê Khả Phiêu Chủ nhiệm Tổng cục dẫn đầu ra thăm Trường Sa, qua đài phát thanh, tôi nghe tin anh Lê Văn
Dánh từ trần. Tôi buồn bã nhớ về anh với những kỷ niệm xưa.
Anh Hoàng Nhiên, Tiểu đoàn trưởng, quê ở
xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; năm 1965 được bổ nhiệm làm Tham
mưu trưởng Trung đoàn 29, rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 đi chiến đấu ở
Tây Nguyên. Thời kỳ đó ở Tây Nguyên có bốn trung đoàn trưởng đều là người Nghệ
An: Hoàng Nhiên, Nguyễn Quốc Thước, Hồ Đệ, Phùng Bá Thường. Năm 1973, anh Nhiên
ra Bắc làm Tỉnh đội phó tỉnh Nghệ An, làm Sư đoàn trưởng, Đại tá, rồi nghỉ hưu
ở quê. Anh Nguyễn Khuốc, Chính trị viên tiểu đoàn, quê ở xã Hiền Ninh, huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình; sau này là Đại tá, cán bộ của Học viện Chính trị.
Anh Võ Vượng, Trợ lý tác huấn, quê ở xã Đức Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh,
năm 1970 hy sinh ở chiến trường tây Thừa Thiên Huế, lúc đó là Thiếu tá, giữ
chức Trung đoàn phó Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, Quân khu Trị Thiên - Huế.
Từ tiểu đoàn tôi được bổ sung vào Tiểu
đội 4 Trung đội 2 Đại đội 2. Anh Đinh Xuân Bài, Tiểu đội trưởng nhận tôi về.
Tiểu đội có 7 người. Anh Đinh Xuân Bài quê xã Hương Đô, huyện Hương Khê, tỉnh
Hà Tĩnh; lính 1962, làm Tiểu đội trưởng. Anh Cao Sĩ Tính quê xã Hợp Hóa, huyện
Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình; lính 1962, làm Tiểu đội phó. Anh Đinh Xuân Các quê ở
xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, lính 1963, giữ khẩu trung
liên RPĐ. Anh Nguyễn Văn Liệu quê ở xã Vạn Trạch, huyện Bố Trạch , lính 1963,
giữ khẩu B40. Anh Lê Văn Sơ quê huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, lính 1963, giữ
khẩu AK. Còn tôi và Nguyễn Văn Kiu quê ở xã Nghi Hưng, mỗi đứa giữ một khẩu
CKC. Trừ tôi và Kiu là hai tân binh mới tò te chưa ngửi mùi thuốc súng, còn lại
các anh trong tiểu đội hơn tôi chừng năm, bảy tuổi, lại đã trải qua chiến đấu,
dạn dày trận mạc, ít nhất là hơn một năm. Tôi tin tưởng và cảm phục các anh
trên mọi phương diện. Các anh coi tôi như đứa em út trong tiểu đội, hướng dẫn,
giúp đỡ tôi mọi việc từ nhỏ đến lớn.
Trung đội trưởng Trung đội 2 là anh Lê
Đôn Quý, quê ở huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Anh Quý chiến đấu rất dũng cảm,
trong cuộc sống anh thẳng thắn, bộc trực. Anh Quí hy sinh giữa năm 1965 trong
một trận chiến đấu mà anh giữ chức Đại đội phó Đại đội 3. Trung đội phó là anh
Nguyễn Văn Sửu quê ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Anh Sửu hy sinh đầu năm 1966 ở
gần Mường Phìn do bị máy bay bắn. Đại đội trưởng Đại đội 2 là anh Nguyễn Văn
Tèo quê ở Miền Bắc, tôi không rõ ở tỉnh
nào. Đến đầu năm 1965, anh Tèo chuyển đi đơn vị khác, trên điều động anh Nguyễn
Văn Dương quê ở xã Hưng Đạo, huyện Hưng Nguyên về làm Đại đội trưởng. Chính trị
viên đại đội là anh Nguyễn Văn Trinh quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; đến
giữa năm 1965 thì thay bằng anh Điện, sau đó lại thay bằng anh Nguyễn Thụy quê
ở xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Chính trị phó đại đội là anh Hồ Sĩ
Dục quê ở xã Hương Thu, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Đến giữa năm 1965, được
thay anh Nguyễn Văn Tin quê ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Đại đội phó là
anh Lê Văn Lướt, người Tây Nguyên.
Khi tôi mới bổ sung vào thì Đại đội 2 có
một trận đánh chặn địch ở Đồng Mót rất quyết liệt. Trong trận đó, trước khi đại
đội phản kích tiêu diệt địch giành thắng lợi lớn, thì cả Tiểu đội 8 Trung đội 3
làm nhiệm vụ chốt chặn đã hy sinh đến người cuối cùng. Các anh hy sinh trong tư
thế vẫn ôm súng bắn, giữ nguyên đội hình, không ai rời bước khỏi trận địa.
Thời tiết ở Lào chia làm hai mùa rõ rệt.
Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng
10. Mùa khô thì trời nắng chói chang. Cây cỏ khô khốc. Đi giữa rừng khộc trụi
lá, cành trơ xác xơ, gầy guộc. Những chiếc lá khộc khô dòn to như những chiếc
bánh đa nhỏ, bước lên gãy vỡ vụn. Cả ngày đi có khi không tìm nổi một chỗ có
nước uống. Mùa mưa thì mưa xối xả suốt ngày đêm. Đúng là mưa rừng. Cây cối tốt
tươi. Đóng quân ở những khu rừng tre tha hồ hái măng trên cây và đào măng củ.
Những con suối cạn khô khốc về mùa khô, lại tràn trề nước vào mùa mưa. Có nhiều
trường hợp hành quân trải bạt ngủ bên suối cạn. Đang đêm trời mưa to, lũ tràn
về, không kịp chạy sẽ bị nước cuốn trôi.
Mùa mưa đầy nhựa sống nhưng mùa mưa ẩm ướt là mùa của sốt rét rừng. Có tiểu đội
sốt hết không còn người dậy nấu cơm. Có người bị sốt rét mắc võng nằm cạnh bờ
suối, khi nước lũ tràn về không còn sức tháo chạy, nằm yên trên võng bị chết
đuối. Vậy là, cái chết nối liền với giấc ngủ. Đến khi nước rút, anh em chạy đến
để nguyên cả võng khiêng đi an táng. Đơn vị bị sốt rét la liệt là do mùa mưa
muỗi anôphen sinh sôi nảy nở nhiều. Đêm ngủ không màn, muỗi từng đàn thi nhau
cắn, làm lây lan vi trùng sốt rét từ người nọ sang người kia. Mùa mưa cả ta và
địch đều ít hoạt động. Mùa khô mới là mùa đánh nhau, vì dễ triển khai lực lượng
hơn.
Hoạt động ở chiến trường Lào ngày đó chưa
bị bom đạn khốc liệt như sau này. Thường là khi hành quân chiến đấu, đêm đến
chỗ trú quân, anh Bài cắt cử người canh gác, rồi tất cả tiểu đội xúm vào, người
thì bẻ lá cây che bếp khỏi phát ra ánh sáng, người thì bẻ lá cây rải ra một vạt
đất bằng rồi trải tấm vải nhựa lên đó, cả tiểu đội xếp dàn hàng ngang ngủ. Trời
nắng thì không sao. Thỉnh thoảng chỉ bị ve, vét cắn thôi. Trời mưa thì cả tiểu
đội ướt như chuột lột. Công sự không phải đào. Chỉ lợi dụng địa hình, địa vật,
chủ yếu là khe suối, hang đá, hốc cây làm nơi
ẩn nấp khi có động.
Không quân địch mới có máy bay cánh quạt
T28 và AD6. Nhưng mỗi khi oanh tạc thì dai dẳng lắm. Hình như các loại máy bay
cánh quạt, chứa được nhiều xăng, giờ bay lâu hơn. Pháo binh thì chỉ đến lựu
pháo 105 ly. Quân địch ngày đó là quân ngụy Lào, chúng tôi vẫn gọi là lính Phu
Mi . Giống như cách gọi quân Pôn Pốt ở chiến trường Cămpuchia sau này.
Hình thức chiến thuật của bộ đội ta lúc
thì phục kích, lúc tập kích và có cả phòng ngự. Ở chiến trường tổ chúc nấu cơm
cấp tiểu đội vừa nhanh, vừa gọn. Anh em luân phiên nhau nấu. Thường là xúm lại
cùng làm như một gia đình vậy. Ăn thì lương thưc, thực phẩm được nhận ở các kho
trên đường dây vận chuyển. Thực phẩm thường chỉ có cá khô, muối, mỡ, mì chính,
mắm kem. Thỉnh thoảng có thịt hộp, cá hộp. Nước uống thì hái chè rừng nhưng chủ
yếu là uống nước gạo rang. Hàng tháng, chúng tôi được nhận nhu yếu phẩm do xe
từ hậu cứ chuyển lên. Mỗi người được cấp một cân đường, một cân đậu xanh để vài
ba ngày nấu chè một lần. Không hiểu sao hồi đó chúng tôi thích đồ ngọt đến thế.
Có thể do thiếu chất. Lâu lâu có một ít kẹo, bánh, thuốc lá, chè trà. Nghe nói,
đó là quà úy lạo của các cơ quan, đoàn thể trong nước gửi sang. Theo xe từ hậu
cứ sang, còn chuyển cả thư, người có người không. Ở chiến trường xa không nhận
được thư nhà, buồn lắm!
Ngoài trang bị chiến đấu như súng CKC, lựu
đạn, xẻng, bao gạo, ba lô, tôi được anh Tính tiểu đội phó giao cho mang hai cái
nồi. Nồi to dùng để nấu cơm đủ ăn 7 người. Nồi nhỏ dùng để nấu thức ăn. Tôi đặt
cái nồi nhỏ trong nồi to, dùng giây vải buộc chặt vào ba lô mang sau lưng.
Chính hai cái nồi này, với tôi, có một kỷ niệm không bao giờ quên.
Sự thể là, trong trận đánh quân địch ở
ngoài công sự ở gần Huội Mua, ngày 22 tháng 2 năm 1965. Lúc khoảng 3 giờ chiều,
cả tiểu đoàn chúng tôi đang tiến vào địa bàn quân địch thường hoạt động. Đội
hình hành quân chiến đấu trinh sát tiểu đoàn đi trước, theo cách sâu đo để thăm
dò địch. Sau trinh sát là Đại đội 2 chúng tôi. Trung đội tôi đi trước, Tiểu đội
4 dẫn đầu. Đến một khu rừng khộc, thấy phía trước có nhiều ụ khói bốc lên. Khả
nghi có quân địch, trinh sát báo cáo về phía sau. Tiểu đoàn trưởng Hoàng Nhiên
đầu cắt trọc, người đỏ au, quàng một mảnh dù nhỏ, không mang vũ khí, chạy vội
lên trước. Chạy theo anh là anh Xiểm liên lạc. Anh Nhiên lệnh cho toàn đơn vị dừng lại triển khai
chiến đấu. Giao cho trinh sát vào phía
trong bám địch. Khoảng nửa tiếng sau, anh Cao Sỹ Nguyên , Tiểu đội trưởng trinh
sát quay ra báo cáo với Tiểu đoàn trưởng. Anh Nhiên giao cho anh Xiểm liên lạc
chạy về phía sau đội hình mời anh Khuốc chính trị viên tiểu đoàn lên hội ý.
Thấy hai anh hội ý chừng 5 phút, anh Nhiên cho triệu tập các đại đội trưởng lên
giao nhiệm vụ. Anh Tèo đại đội trưởng nhận nhiệm vụ Đại đội 2 làm mũi tấn công
chủ yếu.
Chúng tôi được lệnh tiếp tục tiềm nhập để
rút ngắn cự ly với địch. Được chừng 100 mét thì dừng lại chờ hỏa lực tiểu đoàn
khai hỏa. Cối 82ly và ĐKZ75 ly của tiểu đoàn bắn cấp tập khoảng 10 phút thì
dừng. Chúng tôi bắt đầu nổ súng tấn công. Với tôi đây là trận chiến đấu đầu
tiên trong đời. Tôi hồi hộp lắm. Nghe tiếng đạn bắn ra tới tấp, ràn rạt, tôi
cũng hoảng. Nhìn sang bên phải thấy anh Liệu đã bắn được một quả B40, nòng còn
bốc khói. Nhìn sang bên trái thấy anh Các đã xiết được mấy tràng trung liên, vỏ
đạn bay rào rào. Cạnh tôi, anh Bài đang ghì khẩu AK vào gốc cây khộc, xiết cò
từng điểm xạ ngắn. Mới khoảng 4 giờ chiều, giữa rừng khộc đã cháy trụi, ở cự ly
không tới 100 mét, tôi nhìn quân địch rõ lắm. Tôi bắn liền một kẹp đạn CKC, đã
thay sang kẹp khác, thì nghe một tiếng choang rất đanh, tôi tưởng mình đã bị
thương nhưng chẳng thấy đau mà sờ xung quanh người cũng không có máu. Anh Bài
hô:
- Tất cả tiểu đội chuẩn bị xung phong.
Tôi đưa tay dương lê lên vì cho rằng, sắp
đánh nhau giáp la cà, phải dùng đến lưỡi lê để đâm. Thấy thế, anh Bài hét to:
- Đẩu gấp lê lại ngay.
Như một cái máy, tôi gấp lê lại, dẫu chẳng hiểu vì sao. Mấy phút sau, cả
trung đội chúng tôi chiếm lĩnh toàn bộ trại địch. Một bãi chiến trường ngổn
ngang nhà cháy, vách đổ, đất cát bị cày xới bởi những hố đạn đen ngòm. Mấy xác
chết, cái thì cháy đen, cháy sạm, cái thì
loang lổ bê bết máu. Trong tay có đứa còn cầm súng. Nhìn vào bếp, thấy mấy tuýp
(liễn) xôi còn nóng hôi hổi, tôi cầm luôn. Lệnh của chỉ huy, đơn vị phải thu
dọn chiến lợi phẩm và rút ra ngay đề phòng pháo địch oanh kích.
Xuyên rừng độ hai tiếng đồng hồ sau, đến
chỗ dừng lại trú quân, anh Tính tiểu đội phó bảo tôi cởi nồi ra để nấu cơm tối.
Tôi vừa hạ xuống thì thấy cả hai cái nồi bị một viên đạn xuyên thủng từ bên nọ
sang bên kia. Cả tiểu đội xúm lại nhìn. Anh Bài nói:
- Như vậy là số cậu cao. May mà thằng Phu
Mi bắn hơi chếch lên một chút. Nếu viên đạn hạ xuống 10 cm thôi, thì hôm nay
Đẩu nhà mình đã thành liệt sỹ rồi.
Anh còn giải thích với tôi rằng, sở dĩ chiều
nay thấy tôi dương lê lên bị anh quát, là vì, lúc xung phong cự ly cách địch
còn chừng 100 mét, dương lê lên sẽ bị vướng. Tối đó, may mà có hai liễn xôi tôi
lấy được trong trại địch, không thì cả tiểu đội nhịn đói sau một ngày chiến đấu
căng thẳng. Trận đó tiểu đôi tôi không ai việc gì. Tiểu đội 5 có anh Duyến và
anh Thoại hy sinh.
Sau này về hậu cứ ở bản Nôn Nhang rút kinh
nghiệm trận đánh, có ý kiến từ cấp trên phê phán rằng, đó là một trận đánh
không thắng lợi chứ chưa nói đến thất bại. Về hình thức chiến thuật giống như
một trận càn. Mà càn thì không có trong các loại hình tác chiến của quân đội
cách mạng. Chỉ đánh vỗ mặt không tổ chức lực lượng bao vây, chia cắt, vu hồi
quân địch. Hiệu quả chiến đấu thấp. Cả một tiểu đoàn đầy đủ binh hỏa lực không
tiêu diệt nổi hai trung đội địch ngoài công sự. Cán bộ tiểu đoàn thì cho rằng,
đây là hình thức tao ngộ chiến. Đã ai biết được lực lượng địch là bao nhiêu.
Giữa rừng khộc bằng phẳng, mênh mông, lính Phu Mi như thổ phỉ khó đánh tiêu
diệt được. Biết làm sao được, người xưa đã từng dạy, kiến dĩ tác nan mà!
Hàng chục năm sau, tôi gặp lại anh Bài
lúc anh đã là Đại tá, trung đoàn trưởng, nghỉ hưu ở Hà Nội. Chúng tôi cười vui
ôn lại chuyện xưa. Anh trìu mến ghì chặt lấy tôi:
- Trời ơi, thằng em út của tiểu đội ngày
nào mặt búng ra sữa, bây giờ đã thành ông Tướng rồi ư!
Rồi như sực nhớ ra điều gì, anh trêu đùa
tôi:
- Này, Đẩu ơi, em sờ lại sau lưng xem hai
cái nồi còn không.
Anh Bài là người chiến đấu dũng cảm, chỉ
huy quyết đoán, gương mẫu về mọi mặt. Tôi nhớ trong chiến dịch Đường 9 - Nam
Lào, anh giữ chức tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 3, bị thương và bị
địch bắt được đưa lên trực thăng. Khi máy bay mới rời mặt đất được dăm mét, anh
lao mình ra cửa nhảy xuống thoát được nhưng bị chân thương cột sống, đau lưng
một thời gian khá dài. Trong đời sống anh giản dị, khiêm nhường mà thẳng thắn,
chân thành, được đồng đội quí mến. Anh là người trưởng thành từ chiến sĩ lên
tới trung đoàn trưởng trong cùng một đơn vị cho đến khi nghỉ hưu. Khi anh nghỉ
hưu, quân đội cấp cho anh hai gian nhà cấp bốn trên mảnh đất hơn 100 mét vuông
trên mặt đường ở Xuân La, gần cơ quan
UBND và Quân ủy quận Tây Hồ - Hà Nội. Như bây giờ mảnh đất đó có giá trị
hàng chục tỷ bạc, nhưng lúc đó anh đem
đổi lấy ba vạn gạch về xây ba gian nhà cấp bốn trong khu tập thể cơ quan chị
Lợi là vợ anh ở Dốc Vân, Gia Lâm. Anh Bài mất năm 2001 do bị ung thư phổi,
không biết có phải do nhiễm chất độc ở chiến trường không. Khi nghe tin anh Bài
mất, từ Trường Sĩ quan Lục quân 1 ở Sơn Tây tôi đến viếng anh tại nhà riêng.
Nhiều đồng đội đã về hưu, phục viên tận trong Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã
ra viếng anh.
Trước đó mấy hôm, khi anh ốm nặng tôi đến
thăm ở Viện Quân y 108. Anh thều thào nói với tôi:
- Anh đau lắm em ạ, chưa bao giờ đau thế
này. Chắc không được mấy ngày nữa đâu. Điểm danh lại, tiểu đôi ta đã mất hết cả
rồi. Chỉ còn em, đứa em út của tiểu đội ngày nào còn bé nhỏ 16, 17 tuổi đầu
thôi.
Nghe anh tâm sự, tôi cảm thương anh vô
cùng, nước mắt lã chã rơi. Biết rằng, tôi sắp phải vĩnh biệt người anh, người
thầy của mình trong chặng đầu tiên của cuộc đời quân ngũ mà đành bó tay
chẳng làm được gì cho anh.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ của trận tập
kích quân địch ngoài công sự, tiểu đội 4 chúng tôi được tăng cường cho Đại đội
3 của tiểu đoàn đang làm nhiệm vụ phòng ngự ở Sê-Con-Cam. Sê-Con-Cam cách thị
trấn Mường Phìn không xa. Địch ở Pờ Lan, Pắc Sế thường nống ra lấn chiếm, nhằm
thọc sườn uy hiếp chặt đứt hành lang chiến lược Bắc-Nam của ta. Tiểu đội làm
lực lượng cơ động ngoài công sự để chi viện cho Trung đội 1 Đại đội 3. Trung
đội trưởng trung đội 1 là anh Võ Đình Vân quê ở xã Nghi Thịnh, huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An. Tiểu đội chúng tôi được bố trí bên cạnh Ban chỉ huy đại đội 3.
Đại đội 3 do anh Trần Công Giao quê ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa làm đại
đội trưởng, anh Trần Triền quê ở Văn Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình làm chính trị
viên. Phương án tác chiến được xác định là khi địch đánh vào trận địa phòng ngự
của trung đội 1, thì tùy hoàn cảnh cụ thể , đại đội sẽ dùng tiểu đội tôi tăng
cường lên trận địa phòng ngự hoặc đánh vu hồi vào phía sau, hoặc đánh thọc bên
sườn quân địch. Nhận nhiệm vụ xong, mấy ngày đầu, anh Bài dẫn tiểu đội đi địa
hình xung quanh trận địa phòng ngự vừa để thuộc địa hình, địa vật, vừa kết hợp
tuần tra khu vực. Sau đó lập phương án đánh địch. Chuẩn bị đường xuất kích,…
Địa hình ở đây bằng phẳng trống trải. Bên triền sông là những vạt rừng tre xen
lẫn những cánh đồng nứt nẻ đang giữa mùa khô. Ở đây không có địa thế hiểm yếu
nên không thật thuận lợi cho bố trí phòng ngự. Nhưng lại thuận cho lực lượng cơ
động phản công. Trước trận địa phòng ngự, Đại đội 3 đã bố trí các bãi mìn dày
đặc và cắm chông tua tủa.
Dân địa phương đã đi sơ tán xa. Bỏ lại
những đàn trâu, đàn bò thả rông, vô chủ. Nhiều lần cả đàn trâu, bò tràn vào bãi
mìn. Mìn nổ, trâu bò không chết ngay chỉ
thủng bụng lòi ruột ra và cụt chân nằm bẹp tại chỗ rồi mới chết. Nhiều
con chết thối rữa ra, quạ đen từng đàn đến rỉa, kêu toáng một vùng. Nhiều lần
chúng tôi ra bãi mìn lần theo vết trâu bò đã đi, đến những con còn sống dùng
dao xẻo lấy thịt mang về nấu ăn. Lấy được thịt tươi ăn nhưng cũng nguy hiểm. Sợ
địch phát hiện được dùng súng bắn trực tiếp hoặc gọi pháo dập vào. Sợ nhất là
đạp phải mìn ta cài. Người cài mìn bao giờ cũng phải làm giật lùi, trước mặt là
bãi mìn đã cài, sau lưng là bãi trắng.
Thời gian làm nhiệm vụ phòng ngự ở
Sê-Con-Cam, tiểu đội chúng tôi đánh được 5 trận qui mô nhỏ, đều theo đúng như
phương án tác chiến đã xác định. Mỗi lần địch đánh vào chốt phòng ngự của Trung
đội 1, lệnh của đại đội, tiểu đội chúng tôi xuất kích đánh thọc vào ngang mạng
sườn ép địch dạt vào bãi mìn. Bọn địch vừa bị đạn thẳng, cối và mìn nên thương vong nhiều, buộc
phải rút chạy về phía sau.
Có một kỷ niệm nhỏ, một hôm cả tiểu đội xuất kích đánh địch về
đang ngồi ăn cơm. Trời tối đen nhưng không được thắp đèn. Bất thần pháo 105 của
địch bắn tới tấp vào trận địa. Mọi người lao vội xuống hầm. Anh Lê Văn Sơ chân
đang đi đôi giày vải cao cổ, cuống cuồng bước vào nồi nước sôi vừa bắc từ trên
bếp xuống. Nóng quá, anh kêu toáng lên. Tôi vội lấy dao cắt đứt dây tháo giày
ra, chân anh vẫn bị bỏng nhẹ. Sau này gặp lại, anh Sơ đùa:
- Bữa đó tại chú mày mà anh hỏng mất đôi
giày đẹp đấy.
Tôi đùa lại:
- Bữa đó không có em nhanh trí thì anh
vẫn còn nguyên giày nhưng không còn đôi chân lành lặn như bây giờ đâu.
Hai anh em ôm nhau cười.
Kết thúc nhiệm vụ phòng ngự ở Sê-Con-Cam,
chúng tôi trở về đội hình cũ. Cả tiểu đoàn đang tham gia vận chuyển lương thực,
làm đường và kéo pháo vào chuẩn bị đánh lớn ở Huội Mua. Không khí chuẩn bị
chiến trường rầm rộ. Chặt cây, san đường xong thì kéo pháo vào trận địa. Anh
Bài, anh Tính nói với cả tiểu đội rằng từ ngày đi chiến trường đến bây giờ,
chưa bao giờ có lực lượng tham gia hùng hậu đến như vậy. Có bộ binh, công binh,
pháo binh, nghe đâu có cả xe bọc thép nữa.
Trung đội chúng tôi được giao nhiệm vụ
kéo một khẩu pháo 105 ly từ phía bắc Mường Phìn vào gần Sê-Con-Cam. Tuy không
vượt dốc, trèo đèo như người ta vẫn nói về việc kéo pháo vào, pháo ra ở Điên
Biên Phủ trước đây, nhưng quả thật kéo pháo là rất mệt. Người mỏi nhừ, tay
phồng rộp. Những ngày kéo pháo vào trận địa chúng tôi vui và tin tưởng. Vậy là
trong trận chiến đấu tới đây, bộ binh chúng tôi được pháo binh chi viện. Pháo
105 ly sẽ bắn sập công sự và tiêu hao sinh lực địch, uy hiếp găm quân địch
xuống, tạo điều kiện cho bộ binh tấn công, hoặc là chế áp pháo binh địch bắt
chúng phải câm họng.
Ngày đó, tôi thấy cả ông Xổm Xắc, Tổng
Tham mưu phó Quân đội Pa thét Lào xuống thăm hỏi và động viên chúng tôi
trong khi kéo pháo. Ông là người Lào
Thưng, hoạt động chủ yếu ở Trung Hạ Lào. Các anh cán bộ trong tiểu đoàn tôi rất
thân thiết với ông, coi ông như người cùng đơn vị. Ông và đại đội địa phương tỉnh Savanakhet đã cùng
ăn, cùng ở, cùng hoạt động, cùng sát cánh chiến đấu trên một chiến hào với bộ
đội tình nguyện Việt Nam.
Đúng là tình hữu nghị đặc biệt hiếm có.
Theo trinh sát tiểu đoàn báo cáo và thông
báo của trên, đồn Huội Mua của địch đóng trên một ngọn đồi thấp, có công sự gỗ
đất với mấy lớp lô cốt, được nối với nhau bằng chiến hào và giao thông hào; có
một lớp hàng rào thép gai và bên ngoài là một lớp cây rừng cưa đổ bao quanh làm
chướng ngại vật; lực lượng địch có một đại đội tăng cường. Khi Huội Mua bị tấn
công, pháo binh địch ở Pà Lan, Đồng Hến sẽ bắn chi viện.
Tiểu đoàn 929 chúng tôi là lực lượng chủ yếu
tấn công vào đồn Huội Mua. Ngoài hỏa lực vốn có trong biên chế là cối 82ly, ĐKZ
75ly, đại liên, Tiểu đoàn được trên chi viện là 4 khẩu 105ly, 4 khẩu cối 120
ly, một đại đội súng cao xạ 12,7 ly. Nghe nói còn có cả 4 xe bọc thép sẵn sàng
xuất kích. Nghe nói, vì khi chuẩn bị chiến trường tôi không nhìn thấy và cũng
không được cấp trên chính thức phổ biến.
Theo phương án tác chiến của tiểu đoàn
được cấp trên thông qua, Đại đội 1 là lực lượng chủ công đánh vào hướng chủ
yếu, Đại đội 2 chúng tôi đánh vào hướng thứ yếu, Đại đội 3 làm lực lượng thê
đội 2, sẵn sàng ứng phó các tình huống. Trong khi pháo binh ta bắn cấp tập vào
trận địa địch, lực lượng bộ binh nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí xuất phát tấn
công, đào hố cá nhân ẩn nấp, chờ sẵn. Khi pháo binh chuyển làn, bộ binh các mũi
thực hành phá rào mở cửa tấn công quân địch trong công sự. Hiệu lệnh tác chiến
là súng pháo hiệu do tiểu đoàn trưởng quyết định.
Đúng 5 giờ chiều ngày 15 tháng 4 năm
1965, Tiểu đoàn 929 xuất kích vào chiếm lĩnh vị trí tập kết. Dưới nắng chiều,
cả đoàn quân vòng lá ngụy trang phấp phới, trông khí thế rất hùng dũng. Mấy anh
Điện ảnh Quân đội trực tiếp quay phim. Máy trên vai chạy sè sè, ghi hình bộ đội
hành quân và thực hành chiến đấu. Trước đó các anh cũng đã ghi hình chúng tôi
kéo pháo vào trận địa.
Đúng 6 giờ tối, pháo 105ly và cối 120ly,
đặt cách trận địa chừng 5 km, đồng loạt khai hỏa. Lần đầu tiên được nghe tiếng
nổ đầu nòng (tiếng đề-pa) tiếng đạn rít trên không và tiếng nổ giòn to đanh,
rất trúng đích, chúng tôi mừng vô cùng. Có người không kìm được, nhảy kiễng lên
hô lớn:
- Tiên sư mấy thằng Phu Mi nhé, phen này
cho chúng mày chết. Thắng đến nơi rồi, anh em ơi!
Chúng tôi vào đến vị trí xuất phát tấn
công, cách đồn địch chừng 200 mét, dừng
lại dùng xẻng đào hố cá nhân. Pháo binh vẫn dồn dập nã đạn. Trong đồn nhiều đám
cháy bốc lên cao. Chắc quân địch cho rằng, ta chỉ tập kích bằng hỏa lực, không
có bộ binh, nên chưa thấy động tĩnh gì. Thỉnh thoảng trong đồn bắn vu vơ ra
xung quanh trận địa mấy quả cối và mấy loạt đại liên như thể thăm dò. Cả một
vùng rực sáng. Anh Bài bảo tôi chú ý giữ khoảng cách kẻo lạc. Mọi người trong
tư thế sẫn sàng nổ súng. Chừng 10 phút, pháo chuyển làn, từ phía sau hai phát
pháo hiệu đỏ rực vút lên không trung. Anh Quí hô toàn trung đội vượt qua hàng
rào, đánh thẳng vào tiền duyên địch. Chúng tôi vừa vượt qua hàng rào bằng cây
khô, băng qua lớp hàng rào thép gai, cách chiến hào tiền duyên của địch chừng
100 mét, thì các họng súng trong đồn bắn tới tấp vào đội hình. Vừa nhô lên có
mấy người bị trúng đạn, gục tại chỗ. Trong giây lát tất cả các hướng tấn công
đều bị khựng lại, chững lại.
Anh Bài hô:
- Liệu dùng B40 bắn vào lô cốt đầu cầu.
Anh Liệu phóng liền hai quả mà vẫn không
trúng. Anh Các xả tiếp một tràng trung liên vào đó cũng chẳng ăn thua. Từ dưới
nhìn lên, các hỏa điểm của địch bắn ra đỏ rực, đạn bay chíu chíu, cày xới xung
quanh chúng tôi. Thực sự, lúc đó tôi cũng hoảng. Nói không sợ là tự dối lòng
mình.
Từ phía sau đội hình, anh Dương đại đội
trưởng điều khẩu đội ĐKZ 75ly được tiểu đoàn tăng cường cho đại đội, đặt ngắm
bắn trực tiếp mấy phát liền. ĐKZ vừa bắn xong, anh lao lên, hô lớn:
- Nào các đồng chí, dừng lại đây là chết,
tất cả xung phong.
Đáp lời anh, cả Trung đội 2 chúng tôi vừa
chạy thốc lên vừa cặp súng bắn trong làn đạn địch. Anh Liệu bắn tiếp một quả
B40, chúng tôi nhìn rõ quả đạn lao vút cắm phập vào lô cốt đầu cầu nổ rầm lên,
khẩu đại liên địch bị tiêu diệt. Cả trung đội lao lên chiếm được chiến hào
ngoài cùng.
Nhìn lại đội hình, tôi đã thấy thưa dần.
Theo lệnh anh Quí trung đội trưởng, các tiểu đội xốc lại lực lượng, bám chắc tiền duyên đánh
lấn vào trong. Tiếng lựu đạn nổ chát chúa.Tiếng súng bộ binh các loại nổ liên
hồi, đanh rát. Anh Bài chỉ huy chúng tôi đánh thốc vào sườn bên phải. Tôi ném 2
quả lựu đạn, bắn liền cả kẹp đạn CKC.
Trong vòng 1 giờ đồng hồ, từ chiến hào
tiền duyên địch, đại đội chúng tôi đánh chiếm được mỏm đồi thấp phía ngoài. Cả
trận địa mịt mù khói đạn, khét lẹt, cay xè. Từ đây phát triển vào tung thâm
phải qua một cái yên ngựa. Đồi phía trong cao hơn. Từ trên cao hai khẩu đại
liên địch bắn chéo cánh sẻ, đạn bay xối xả,chi chít. Thêm vào đó là các loại
súng phóng lựu, cối 81 ly, ĐKZ của địch bắn ra dữ dội. Giằng co mãi hàng tiếng
đồng hồ, không sao dứt điểm được. Mấy lần đại đội tổ chức tấn công đều bị đánh
bật lại, do bị tổn thất quá nhiều. Anh Dương không chịu lùi, trực tiếp dẫn
Trung đội 1 đánh thốc lên lần nữa, lại cũng bị thương vong quá nửa. Bản thân
anh Dương bị thương vào đầu và chân, anh em phải cõng ra.
Phía bên kia, Đại đội 1 là hướng tấn công
chủ yếu của tiểu đoàn cũng gặp khó khăn, thưa dần tiếng súng, chỉ đánh chiếm
được non một nửa trận địa địch. Ta thương vong lớn. Địch co cụm chống trả quyết
liệt, chờ viện binh. Nếu tình trạng này kéo dài, trời sáng địch sẽ cho máy bay
đến oanh kích và cho bộ binh đến chi viện. Lệnh của trên cho tiểu đoàn rút lui.
Đề phòng địch phản công, đại đội bố trí
thực hành rút theo kiểu cuốn chiếu. Đưa thương binh, liệt sỹ ra trước, các
trung đội lần lượt rút dần ra. Đến 7 giờ sáng hôm sau, cả tiểu đoàn mới về đến
hậu cứ. Trong trận này tôi có mấy người bạn hy sinh. Trong đó tôi thương nhất
là Cồng, 18 tuổi, cao to, trắng trẻo, đẹp trai, quê Tĩnh Gia - Thanh Hóa, bị
thương nặng cụt cả hai chân, còn tỉnh táo, nhưng khiêng ra đến được nửa đường
về hậu cứ thì hy sinh vì mất quá nhiều máu. Trên đường ra, hai chiếc máy bay
T28 của địch quần đảo bắn phá dữ dội nhưng cách đội hình hàng trăm mét, không
ai bị thương vong.
Sau này tôi được biết rẳng, cùng phối hợp
tác chiến với trận Huội Mua của Tiểu
đoàn 929 chúng tôi, còn có trận đánh vào căn cứ địch ở Đồng Hến do Trung đoàn 9
- Sư đoàn 304 đảm nhiệm với qui mô to hơn nhưng cũng không giành được thắng
lợi. Tổn thất thương vong nhiều. Trận đó, anh Lê Khả Phiêu, sau này làm Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, làm
Phó Chính ủy Trung đoàn 9 trực tiếp đi với mũi vu hồi. Hướng chủ yếu do anh Mai
Hiền, Tham mưu trưởng Sư đoàn ( sau này là thủ trưởng của chúng tôi hồi chiến
đấu ở tây Thừa Thiên ) trực tiếp chỉ huy. Anh Mai Hiền là người trưởng thành từ
chiến sĩ đã dạn dày trận mạc, trải qua nhiều cương vị chỉ huy chiến đấu trong
kháng chiến chống Pháp lên tới trung đoàn trưởng. Nhưng đến khi đánh trận Đồng
Hến thì anh Hiền bị kỷ luật do không hoàn thành nhiệm vụ, gây hậu quả nghiêm
trọng. Chính trận Đồng Hến như một cái lá chắn, cản trở con đường công danh sự
nghiệp của anh.
Vậy đấy, đừng ai nghĩ rẳng đánh giặc bao
giờ cũng thắng, dù người cầm quân là ai đi nữa. Thành bại là việc thường của
binh gia. Vấn đề là, phần thắng cuối cùng thuộc về ai. Chính Tôn Tử - Nhà quân sự lỗi lạc của Trung
Quốc thời cổ đại - đã tổng kết rằng: tri kỷ, tri bỉ, bách chiến vô nguy. Nghĩa
là: biết địch, biết ta, trăm trận không nguy. Không nguy là không bị thất bại
lớn, không bị tiêu diệt. Chứ không phải như nhiều người giải thích không thật
đúng là: biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng. Cổ, kim, đông, tây, có lẽ
chưa có danh tướng nào trăm trận, trăm thắng!
Kết thúc trận Huội Mua, các đơn vị trợ
chiến rút về nước. Tiểu đoàn 929 chúng tôi vẫn ở lại củng cố, bổ sung quân số,
trang bị, tiếp tục bám trụ địa bàn trong mùa mưa năm 1965. Đến giữa năm 1965,
trên quyết định thành lập Trung đoàn 29 trên cơ sở lấy Tiểu đoàn 929 làm nòng
cốt, đổi tên là Tiểu đoàn 7. Điều thêm từ bên nước sang 2 tiểu đoàn bộ binh là
Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 9, các đại đội trực thuộc gồm công binh, thông tin,
cối, ĐKZ, trinh sát, vận tải, quân y, cao xạ 12 ly 7 và Trung đoàn bộ. Trung
đoàn 29 trực thuộc Quân khu 4 có nhiệm vụ hoạt động đánh địch án ngữ địa bàn
tỉnh Savanakhet, giữ vững vùng giải phóng, bảo vệ hành lang phía tây cho Đường
dây Chiến lược 559.
Ngày mới thành lập, trung đoàn trưởng là
anh Võ Hạp quê Thừa Thiên; chính ủy là anh Trần Văn Ân quê xã Diễn Thịnh, huyện
Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; trung đoàn phó là anh Trần Sĩ Kịch quê ở xã Quảng
Long, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình; phó chính ủy là anh Đặng Chính Đoàn
quê ở xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Anh Kịch, anh Đoàn vốn là tiểu
đoàn trưởng và chính trị viên Tiểu đoàn 929 những năm trước. Trên bổ nhiệm anh
Hoàng Nhiên làm tham mưu trưởng trung đoàn, Anh Nguyễn Hoán quê ở xã Cẩm Thăng,
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh được trên điều về thay anh Nhiên làm tiểu đoàn
trưởng.
Tôi nhớ, có một lần ở con suối cạn tôi
gặp một anh bộ đội đã khá già, người thấp bé, mặc một bộ quân phục cũ sờn nhuộm
màu lá khộc, chân đi vòng kiềng, miệng nhai trầu bỏm bẻm, răng đen, mắt mấp
máy. Chẳng biết là ai, tôi hỏi:
- Bác ơi,quê bác ở đâu, bác làm gì, ở đơn vị nào?
Anh bộ đội già nhoẻn miệng cười, từ tốn trả
lời:
- Tớ quê Diễn Thịnh, Diễn Châu, Nghệ An. Làm nuôi quân ở trung đoàn bộ.
Tôi nhanh nhẩu buột miệng nói:
-
Trời ơi, tội nghiệp chưa, hết người rồi hay sao mà lại bắt ông già phải đi
chiến trường thế này?
Rồi anh bộ đội già bỗ bã thân tình hỏi
tôi chuyện ăn ở, sinh hoạt, chuyện chiến đấu. Tôi trả lời một cách hồn nhiên,
mộc mạc. Khi thấy anh Lê Văn Dánh từ xa đi đến đứng nghiêm chào ông và giới
thiệu, mọi người mới té ngửa, đó là anh Trần Văn Ân, Trung tá, Chính ủy trung
đoàn. Tôi hú vía, ngượng ngùng xấu hổ.
Anh Trần Văn Ân vào Đảng từ năm 1938, sau
này là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 4. Trong chiến tranh và cả sau ngày hòa
bình, tôi còn tiếp xúc với anh Ân nhiều dịp. Mỗi lần gặp nhau, anh vẫn thường
trìu mến gọi tôi bằng con.
Tiểu đoàn chúng tôi được giao nhiệm vụ
chuẩn bị đánh quân địch đổ bộ bằng đường không xuống khu vực xung quanh thị
trấn Mường Phìn. Cả tiểu đoàn xây dựng công sự khá tốt, có lô cốt gỗ đất, ụ súng,
giao thông hào và chiến hào. Cắm chông chi chít mấy bãi đất trống, dự kiến địch
có thể đổ quân bằng trực thăng hoặc nhảy dù. Các đại đội ngày đêm luyện tập
phương án đánh địch. Lúc này các anh điều tôi làm liên lạc đại đội. Tôi càng có
điều kiện tiếp xúc và học hỏi các anh thủ trưởng được nhiều hơn.
Một thời gian sau, trên lệnh cho tiểu đoàn xây
dựng trận địa chốt chặn địch trên Đường 13, đoạn từ thị trấn Mường Phìn đi về
phía nam khoảng 20km. Đó là những dãy đồi cao, xa hơn về phía nam là sông Sê-Măng-Hiêng,
con sông duy nhất chảy từ phía Đông sang phía Tây. Về địa thế quân sự, ai chiếm
được dãy đồi này thì khống chế được toàn bộ khu vực Mường Phìn. Lúc này cả đơn
vị đang đóng quân ở khu vực bản Nôn Nhang, cách trận địa dự kiến bố trí khoảng
30 km. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoán cùng trinh sát dẫn các đại đội trưởng đi
địa hình và giao nhiệm vụ trực tiếp tại thực địa. Tôi lọc cọc theo anh Dương đại
đội trưởng đi địa hình mấy ngày liền. Ngày quay trở về đưa đơn vị ra trận địa
thì bất ngờ anh Dương vừa bị sốt vừa bị đi lỏng liên tục, người xanh xao cứ lả
dần kiệt sức không thể đi được. Anh Dương trao đổi với anh Nguyễn Thụy chính
trị viên rằng, ngoài anh ra chỉ có tôi biết địa hình và hơn thế nữa là biết
được ý định của anh về bố trí lực lượng của đại đội ở khu vực phòng ngự trong
thế bố trí chung của tiểu đoàn. Vì vậy, mạnh dạn giao cho tôi dẫn các trung đội
trưởng và tiểu đội trưởng hỏa lực đi lên bố trí lực lượng ở Đường 13. Anh Thụy
nhất trí vì nhiệm vụ thì đã cận kề, không còn cách nào khác.Trước khi chúng tôi
lên đường, anh Dương dặn dò thêm mấy việc cụ thể.Việc một liên lạc đại đội thay
mặt đại đội trưởng dẫn các trung đội trưởng đi bố trí trận địa ngày đó là hiếm,
gây xôn xao cả tiểu đoàn. Nhiều người tin tưởng, cho rằng như thế là rất hợp
lý, vì tôi có trí nhớ tốt, nắm chắc ý định của tiểu đoàn và của anh Dương. Một
tuần sau khỏi bệnh, anh Dương lên kiểm tra trận địa. Anh rất hài lòng, vì việc
bố trí lực lượng hoàn toàn đúng. Anh biểu dương tôi trước hàng quân. Tôi mừng
lắm.
Vốn là liên lạc đại đội thời kỳ chiến đấu
ở chiến trường Lào, sau ngày Miền Nam
hoàn toàn giải phóng, tôi cố ý tìm lại các anh cán bộ đại đội ngày đó. Có người
thì bặt vô âm tín, có người thì tìm được trong những trường hợp tình cờ, ngẫu nhiên.
Trong số cán bộ đại đội ngày đó, tôi gắn
bó nhất là anh Nguyễn Văn Dương. Vì tôi làm liên lạc cho anh hơn 1 năm ở chiến
trường. Tôi cố tìm anh bằng được. Năm 1999, khi còn là Cục trưởng Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị vào công tác ở
Tỉnh đội Đồng Tháp, nghe nói ở Thị xã Cao Lãnh có một ông bộ đội tên là Dương,
đã nghỉ hưu, quê ở xã Hưng Đạo, Hưng Nguyên, Nghệ An vào ở với con trai tên là
Tâm, cán bộ của Tỉnh đội. Tôi tìm đến tận nhà, nhưng khi gặp, thì lại không
phải.
Tháng 6 năm 2001, lúc còn là Phó Hiệu
trưởng Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1 đi kiểm tra học viên năm cuối đang
thực tập tại Sư đoàn 324 - Quân khu 4, đóng tại Đô Lương, Nghệ An. Khi ra thao
trường của Trung đoàn 1, tôi gặp một cán bộ tên là Minh, Thiếu tá, cán bộ Phòng
Chính trị Sư đoàn quê ở xã Hưng Đạo, hỏi thăm thì được biết anh Dương vẫn còn.
Tôi mừng, nhưng sợ lại nhầm hoặc sợ lâu quá rồi anh Dương không còn nhớ tôi
nữa. Vì vậy, trước khi về Trường tôi đã viết một lá thư nhờ Minh lúc nào về quê
chuyển cho anh Dương. Một tuần sau tôi nhận được thư trả lời, anh nói rằng vẫn
nhớ tôi và nhiều năm nay tìm mà không biết ở đâu. Anh mời tôi về quê chơi để
anh em gặp nhau.
Tết năm 2001, tôi về gặp lại anh Dương.
Anh em ôm nhau ngẹn ngào. Xa nhau hơn 35 năm mới gặp lại, thật cảm động. Ôn lại
chuyện cũ mừng mừng tủi tủi, nhớ lại bao đồng đội không còn. Tôi đề nghị anh ra
ngoài sân dạo một vòng, anh trước tôi sau. Vào nhà, tôi hỏi chị Yên và mấy
người con trai:
- Trong nhà mình có ai biết khi đi anh
Dương có đặc điểm là gì không?
Mọi người lắc đầu không biết.
Tôi nói :
- Khi đi anh Dương thường nhô vai trái
lên trước và cao hơn vai phải một chút. Tôi biết điều đó vì những khi hành quân ở chiến trường, bao giờ tôi cũng
lẽo đẽo mang khẩu AK đi sau anh. Hành quân ở chiến trường không phải tính bằng
ngày mà có nhiều khi là cả tháng.
Anh Dương kể với tôi, sau khi rời đơn
vị trên điều động anh làm Tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn huấn luyện quân đi B thuộc Đoàn 22, sau đó làm Tiểu đoàn
trưởng đặc công chiến đấu ở Đường 9 - Khe Sanh. Đến năm 1970 anh bị thương ra
Bắc điều trị một thời gian thì nghỉ hưu.
Cũng nhờ về thăm anh Dương lần đó mà tôi
còn gặp được anh Nguyễn Quốc Việt là người cùng chiến đấu với tôi hồi ở Đại đội
20 Dặc công Trung đoàn 3, nay về nghỉ ở quê. Anh Việt dẫn tôi về nhà rồi đi
thẳng vào gian giữa. Anh chỉ tay lên xà nhà, hỏi tôi có đọc được chữ gì không.
Tôi ngước lên nhìn thấy dòng chữ viết ngay ngắn bằng phấn trắng đã mờ theo thời
gian nhưng vẫn đọc được: “Người giới
thiệu tôi vào Đảng là ông Nguyễn Mạnh Đẩu, quê ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc”.
Anh Việt bảo tôi rằng, anh ấy viết lên đó để làm kỷ niệm cho mình và con cháu.
Nghe anh nói, tôi xúc động về tình cảm của những con người một thời trận mạc.
Sau này có hai lần tôi mời anh Dương ra
nhà tôi ở Hà Nội và lên Trường Lục quân 1 chơi. Anh vốn là cựu học viên Khóa 10
của Trường. Hàng năm anh vẫn về quê tôi trong dịp giỗ mẹ tôi, ngày 21 tháng 1 âm lịch. Khi cha tôi từ trần,
ngày 17 tháng 5 âm lịch năm 2008, anh Dương cùng con trai trưởng và cháu đích
tôn đến viếng. Đến giỗ 49 ngày cha tôi cũng vậy.
Anh Nguyễn Văn Dương bị ốm nặng điều trị
ở Quân y viện 4 không khỏi, gia đình đưa về nhà, mất lúc 3 giờ sáng ngày 25
tháng 5 âm lịch năm 2009 ở quê. Nghe tin, tôi
tức tốc về quê kịp nhìn mặt anh
lần cuối và tiễn biệt anh về nơi an nghỉ cuối cùng, giữa một chiều hè gió Lào
cuồn cuộn, nóng hầm hập, nắng chói chang.
Tháng 5 năm 2006, khi làm Chính ủy Tổng
cục Kỹ thuật, trong một lần tôi đi công tác ở Tây Nguyên gặp anh KsorNham, Phó
Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai tại Hội nghị xây dựng vành đai an toàn của các kho vũ
khí, đạn dược trên địa bàn Tây Nguyên. Anh KsorNham có nước da đen bóng, dáng
người cao to và gương mặt đẹp, được các đạo diễn chọn làm diễn viên đóng vai
Anh hùng Núp trong bộ phim Đất nước đứng lên. Nhìn anh, tôi liên tưởng đến anh
Lê Văn Lướt - người đại đội phó năm xưa - vì giữa hai người có nhiều nét giống
nhau. Tôi nhờ anh KsorNham tìm hộ, may ra gặp được. Thật là mò kim đáy bể nhưng
không hiểu sao tôi tin là anh có thể tìm được, vì anh có lợi thế là cựu Giám
đốc Công an tỉnh Gia Lai.
Mấy ngày sau về Thành phố Hồ Chí Minh,
đang đêm tôi nhận được điện của anh KsorNham. Anh bảo rằng, nhân dự một đám
cưới, anh đã tìm được ông Lê Văn Lướt cán bộ quân đội nghỉ hưu ở thị trấn Đắc
Đoa, Gia Lai. Và khi hỏi ông Lướt thì ông ấy vẫn còn nhớ tôi. Tôi mừng quá.
Đợt công tác sau vào Tây Nguyên tôi tìm
đến tận nhà anh Lướt. Người đại đội phó cường tráng, xông xáo, oanh liệt một
thời là niềm mơ ước cuả chúng tôi, nay là một ông già ngót 80 tuổi, hom hem.
Gánh nặng thời gian đè lên tất cả mọi số phận. Nhìn anh, chỉ còn sót lại hàm
răng trắng và đôi mắt sáng. Anh là người dân tộc Giarai, đi bộ đội từ hồi chống
Pháp, hòa bình lập lại tập kết ra Bắc, được cử đi học Trường Sĩ quân Lục quân,
khóa 11. Vốn anh không có họ, chỉ có tên là Lướt. Khi nhập học, cơ quan cán bộ
yêu cầu phải có cả họ trong danh sách đăng ký, chợt nhìn lên phía trên phòng
họp thấy treo ảnh ông Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
anh khai đại mình họ Lê – Lê Văn Lướt. Và từ đó, suốt đời anh và sau này nữa,
các con anh, mang họ Lê.
Năm 1963, tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục
quân, với quân hàm Thiếu úy, anh được điều đi chiến đấu ở chiến trường Lào giữ
chức Đại đội phó đại đội chúng tôi. Sau đó, giữa năm 1965, là người dân tộc,
anh được điều động về hoạt động ở địa bàn Tây Nguyên. Đến năm 1985, sức khỏe
yếu, lại là thương binh, anh được trên cho nghỉ hưu.
Tôi hỏi:
- Trước khi về nghỉ hưu, anh giữ cấp bậc
gì?
Anh cười hiền khô:
- Đẩu ơi! mình có hai sao thôi.
Tôi bảo:
- Vậy là anh Trung tá.
Anh nói ngay:
-
Không, mình chỉ là Trung úy.
Tôi thốt lên:
- Trời ơi! Hơn 12 năm chiến đấu ở chiến trường, vào sống
ra chết bao nhiêu trận, vậy mà anh chỉ được mỗi bậc quân hàm – tức là một bậc
lương thôi ư?!
Anh mỉm cười:
- Ồ, đấy là việc của tổ chức mà. Mình có
suy bì, so sánh, đòi hỏi gì đâu. Nước có giặc thì đi đánh giặc. Hết giặc thì về
quê. Tổ chức trao gì được nấy. Biết làm sao được. Biết bao người còn thua thiệt
hơn mình nữa chứ.
Tôi chia tay anh dưới rặng thông già,
giữa nắng chiều Tây Nguyên vàng ruộm, lòng trĩu nặng ngậm ngùi, suy tư. Ngoài
kia, đường 14 phẳng lì, hối hả người xe tấp nập.
Đầu năm 1966, Trung đoàn 29 được lệnh rút
về nước. Sau gần mười ngày hành quân, chúng tôi về đóng quân ở huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình. Khi vượt Trường Sơn nhìn về phía Đông dưới kia những thôn xóm
hiện ra trước mắt, tiếng trẻ con khóc, tiếng chó sủa, gà kêu, đặc biệt là mùi
khói lam chiều, lòng tôi lâng lâng vui buồn khó tả. Vui vì được trở về Tổ quốc
sau gần 2 năm đi chiến đấu trên chiến trường nước Bạn. Buồn nhớ thương da diết
những người bạn nằm lại không về. Trước khi hành quân về nước, thủ trưởng tiểu
đoàn yêu cầu các đại đội cho người lên nghĩa trang đắp lại mộ liệt sĩ, tổ chức
viếng. Đúng trước những dãy mộ dài, hình ảnh thân thương của từng người bạn
chiến đấu hiện về trong đầu tôi. Họ đều trạc tuổi tôi, còn rất trẻ. Khi quay
ra, lòng chúng tôi ngẹn ngào, mắt đỏ hoe. Thôi ! bọn mình về nhé, nằm tạm đây,
mai này có dịp sẽ sang đưa các bạn về đất mẹ.
Về đến Lệ Thủy, trung đoàn bộ đóng ở xã
Dương Thủy, bên sông Kiến Giang. Tiểu đoàn 7 chúng tôi đóng quân ở xã Tân Thủy.
Đại đội 2 đóng quân ở xóm Tân Thái. Tôi và Kham cùng liên lạc đại đội ngủ trong
nhà ông Dương Văn Oanh có con trai đi bộ
đội Hải quân tên là Bảo, có cô con gái độ 16 tuổi tên là Dương Thị Yến. Đêm đầu tiên mới đến trời tối
mịt, tôi được bà chủ nhà xếp cho ngủ trên chiếc giường một. Đang loay hoay chưa
biết trải giường thế nào, tôi hỏi bà chủ nhà, mẹ ơi khi ngủ trở đầu đường nào.
Hồi đó mới thoáy ly, tôi nói còn nặng tiếng địa phương. Không nghe quen tiếng
Nghi Lộc, bà chủ nhà trả lời tôi, con ơi không được thắp đèn, ở đây máy bay
hoạt động dữ lắm. Nhà không có dầu đâu. Nghe xong cả nhà cùng cười. Có sự trùng
hợp ngẫu nhiên lý thú: có ba người nằm ngủ trên cái giường gỗ đó ở ba thời điểm
khác nhau, sau này đều là cấp Tướng. Năm 1966, tôi ở đó khi còn làm liên lạc
đại đội thì sau này là Trung tướng. Năm 1969, anh Nguyễn Huy Hiệu ở đó khi làm
đại đội trưởng, sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Năm 1972,
anh Vũ Cao ở đó khi làm Trung đoàn trưởng pháo binh, sau này là Trung tướng,
Cục trưởng Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu.
Những chuyện đó, mãi tới sau này, năm 1999 gặp
lại cô Yến ở Đà Nẵng, tôi mới biết. Cô Yến nói với tôi rẳng, bố em đã hy sinh
năm 1972 khi đang chỉ huy trung đội dân quân bắn máy bay Mỹ. Mẹ em còn sống,
năm nay đã 82 tuổi , thế mà thỉnh thoảng bà vẫn nhắc cái đêm đầu tiên vào nhà
ngủ, anh hỏi trở đầu đường nào, thì bà lại trả lời là không có dầu đâu. Đặc
biệt là, cái giường gỗ nhà em ngày đó nay vẫn còn. Các anh xem có nên đưa về
làm kỷ niệm. Vì từng ngủ trên cái giường đó các anh ra đi chiến đấu còn sống
trở về và sau này đều thành đạt lên tới cấp Tướng.
Chuyện tôi gặp lại cô Yến cũng rất tình cờ.
Cuối năm 1999, trong một chuyến đi công tác ở Huế, buổi tối khi du thuyền trên
sông Hương, chúng tôi ngồi cùng vợ chồng anh Chương, Trưởng Ban Chính sách tỉnh
đội Thừa Thiên Huế. Theo thói quen, tôi hỏi chị vợ anh Chương:
- Chú Chương quê ở xã Quang Lộc, huyện
Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh thì tôi biết rồi. Còn cô quê ở đâu?
Cô ấy trả lời:
- Quê em ở xã Tân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
anh ạ.
Tôi hỏi tiếp:
- Thế có biết cô Yến con ông Oanh không?
Cô
ấy nói:
- Chị Yến người cùng xóm Tân Thái với em.
Chị ấy lấy chồng bộ đội tên là Trần Văn Tam, Đại tá, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh
Hải quân. Gia đình hiện nay đang ở Đà Nẵng.
Cô lục tìm cho tôi số điện thoại của Yến.
Về tới nhà nghỉ ở Đoàn 40B trên đường
Trần Cao Vân, dẫu đã khuya, tôi vẫn gọi điện. Sợ bị nhầm, tôi nói thật rành rõ
là, tôi muốn gặp chị Yến con ông Oanh quê ở xóm Tân Thái, xã Tân Thủy, huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình. Chưa kịp hỏi tôi là ai, thì Yến đã thốt lên:
- Ôi!
anh Đẩu phải không? Anh vẫn còn
sống à?
Tôi bàng hoàng cảm động. Đã 33 năm không
gặp lại nhau, thế mà Yến vẫn nhận ra tôi qua điện thoại.
Liên lạc Đại đội 2 lúc đó có tôi và Nguyễn Văn
Kham quê ở xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Kham hơn tôi 1 tuổi,
nhập ngũ trước tôi 6 tháng, người khỏe mạnh, dũng cảm, hiền từ, siêng năng.
Chúng tôi coi nhau như anh em em ruột. Năm 1968, khi vào chiến đấu ở Huế, Kham hy sinh khi làm trung đội trưởng đánh vào
Thành nội. Lần gặp cô Yến ở Đà Nẵng, nghe tôi nói Kham đã hy sinh, Yến nghẹn
ngào, vậy mà mấy chục năm nay em không hề biết gì. Ngày trước Kham và Yến thân
nhau lắm, hình như yêu nhau rồi thì phải. Lúc chia tay cả hai đều khóc sướt
mướt. Hồi đó tôi còn lớ ngớ, chẳng biết gì.
Khi đơn vị đóng quân ở Lệ Thủy, Quảng
Bình, tôi nhận được thư của cha tôi. Đọc thư nhà, tôi đã nghẹn ngào âm thầm
khóc, thương xót cha tôi vô cùng. Cha tôi kể rằng, mẹ tôi mất, chị Hòe ở xa,
tôi đi chiến đấu, các em còn thơ dại, cha tôi vất vả lắm. Cảnh gà trống nuôi
con, ông vừa làm cha vừa làm mẹ. Trong chiến tranh chợ búa không họp ban ngày
vì sợ máy bay. Mọi thứ trao đổi mua bán chợ quê đều diễn ra cuối chiều, lúc
chập tối. Cái ăn không đủ, vải mặc thiếu thốn, sách vở học hành của ba em
nhỏ,…tất cả đều trút lên vai cha tôi một mình bươn trải. Lúc ấy ông mới hơn 50
tuổi. Mấy bận, chú Cát, anh Tần, anh Y, chị Nam về nghỉ phép, cám cảnh đó giục
cha tôi tục huyền. Cha tôi sợ cảnh mẹ ghẻ, con chồng, con ông, con bà phức tạp
ra, đành cắn răng chịu đựng.
Tháng 7 năm 1966, Trung đoàn chúng tôi
hành quân từ Lệ Thủy, Quảng Bình ra Hương Khê, Hà Tĩnh. Lúc này tôi đã được
điều lên làm tiểu đội trưởng liên lạc Tiểu đoàn. Hành quân từ Lệ Thủy ra Hương
Khê toàn tiểu đoàn đi dọc theo bờ biển khởi hành từ xã Ngư Thủy. Càng ra sát
mép biển càng dễ đi. Thời kỳ này ở Quảng Bình, Hà Tĩnh máy bay địch thường xuyên
hoạt động đánh phá ác liệt, nhất là trên các trục đường giao thông. Chọn phương
án đi theo dọc bờ biển là khá táo bạo, bất ngờ. Để tránh máy bay, cả đơn vị
ngày nghỉ đêm đi. Đến đêm thứ hai, từ Bảo Ninh chúng tôi vượt sông Nhật Lệ.
Chính Mẹ Suốt, được tuyên dương Anh hùng, là một trong những người chèo đò đưa
chúng tôi qua sông sang thị xã Đồng Hới. Thị xã Đồng Hới hồi đó đã bị máy bay Mỹ
oanh tạc tàn phá. Nhà thờ Động Tòa bị đánh sập tan tành chỉ còn trơ lại tháp
chuông. Ban ngày mọi người được nghỉ trong nhà dân trên trục đường hành quân.
Riêng liên lạc vẫn như con thoi phải đi lại truyền đạt mệnh lệnh của tiểu đoàn
đến các đại đội.
Khi về đến Hương Khê, tiểu đoàn đóng quân
ở xã Hương Hòa, trung đoàn bộ đóng ở xã Hương Đồng. Có lần, anh Đặng Chính Đoàn
phó chính ủy trung đoàn xuống làm việc với tiểu đoàn. Khi gặp, biết tôi mới
được điều từ đại đội 2 lên, anh Đoàn hỏi:
- Theo đồng chí, liên lạc tiểu đoàn khác
liên lạc đại đội cái gì, có oai hơn không?
Tôi trả lời:
- Thưa thủ trưởng, liên lạc tiểu đoàn và
liên lạc đại đội cùng giống nhau về tính chất nhiệm vụ - đều là liên lạc. Điểm
khác nhau là phạm vi hoạt động của liên lạc tiểu đoàn rộng hơn liên lạc đại
đội. Nhưng không vì thế mà oai hơn.
Nghe xong, anh Đoàn vừa nói vừa cười hồn
hậu:
-
Cậu này khá.
Thời kỳ này, chỉ huy các cấp thay đổi
nhiều. Anh Ma Vĩnh Lan, dân tộc Tày, quê Bắc Kạn làm Trung đoàn trưởng. Anh
Nguyễn Văn Cảnh quê ở Đô Lương, Nghệ An làm Chính ủy. Anh Nguyễn Hoán được đề
bạt lên Tham mưu trương Trung đoàn. Anh Bùi Trần, quê xã Vạn Ninh, huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình nguyên Trưởng tiểu ban Tác chiến Trung đoàn về giữ chức
Tiểu đoàn trưởng. Anh Dương được điều đi đơn vị khác.
Ngày anh Dương đi tôi đã khóc rất nhiều. Ở
chiến trường, anh Dương và tôi vừa như cha con vừa như anh em. Tình cảm giữa
chúng tôi sâu nặng. Sẵn sàng chia lửa, ứng cứu, che chở nhau trong hiểm nguy;
cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ. Trước khi lên đường, anh Dương dặn dò
tôi mọi điều, chúc tôi mạnh giỏi và mau chóng trưởng thành. Cuối cùng, anh đưa
tôi mấy đồng bạc. Anh nói rẳng, trong thời gian đóng quân ở đây mấy lần anh lên
Trung đoàn họp, khi qua sông Kiến Giang còn nợ tiền đò nay vội đi không kịp
trả, nhờ tôi chuyển hộ cho bác lái đò. Một việc cụ thể nhưng đối với tôi là bài
học lớn về sự chu toàn trong cuộc sống. Anh đã dạy tôi biết làm người lớn từ
những điều rất nhỏ nhoi, thường nhật.
Trong chiến đấu, thông tin là mạch máu,
phải thường xuyên bảo đảm thông suốt kịp thời, chính xác, bí mật. Ở cấp phân
đội, bất cứ loại hình chiến thuật nào, việc bảo đảm thông tin cũng phải kết hợp
bằng 3 cách: vô tuyến điện, hữu tuyến điện và truyền đạt chạy bộ. Vô tuyến điện
bằng máy 2 oát, 15 oát thì hay bị trục trặc kỹ thuật do địa hình, thời tiết,
máy móc, cũng có khi bị địch dò sóng phát hiện được. Hữu tuyến điện thì đường
dây thường bị bom, pháo băm nát. Thậm chí có khi bị địch móc máy vào nghe trộm,
lộ hết bí mật. Còn lại chỉ còn truyền đạt bằng chạy bộ là chắc chắn hơn. Tuy
nhiên, quá trình tác chiến, nhất là trong phòng ngự, mọi người được che chắn trong công sự, riêng liên
lạc phải băng mình trong lửa đạn để truyền đạt mệnh lệnh của người chỉ huy. Có
nhiều trường hợp thương vong. Cá biệt có trường hợp bị địch bắt. Bởi vậy, trong
chiến đấu, đơn vị nào cũng vậy, liên lạc phải là người nhanh nhẹn, thông minh,
gan dạ, trung thành, trung thực. Thông thường, liên lạc được chọn lựa từ hàng
trăm người trong đơn vị. Chọn liên lạc nhiều khi còn khó hơn chọn tiểu đội
trưởng. Quá trình công tác, người liên lạc thường xuyên tiếp xúc với lãnh đạo,
chi huy đơn vị, học hỏi được nhiều điều, nên phần đông liên lạc đều thành đạt.
Trong hàng tướng lĩnh của quân đội ta, nhiều người thuở ban đầu là liên lạc đại đội, liên lạc tiểu đoàn trong
chiến đấu.
Ở Hương Khê (Hà Tĩnh) tiểu đoàn thực hành
huấn luyện bổ sung. Ngày đó ngoài các loại hình chiến thuật đã có, được cấp
trên chỉ đạo hướng dẫn huấn luyện bổ sung chiến thuật mới là: chốt kết hợp với
vận động tấn công đánh quân địch đổ bộ đường không và chiến thuật phòng ngự
kiềng ba chân, hổ vồ mồi. Thao trường đặt trên các triền núi thuộc dãy Vũ
Quang, được chuẩn bị rất công phu. Với khẩu hiệu:“Thao trường đổ mồ hôi, chiến
trường bớt đổ máu”, cả đơn vị ngày đêm hăng say huấn luyện. Thời kỳ này đơn
vị mới được trang bị mìn định hướng ĐH10. Tôi nhớ hôm thực nghiệm nổ mìn ĐH10,
anh Hồ Hữu Lạn, Thiếu úy, Trợ lý công binh Trung đoàn trực tiếp thực hành. (Anh
Hồ Hữu Lạn quê ở xã Quỳnh Lương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An vào chiến đấu ở
chiến trường Trị Thiên, kết thúc chiến tranh làm Trung đoàn trưởng; sau này là
Đại tá, Sư đoàn trưởng rồi Tham mưu phó Quân khu 4 ). Tiểu đoàn trưởng Bùi Trần
cho cắm nhiều loại bia bằng cót dán giấy xen lẫn các thân cây chuối to tươi
cách nơi đặt mìn bằng nhiều cự ly khác nhau. Khi mìn nổ, chúng tôi cầm phấn
trắng đánh đấu những vết thủng dày chi chít trên mặt bia, kể cả những bia ở khá
xa, đến hàng trăm mảnh. Cùng với ĐH10, đơn vị còn học cách cài đặt mìn bay. Đào
những cái hố tạo ra độ chếch về phía địch, đặt một khối lượng bộc phá dưới một
tấm gỗ, trên tấm gỗ đặt nhiều quả mìn sát thương. Khi cho bộc phá nổ, đẩy tấm
ván hất toàn bộ mìn về phía trước.
Qua thực nghiệm, mọi người tin rằng nay mai
vào chiến trường mìn ĐH10 và mìn bay sẽ diệt được nhiều sinh lực địch, nhất là
trong phòng ngự. Tiểu đội liên lạc phải bám sát địa hình và phải hiểu được các
phương án tác chiến của tiểu đoàn để thuần thục mọi công việc của mình. Chúng
tôi thuộc hết khu vực các xã Hương Hòa, Hương Luyện, Hương Vĩnh, Hương Đồng và
vùng xung quanh. Mặc dù thuộc đường nhưng không được đi trên các trục đường có
sẵn mà giao cho từng người cầm một tấm bản đồ, một địa bàn, xác định tọa độ và
cắt góc phương vị đi, cả ban ngày lẫn ban đêm.
đọc bài viết của Bác con thấy hào hực trong lòng! nhất là khi trong bài viết có nhắc đến người thân của gia đình mình, cứ thấy nôn nao giống như là đang được sống trong thời kỳ đó vậy
Trả lờiXóa