Menu ngang

Thứ Tư, 25 tháng 6, 2014

                   CUỘC  ĐỜI  - TRANG  SÁCH

                                                    
  Giữa tháng 4 năm 2014, Đại tá AHLĐ Nguyễn Đăng Giáp trao tôi tập bản thảo Tự truyện của cha mình - ông Nguyễn Đăng Cẩn. Tôi thật vui, dành trọn một ngày đọc khá kỹ từng trang Tự truyện tuy mới ở dạng phác thảo “đẽo thô”, nhưng thật quí bởi ngồn ngộn tư liệu - Đó là bản lý lịch của ông bằng thể loại văn chương.
Qua nhiều lần tiếp xúc, đàm đạo với ông, từ ánh mắt, nụ cười, giọng nói đến những điều giãi bày sẻ chia tâm sự thế thái nhân tình, cảm nhận của tôi về ông đó là người: nhân nghĩa, thông minh hiểu biết, khảng khái. Hàng chục năm qua, cảm nhận đó không hề thay đổi. Đến nay tôi lại biết kỹ hơn về những nẻo đường thời gian trong cuộc đời phong phú sôi động trên từng trang hồi ký của ông.
Ông hơn tôi mười bốn tuổi, tức là hơn hẳn một thế hệ. Cùng quê Nghi Lộc,  từ xã tôi lên xã ông chừng bốn cây số. Tôi gặp ông lần đầu tiên ở quê vào năm 2000. Đó là một trưa Hè trời chang chang nắng, gió Lào hầm hập thổi. Những hàng cây phi lao, những lũy tre làng Đông Chử chao mình xào xạc trong cái khô khốc bỏng rát của nắng, của gió. Ông tiếp tôi trên chiếc chõng tre trước hiên nhà với ấm nước chè xanh đậm chát, ngát hương. Ngày đó ông còn khỏe, dáng người cao rắn rỏi, da dẻ hồng hào, hai vành tai to, cặp mắt đen luôn nhìn thẳng, tiếng nói khúc chiết, đĩnh đạc, vang ấm, đậm chất giọng miền Trung và âm sắc ngôn từ Nghi Lộc. Nhiều năm sau này, tôi còn gặp ông nhiều lần trên các công trình do Tổng công ty 36 thi công: Khi thì khởi công đập thủy điện Khe Bố ở miền tây Nghệ An; khi thì khánh thành Tượng đài Liệt sĩ ở Gio Linh ( Quảng Trị ) và nhiều nơi khác nữa. Ở các buổi Lễ khởi công hay khánh thành các công trình xây dựng rất hoành tráng của Tổng công ty 36, sự hiện diện của ông chan hòa trong sự đón chào trân trọng của mọi người từ các vị quan khách, tướng lĩnh đến bộ đội, công nhân. Ngày 29 tháng 10 năm Quý Tỵ (2013) tôi gặp ông trong Lễ khánh thành Tháp chuông và Lầu bia tại nhà thờ Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí - đó là hai công trình do các con trai ông cung tiến. Hôm đó, Hội đồng gia tộc đại tôn và đông đảo bà con các chi phái dòng họ Nguyễn Đình về dự Lễ đều dành cho ông tình cảm kính quí, thân tình.
Nhớ lần ông ốm nặng điều trị tại Trung tâm công nghệ cao Viện Quân y 108, tôi cùng các ông: Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, Giáo sư Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Kế Bằng vào thăm. May cho chúng tôi, có cô y tá trực nhận ra ông Nguyễn Quốc Thước nhiều lần xuất hiện trên TV được nhiều người kính nể mà “ưu tiên, đặc cách ” cho  vào thăm bệnh nhân ngoài giờ qui định. Dẫu đang mệt lắm, ông vẫn gắng gượng nói lời cám ơn bà con đồng hương đến thăm. Khi mọi người ân cần hỏi thăm, ông mỉm cười mà nói rằng: “ Không sao đâu các ông ạ. Con người ta khi đã qua 70 tuổi là có thể “đi” được rồi. Chưa đi chẳng qua là do nấn ná, lừng khừng hoặc đùn đẩy nhau mà thôi. Tôi năm nay vừa chẵn 80, nếu có ra đi, không có gì là lạ…”. Vậy đấy! Đến cả lúc lâm trọng bệnh, thập tử nhất sinh, ông vẫn trong tâm thế tỉnh táo, chủ động, lạc quan nhìn nhận mọi sự việc một cách bình thản, đượm chất trào lộng.
Sinh ra trong một gia đình nông dân gia giáo, căn cơ, nền nếp; lớn lên ở một miền quê nghèo khó, có truyền thống hiếu học, cương cường; đến tuổi trưởng thành, người thanh niên tràn đầy nhiệt huyết Nguyễn Đăng Cẩn được đắm mình trong không khí sục sôi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Như bao học sinh nông thôn cùng trang lứa, anh  đã ngày đêm hăm hở tham gia mọi phong trào rầm rộ của quê hương.
Đầu năm 1952, đang học ở trường huyện Nghi Lộc, xót xa nhận thấy gia cảnh quá khó khăn vất vả, anh Nguyễn Đăng Cẩn đã tự nguyện thôi học về nhà tham gia việc đồng áng, đỡ đần cha mẹ. Là người có học, lại hăng hái nhiệt tình, nhiều năm liền anh Nguyễn Đăng Cẩn được lãnh đạo và nhân dân địa phương tin tưởng giao cho đảm trách cương vị: Trưởng thôn kiêm Bí thư xã đoàn. Chính trên cương vị đó, trong Cải cách ruộng đất, chứng kiến cảnh tượng nhiều gia đình bị qui sai vong gia bại sản; bằng nhãn quan chính trị, trách nhiệm và tấm lòng nhân nghĩa của mình, người Trưởng thôn 21 tuổi Nguyễn Đăng Cẩn đã kiên trì thuyết phục, kiên quyết đấu tranh, dũng cảm sẵn sàng đối phó với sự qui chụp cực đoan tả khuynh của mấy “ông đội” (nhất đội nhì trời), nên đã cứu giúp được nhiều gia đình thoát nạn hiểm nguy. Xưa có câu: “ Dù xây chín bậc phù đồ / Không bằng làm phúc cứu cho một người” (Nói nôm na là cứu một mạng người hơn xây một tòa tháp chín tầng). Cứu một mạng người đã là quí, mà ông còn cứu được nhiều người thoát nạn. Việc làm của ông là một nghĩa cử cao đẹp, hữu ích, rất đáng trân trọng. Theo tôi, sự kiện đó, đến nay sau mấy chục năm nhìn lại, càng khâm phục việc làm cao quí của ông Nguyễn Đăng Cẩn - người thanh niên đã có tầm nhìn vượt thời gian. Thử hỏi, trước bối cảnh hồi đó, mấy người làm được như ông. Trưởng thôn trẻ tuổi Nguyễn Đăng Cẩn làm được điều đó đâu phải do học được ở một trường lớp nào - Chính đó là hành động bắt nguồn từ sự rung động của trái tim, sự mách bảo của lòng nhân ái.
Ông là người thông minh, hiểu biết sâu sắc. Dù không danh hiệu, bằng cấp, chức tước to tát trong xã hội; cũng không có những sự tích phi thường, những điều kỳ diệu trong cuộc đời , ông là một người lao động, một cán bộ bình dị như hàng triệu người Việt Nam cùng thế hệ. Nhưng, bằng sự tiếp thụ văn hóa từ truyền thống quê hương, nếp sống gia phong của gia đình và sự trải nghiệm, tôi luyện, hun đúc trong trường đời qua các thời kỳ lịch sử, đã hình thành nên ở ông một nếp nghĩ, một lẽ sống thật cao quí. Ông là người không cả tin mù quáng trước mọi vấn đề. Sự nhận thức của ông bắt nguồn từ việc tìm hiểu kỹ càng, chắc chắn của chính mình. Ông đại nghi trước khi đại ngộ - Nghĩa là, ông đặt ra hàng loạt câu hỏi trước các sự kiện hiện tượng, phải có sự lý giải thuyết phục, thì mới đi đến sự khẳng định trong nhận thức. Ở ông Nguyễn Đăng Cẩn do hoàn cảnh lịch sử không có điều kiện học tập nhiều tại trường. Nhưng trải qua thực tiễn hoạt động phong phú, sôi động trong trường đời, đã đào luyện cho ông một nhân cách đẹp và một sự hiểu biết phong phú, sâu sắc. Trên cơ sở đó, ông đã có nhiều cống hiến trên các cương vị:  giáo viên phổ thông, rồi Chánh văn phòng Ủy ban huyện và nhiều năm là cán bộ nông nghiệp huyện Nghi Lộc.
Ông là một con người khảng khái, cương nghị. Có thể nói, đây là đặc trưng căn bản, nổi trội trong tính cách của ông. Bất kỳ ai tiếp xúc với ông, dù chỉ một  lần, đều có thể nhận ra điều đó. Hồi ký có đoạn ông thắng thắn tranh luận phê phán các cấp lãnh đạo cao nhất của tỉnh Nghệ An trong Hội nghị tổng kết nông nghiệp năm1976 -1977  là một minh chứng sống động. Ông luôn tôn trọng sự thật. Bởi vậy, trong mọi cuộc tranh luận, ông không bao giờ phân biệt đẳng cấp, mà chỉ xoay quanh vấn đề thật - giả, đúng - sai. Trong cuộc sống, trước các mâu thuẫn va đập, diễn biến phức tạp, ông luôn có chính kiến rõ ràng, câu trả lời dứt khoát, không bao giờ lập lờ, nước đôi. Cùng với tính cách khảng khái, cương trực, ông còn có sự khái quát nhanh về mọi vấn đề. Ý thức khái quát thường trực trong ông đã giúp ông vượt lên trên hiện thực bề bộn, làm chủ được tình cảnh - cả bề mặt xã hội và bề sâu con người. Sự khảng khái, cương nghị, thẳng thắn của ông đã truyền sang các con trai - đặc biệt là con trai cả Nguyễn Đăng Giáp- người mang gien trội của ông.
Gia đình là đơn vị cơ bản, là nền tảng xã hội, là cái nôi ươm mọi con người và từ đó mở rộng ra quê hương, đất nước. Xuất thân trong một gia đình nông dân nho giáo, ông Nguyễn Đăng Cẩn luôn thể hiện cốt cách gia giáo, hành xử theo chính danh. Ông là người con tận lòng hiếu thảo với cha mẹ trong mọi hoàn cảnh; là người chồng sắt son tình nghĩa suốt cuộc đời đắng chát, ngọt bùi; là người cha nhân từ, tình cảm mà nghiêm khắc nuôi dưỡng, giáo dục tám người con trai trong những năm tháng bộn bề gian khó. May mắn hạnh phúc đời ông là có bà Nguyễn Thị Sinh - người vợ thông minh, hiền thục, tần tảo, đảm đang; người phụ nữ chịu thương chịu khó và có trái tim nhân hậu. Thật là: phúc đức tại mẫu.
Có thể khẳng định rằng, công đức lớn nhất của ông bà cống hiến cho đất nước, cho xã hội là đã sinh thành dưỡng dục nên những người con thành đạt - trong đó có người thứ ba đã anh dũng hy sinh trên chiến trường, còn lại bảy người là các doanh nhân xuất sắc trên thương trường không ít cam go - tiêu biểu nhất là người con cả: Đại tá AHLĐ Nguyễn Đăng Giáp. Trên vùng đất Nghi Lộc và có thể nói trong một không gian rộng hơn, hiếm có một gia đình như thế. Cổ nhân có câu :“ Hậu phúc khán tử tôn”, có nghĩa là nhìn vào sự phương trưởng của con cháu, thì biết được phúc đức về sau của một con người. Tôi cho rằng, gia đình ông Nguyễn Đăng Cẩn là đại phúc.
Có người nói đại ý rằng: Trên thực tế, có tập thể anh hùng rồi mới có cá nhân anh hùng. Nhưng ở đây thì ngược lại: Có anh hùng Nguyễn Đăng Giáp rồi mới có Tổng công ty 36 anh hùng. Điều đó là hoàn toàn đúng. Và tôi xin nói thêm: Có người cha mẫu mực Nguyễn Đăng Cẩn mới có người con Anh hùng  Nguyễn Đăng Giáp. Đó là kết quả tất yếu bắt nguồn từ công sinh thành cùng với công dưỡng dục. Theo luật nhân quả, có người cha như thế ắt sẽ có những người con như thế.
Trong sự sống của loài người có ba điều bất hủ: Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn. Tôi cho rằng, điều đó không chỉ dành cho các bậc vĩ nhân mà có thể áp dụng cho mọi người theo những cung bậc, cấp độ khác nhau. Trong cuộc đời mình, ông Nguyễn Đăng Cẩn đã làm được nhiều điều nhân đức, có công tích trên các cương vị và ông cũng đã lập ngôn. Cuốn tự truyện Cuộc đời và nhân chứng của ông với ngồn ngộn sự kiện nhân chứng, chan chứa biết bao tình sâu, nghĩa nặng, nỗi niềm thẳm sâu được chắt ra từ trái tim, khối óc của ông, kết tinh thành những lời tâm tình nhắn nhủ sâu sắc của ông đối với con cháu. Đó đích thực là một trong những điều lập ngôn quí báu của ông Nguyễn Đăng Cẩn để lại cho đời.

                                                                 Mỹ Đình, ngày 31- 5 - 2014

                                                                                  N.M.Đ






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét