CUỘC
ĐỜI - TRANG SÁCH
Giữa tháng 4 năm
2014, Đại tá AHLĐ Nguyễn Đăng Giáp trao tôi tập bản thảo Tự truyện của cha mình -
ông Nguyễn Đăng Cẩn. Tôi thật vui, dành trọn một ngày đọc khá kỹ từng trang Tự truyện tuy mới ở dạng phác thảo “đẽo thô”, nhưng thật quí bởi ngồn ngộn tư liệu -
Đó là bản lý lịch của ông bằng thể loại văn chương.
Qua
nhiều lần tiếp xúc, đàm đạo với ông, từ ánh mắt, nụ cười, giọng nói đến những
điều giãi bày sẻ chia tâm sự thế thái nhân tình, cảm nhận của tôi về ông đó là người:
nhân nghĩa, thông minh hiểu biết, khảng khái. Hàng chục năm qua, cảm nhận đó
không hề thay đổi. Đến nay tôi lại biết kỹ hơn về những nẻo đường thời gian trong
cuộc đời phong phú sôi động trên từng trang hồi ký của ông.
Ông
hơn tôi mười bốn tuổi, tức là hơn hẳn một thế hệ. Cùng quê Nghi Lộc, từ xã tôi lên xã ông chừng bốn cây số. Tôi gặp
ông lần đầu tiên ở quê vào năm 2000. Đó là một trưa Hè trời chang chang nắng,
gió Lào hầm hập thổi. Những hàng cây phi lao, những lũy tre làng Đông Chử chao
mình xào xạc trong cái khô khốc bỏng rát của nắng, của gió. Ông tiếp tôi trên
chiếc chõng tre trước hiên nhà với ấm nước chè xanh đậm chát, ngát hương. Ngày
đó ông còn khỏe, dáng người cao rắn rỏi, da dẻ hồng hào, hai vành tai to, cặp mắt
đen luôn nhìn thẳng, tiếng nói khúc chiết, đĩnh đạc, vang ấm, đậm chất giọng miền
Trung và âm sắc ngôn từ Nghi Lộc. Nhiều năm sau này, tôi còn gặp ông nhiều lần
trên các công trình do Tổng công ty 36 thi công: Khi thì khởi công đập thủy điện
Khe Bố ở miền tây Nghệ An; khi thì khánh thành Tượng đài Liệt sĩ ở Gio Linh (
Quảng Trị ) và nhiều nơi khác nữa. Ở các buổi Lễ khởi công hay khánh thành các
công trình xây dựng rất hoành tráng của Tổng công ty 36, sự hiện diện của ông
chan hòa trong sự đón chào trân trọng của mọi người từ các vị quan khách, tướng
lĩnh đến bộ đội, công nhân. Ngày 29 tháng 10 năm Quý Tỵ (2013) tôi gặp ông
trong Lễ khánh thành Tháp chuông và Lầu bia tại nhà thờ Thái sư Cương quốc công
Nguyễn Xí - đó là hai công trình do các con trai ông cung tiến. Hôm đó, Hội đồng
gia tộc đại tôn và đông đảo bà con các chi phái dòng họ Nguyễn Đình về dự Lễ đều
dành cho ông tình cảm kính quí, thân tình.
Nhớ
lần ông ốm nặng điều trị tại Trung tâm công nghệ cao Viện Quân y 108, tôi cùng
các ông: Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, Giáo sư Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Kế Bằng
vào thăm. May cho chúng tôi, có cô y tá trực nhận ra ông Nguyễn Quốc Thước nhiều
lần xuất hiện trên TV được nhiều người kính nể mà “ưu tiên, đặc cách ” cho vào thăm bệnh nhân ngoài giờ qui định. Dẫu đang
mệt lắm, ông vẫn gắng gượng nói lời cám ơn bà con đồng hương đến thăm. Khi mọi
người ân cần hỏi thăm, ông mỉm cười mà nói rằng: “ Không sao đâu các ông ạ. Con người ta khi đã qua 70 tuổi là có thể “đi”
được rồi. Chưa đi chẳng qua là do nấn ná, lừng khừng hoặc đùn đẩy nhau mà thôi.
Tôi năm nay vừa chẵn 80, nếu có ra đi, không có gì là lạ…”. Vậy đấy! Đến cả
lúc lâm trọng bệnh, thập tử nhất sinh, ông vẫn trong tâm thế tỉnh táo, chủ động,
lạc quan nhìn nhận mọi sự việc một cách bình thản, đượm chất trào lộng.
Sinh
ra trong một gia đình nông dân gia giáo, căn cơ, nền nếp; lớn lên ở một miền quê
nghèo khó, có truyền thống hiếu học, cương cường; đến tuổi trưởng thành, người
thanh niên tràn đầy nhiệt huyết Nguyễn Đăng Cẩn được đắm mình trong không khí sục
sôi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Như bao học sinh nông thôn cùng trang lứa,
anh đã ngày đêm hăm hở tham gia mọi
phong trào rầm rộ của quê hương.
Đầu
năm 1952, đang học ở trường huyện Nghi Lộc, xót xa nhận thấy gia cảnh quá khó
khăn vất vả, anh Nguyễn Đăng Cẩn đã tự nguyện thôi học về nhà tham gia việc đồng
áng, đỡ đần cha mẹ. Là người có học, lại hăng hái nhiệt tình, nhiều năm liền anh
Nguyễn Đăng Cẩn được lãnh đạo và nhân dân địa phương tin tưởng giao cho đảm
trách cương vị: Trưởng thôn kiêm Bí thư xã đoàn. Chính trên cương vị đó, trong
Cải cách ruộng đất, chứng kiến cảnh tượng nhiều gia đình bị qui sai vong gia bại
sản; bằng nhãn quan chính trị, trách nhiệm và tấm lòng nhân nghĩa của mình, người
Trưởng thôn 21 tuổi Nguyễn Đăng Cẩn đã kiên trì thuyết phục, kiên quyết đấu
tranh, dũng cảm sẵn sàng đối phó với sự qui chụp cực đoan tả khuynh của mấy
“ông đội” (nhất đội nhì trời), nên đã cứu giúp được nhiều gia đình thoát nạn hiểm
nguy. Xưa có câu: “ Dù xây chín bậc phù đồ
/ Không bằng làm phúc cứu cho một người” (Nói nôm na là cứu một mạng người
hơn xây một tòa tháp chín tầng). Cứu một mạng người đã là quí, mà ông còn cứu
được nhiều người thoát nạn. Việc làm của ông là một nghĩa cử cao đẹp, hữu ích,
rất đáng trân trọng. Theo tôi, sự kiện đó, đến nay sau mấy chục năm nhìn lại,
càng khâm phục việc làm cao quí của ông Nguyễn Đăng Cẩn - người thanh niên đã
có tầm nhìn vượt thời gian. Thử hỏi, trước bối cảnh hồi đó, mấy người làm được
như ông. Trưởng thôn trẻ tuổi Nguyễn Đăng Cẩn làm được điều đó đâu phải do học
được ở một trường lớp nào - Chính đó là hành động bắt nguồn từ sự rung động của
trái tim, sự mách bảo của lòng nhân ái.
Ông
là người thông minh, hiểu biết sâu sắc. Dù không danh hiệu, bằng cấp, chức tước
to tát trong xã hội; cũng không có những sự tích phi thường, những điều kỳ diệu
trong cuộc đời , ông là một người lao động, một cán bộ bình dị như hàng triệu
người Việt Nam cùng thế hệ. Nhưng, bằng sự tiếp thụ văn hóa từ truyền thống quê
hương, nếp sống gia phong của gia đình và sự trải nghiệm, tôi luyện, hun đúc
trong trường đời qua các thời kỳ lịch sử, đã hình thành nên ở ông một nếp nghĩ,
một lẽ sống thật cao quí. Ông là người không cả tin mù quáng trước mọi vấn đề.
Sự nhận thức của ông bắt nguồn từ việc tìm hiểu kỹ càng, chắc chắn của chính
mình. Ông đại nghi trước khi đại ngộ - Nghĩa là, ông đặt ra hàng loạt câu hỏi
trước các sự kiện hiện tượng, phải có sự lý giải thuyết phục, thì mới đi đến sự
khẳng định trong nhận thức. Ở ông Nguyễn Đăng Cẩn do hoàn cảnh lịch sử không có
điều kiện học tập nhiều tại trường. Nhưng trải qua thực tiễn hoạt động phong
phú, sôi động trong trường đời, đã đào luyện cho ông một nhân cách đẹp và một sự
hiểu biết phong phú, sâu sắc. Trên cơ sở đó, ông đã có nhiều cống hiến trên các
cương vị: giáo viên phổ thông, rồi Chánh
văn phòng Ủy ban huyện và nhiều năm là cán bộ nông nghiệp huyện Nghi Lộc.
Ông
là một con người khảng khái, cương nghị. Có thể nói, đây là đặc trưng căn bản, nổi
trội trong tính cách của ông. Bất kỳ ai tiếp xúc với ông, dù chỉ một lần, đều có thể nhận ra điều đó. Hồi ký có đoạn
ông thắng thắn tranh luận phê phán các cấp lãnh đạo cao nhất của tỉnh Nghệ An
trong Hội nghị tổng kết nông nghiệp năm1976 -1977 là một minh chứng sống động. Ông luôn tôn trọng
sự thật. Bởi vậy, trong mọi cuộc tranh luận, ông không bao giờ phân biệt đẳng cấp,
mà chỉ xoay quanh vấn đề thật - giả, đúng - sai. Trong cuộc sống, trước các mâu
thuẫn va đập, diễn biến phức tạp, ông luôn có chính kiến rõ ràng, câu trả lời dứt
khoát, không bao giờ lập lờ, nước đôi. Cùng với tính cách khảng khái, cương trực,
ông còn có sự khái quát nhanh về mọi vấn đề. Ý thức khái quát thường trực trong
ông đã giúp ông vượt lên trên hiện thực bề bộn, làm chủ được tình cảnh - cả bề
mặt xã hội và bề sâu con người. Sự khảng khái, cương nghị, thẳng thắn của ông
đã truyền sang các con trai - đặc biệt là con trai cả Nguyễn Đăng Giáp- người
mang gien trội của ông.
Gia
đình là đơn vị cơ bản, là nền tảng xã hội, là cái nôi ươm mọi con người và từ
đó mở rộng ra quê hương, đất nước. Xuất thân trong một gia đình nông dân nho
giáo, ông Nguyễn Đăng Cẩn luôn thể hiện cốt cách gia giáo, hành xử theo chính
danh. Ông là người con tận lòng hiếu thảo với cha mẹ trong mọi hoàn cảnh; là
người chồng sắt son tình nghĩa suốt cuộc đời đắng chát, ngọt bùi; là người cha
nhân từ, tình cảm mà nghiêm khắc nuôi dưỡng, giáo dục tám người con trai trong
những năm tháng bộn bề gian khó. May mắn hạnh phúc đời ông là có bà Nguyễn Thị
Sinh - người vợ thông minh, hiền thục, tần tảo, đảm đang; người phụ nữ chịu
thương chịu khó và có trái tim nhân hậu. Thật là: phúc đức tại mẫu.
Có
thể khẳng định rằng, công đức lớn nhất của ông bà cống hiến cho đất nước, cho
xã hội là đã sinh thành dưỡng dục nên những người con thành đạt - trong đó có
người thứ ba đã anh dũng hy sinh trên chiến trường, còn lại bảy người là các
doanh nhân xuất sắc trên thương trường không ít cam go - tiêu biểu nhất là người
con cả: Đại tá AHLĐ Nguyễn Đăng Giáp. Trên vùng đất Nghi Lộc và có thể nói
trong một không gian rộng hơn, hiếm có một gia đình như thế. Cổ nhân có câu :“ Hậu phúc khán tử tôn”, có nghĩa là nhìn
vào sự phương trưởng của con cháu, thì biết được phúc đức về sau của một con
người. Tôi cho rằng, gia đình ông Nguyễn Đăng Cẩn là đại phúc.
Có
người nói đại ý rằng: Trên thực tế, có tập thể anh hùng rồi mới có cá nhân anh
hùng. Nhưng ở đây thì ngược lại: Có anh hùng Nguyễn Đăng Giáp rồi mới có Tổng
công ty 36 anh hùng. Điều đó là hoàn toàn đúng. Và tôi xin nói thêm: Có người
cha mẫu mực Nguyễn Đăng Cẩn mới có người con Anh hùng Nguyễn Đăng Giáp. Đó là kết quả tất yếu bắt
nguồn từ công sinh thành cùng với công dưỡng dục. Theo luật nhân quả, có người
cha như thế ắt sẽ có những người con như thế.
Trong
sự sống của loài người có ba điều bất hủ: Lập
Đức, Lập Công, Lập Ngôn. Tôi cho rằng, điều đó không chỉ dành cho các bậc
vĩ nhân mà có thể áp dụng cho mọi người theo những cung bậc, cấp độ khác nhau.
Trong cuộc đời mình, ông Nguyễn Đăng Cẩn đã làm được nhiều điều nhân đức, có
công tích trên các cương vị và ông cũng đã lập ngôn. Cuốn tự truyện Cuộc
đời và nhân chứng của ông với ngồn ngộn sự kiện nhân chứng, chan chứa
biết bao tình sâu, nghĩa nặng, nỗi niềm thẳm sâu được chắt ra từ trái tim, khối
óc của ông, kết tinh thành những lời tâm tình nhắn nhủ sâu sắc của ông đối với
con cháu. Đó đích thực là một trong những điều lập ngôn quí báu của ông Nguyễn
Đăng Cẩn để lại cho đời.
Mỹ Đình, ngày 31- 5 - 2014
N.M.Đ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét