CHÍ SỸ YÊU NƯỚC HOÀNG PHAN THÁI (1819-1865)
Người khai sáng cách mạng
GIAO HƯỞNG
Yêu nước chống Pháp xâm lăng, Chí sỹ Hoàng
Phan Thái (1819-1865) là một trong những người Việt Nam đầu tiên
bị triều Tự Đức ghép “tội” chém đầu. Năm
1865, bấy giờ Phan Bội Châu mới 2 tuổi. Năm 1907 tức 42 năm sau, trên hành
trình vận động tổ chức lực lượng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhà yêu nước
hậu sinh họ Phan viết Tiểu truyện Đầu Xứ Thái, suy tôn Chí sỹ họ Hoàng lên “Cách
mạng khai sơn chi Tổ” (người khai sáng cách mạng). Từ ngày Tự Đức vào Khiêm lăng, mang theo
bản án “quá mù ra mưa” đối với Hoàng
Phan Thái, cho đến các đời Vua triều Nguyễn kế tiếp,
không minh vương nào gỡ bỏ oan khuất cho Chí sỹ yêu nước Hoàng Phan Thái .
Người khai
sáng cách mạng quê làng Cổ Đan, xã
Đông Hải, tổng Đặng Xá, huyện Chân Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là xã
Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hoàng Phan Thái là con đầu của Tú tài
Hoàng Thừa Doãn, hậu duệ nhiều đời của danh
tướng thủy binh Hoàng Tá Thốn (1254-1338). Trong kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông lần thứ
2 và lần thứ 3, tướng Hoàng Tá Thốn lập công lớn, sau ngày đất nước khải hoàn ông
được triều đình giao trấn giữ vùng duyên hải phía nam Đại Việt, từ ngày đó tướng
Hoàng Tá Thốn đã chọn làng Cổ Đan bên hạ lưu tả Lam lập căn cứ thủy binh. Đã hơn
700 năm căn cứ thủy binh của tướng Hoàng Tá Thốn giờ vẫn là Quân cảng K34 hải
quân Việt Nam .
Tướng
Hoàng Tá Thốn về hưu mất tại quê làng Vạn Phần, mộ táng tại khu Mộ Cháy làng
Vạn Phần, nay là xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu, Nghệ An, ông được Vua sắc phong
Sát Hải đại vương. Ba người con trai của ông đều tài thao lược được triều đình
phong tước. Người con trai thứ hai là Hầu tước Hành khiển Hoàng Công Khánh lấy
bà Hồ Thị Sinh (con cụ Hồ Hồng, người làng Cổ Đan). Ngày ấy làng Cổ Đan đất
chật người đông, ông Khánh bà Sinh để con trai trưởng ở lại làng Cổ Đan, ông bà
cùng con thứ là Hoàng Duy và song thân nhạc phụ ra Quỳnh Đôi, Quỳnh Lập khai
khẩn đất mới, về sau con cháu họ Hồ họ Hoàng cùng một số dòng họ khác tiếp tục
khai khẩn vùng phụ cận lập nên các xã Quỳnh Phương, Quỳnh Bảng, Quỳnh Dị, Quỳnh
Diện. Ông Khánh bà Sinh sống với người con trai thứ tại làng Văn Bằng, sau khi mất
mộ ông Khánh táng tại làng Văn Bằng xã Quỳnh Bảng; mộ bà Sinh táng tại xã Quỳnh
Phương huyện Quỳnh Lưu, hiện Nhà thờ cụ Hoàng Công Khánh đã trên 500 năm tuổi,
tọa trong khuôn viên gia đình ông Hoàng Văn Bình, xóm 11 xã Phúc Thọ, Nghi Lộc,
Nghệ An.
*
* *
Nhà nghèo, cha mất
sớm, Hoàng Phan Thái được mẹ nuôi ăn học. Bé Thái nổi tiếng thần đồng thông
minh học giỏi, đi thi đứng đầu xứ nên cư dân Cổ Đan gọi là Đầu Xứ Thái, về sau
thần đồng mấy lần lều chõng đi thi đều phạm quy bị trượt, “thần” trở về làng dạy học kiếm sống, nhiều học trò được “thần”
khai trí khai tâm về sau đỗ đạt giúp ích cho dân cho nước, đại sư Nguyễn Thức
Tự là một trong những học trò xuất sắc của Đầu Xứ Thái.
Đường thi
cử không hanh thông, bù lại ông có biệt tài ứng đối đến mức thành giai thoại lưu
giữ khá đậm trong tâm thức dân gian. Truyền rằng bé Thái 8 tuổi rất thông minh,
ông tú làng bên biết tin chủ động đến nhà chơi, ông tú đọc câu Khuôn vàng Phạm Lãi còn in tạc rồi thách
bé Thái đối. “Thần đồng” ứng khẩu Dùi sắt
Trương Lương sẽ thử chơi. Mấy người hàng xóm cũng sang chứng kiến cuộc “voi
đố kiến, thấy ông tú ôm bé Thái âu yếm, trước khi ra về ông tú nói với mọi
người “thằng này có hùng chí”.
Lần ấy
Đầu Xứ Thái đang dạy học tại quê, nghe tin nhà nọ làng bên có bốn người con đều
thành đạt đang về làm Lễ mừng Thọ mẹ 70, dù không được mời nhưng thầy Đầu Xứ
Thái “tiện đi qua” cũng ghé vào chung vui, trước sự góp mặt của thầy gia chủ
phấn khởi, người con trưởng tha thiết nhờ thầy làm cho 1 bài thơ hoặc 1 câu đối
đề tên 4 anh em mừng Thọ mẹ, thầy Đầu Xứ vui vẻ nhận lời làm bài tứ tuyệt. Sau
khi viết câu 1 và câu 3 :
Phu nhân thất thập bản phi
nhân
Sinh lai tứ tử đô vi tặc.
(Phu nhân bảy chục chẳng là
người
Sinh được bốn con đều kẻ cướp)
Rồi thầy gác bút, trong thời gian “chờ khô mực” thầy ra sân rung
đùi ngồi hút thuốc, xong lại cà riềng cà tỏi với mấy ông khoa bảng làng bên,
mặc cho gia chủ và các quan khách bức xúc bàn luận “tác phẩm” 2 câu của kẻ
không mời mà đến phá ngang. Sau khi bốn người con hội ý, người anh cả tế nhị
“mời” thấy về để gia đình tiến hành đại lễ, “tác phẩm” 2 câu sẽ được cất vào trong
nhà chờ đêm xuống hóa. Biết gia chủ cùng mọi người đang hằm hằm nhìn mình, thầy
Đầu Xứ Thái vui vẻ:
-Trước khi ra về xin viết nốt 2
câu còn lại
Nguyên cư thiên thượng giáng sinh trần
Tặc đoạt tiên đào hiến mẫu thân.
(Người chính là tiên xuống ở đời
Cướp lấy đào tiên hiến mẹ xơi).
Bài Mừng Thọ đầy đủ là:
Phu nhân
thất thập bản phi nhân
Nguyên cư
thiên thượng giáng sinh trần
Sinh lai
tứ tử đô vi tặc
Tặc đoạt
tiên đào hiến mẫu thân.
(Phu
nhân bảy chục chẳng là người
Người chính là tiên xuống ở đời
Sinh được bốn con đều kẻ cướp
Cướp lấy đào tiên hiến mẹ xơi)
Mọi người khen “bài thơ như thỏi vàng
ròng” bấy giờ bốn người con mới dám đón nhận “thỏi vàng” của thầy Đầu Xứ Thái tặng
mẹ, riêng người anh cả vái như tế sao xin thầy tha thứ cho cái sự nông cạn bồng
bột của mình.
Qua một ít tác phẩm văn thơ Hoàng Phan
Thái được người đời cất dấu giữ được, ta dễ nhận ra Văn là người. Các sáng tác
của ông cũng lẫm liệt như cuộc đời cách mạng của ông, đặc biệt trong mấy tác
phẩm thể hiện rất đậm cái hùng chí, đúng như phát hiện sớm của cụ tú làng bên từ
mấy chục năm trước. Với một Nam Đàn sơn thủy hữu tình, các danh sỹ nổi tiếng
Nguyễn Thiếp, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Bùi Dương Lịch… cũng
từng một vài lần đến, song qua cảm thức thẳm sâu của Hoàng Phan Thái mới hiện
lên hào quang của khởi nghĩa Hoan Châu hơn 900 năm về trước:
Thụ thập Đụn sơn bài kiếm kích
Phạm quy Lam phố động tinh kỳ
(Núi Đụn cây bàng
như giáo dựng
Sông Lam buồm dựng tựa cờ
dăng)
Cái hùng chí ấy đậm đặc trong đôi câu đối của Đầu Xứ Thái cung
tiến đền thờ Hưng Đạo Đại vương ở Kiếp Bạc:
Phất ngọn cờ chỉ bến Bạch Đằng, một trận
phong lôi lừng biển Bắc
Nhoay ngòi bút đề tên Thanh Sử, ngàn
năm hương lửa chói trời Nam.
Hoàng Phan Thái vào tuổi trưởng thành lúc Tự Đức trị vì (1847-1883), sự lỗi thời lỗi cuộc không tạo anh hùng mà còn trở
giáo triệt tiêu mầm mống anh hùng. Vua Tự Đức ngồi trên đỉnh cao quyền lực mà không
có điều kiện tiếp cận với phần còn lại của thế giới, vẫn bị trói chặt trong tư
tưởng Nho giáo xơ cứng, đường hướng quân
sự của Vua luẩn quẩn trong Binh thư yếu
lược , tắm trong trạng thái người xưa gọi là “khôn nhà dại chợ”. Vua quyết
liệt trong việc cấm đoán buôn bán công
thương, rất chủ quan trước âm mưu xâm lược
Đại Nam
của thực dân phương Tây. So với các triều trước đó, triều Tự Đức chủ quan mất cảnh giác, nhập nhằng về đường
hướng chính trị, quân đội không được
trang bị vũ khí hiện đại, tướng
lĩnh lúng túng bị động trong hoạch định chiến
lược bảo vệ đất nước. Năng lực
quốc phòng không đủ mạnh khiến Đại Nam bị ngoại bang thôn tính là điều
khó tránh. Tháng 8.1858 Pháp bất ngờ tấn công Đà Nẵng sau đó đánh chiếm Sài
Gòn, bộ máy triều đình từ chủ quan đã nhanh chóng lúng túng khiếp sợ sức mạnh quân sự Tây phương. Triều đình vốn rệu rạo không có giải pháp ứng phó, giờ lo đối phó
với mâu
thuẫn nội bộ, lo đối phó với áp lực không ngừng gia tăng từ bên
ngoài, giữa bối cảnh như gà mắc tóc bộ máy triều đình phân rẽ thành hai phái chủ hòa, chủ chiến.
Vua Tự Đức đứng đầu phái chủ hòa, ngày 05.6.1862 tại Sài Gòn, Tự Đức ký hiệp ước (còn gọi là hiệp ước Nhâm Tuất) cắt ba
tỉnh miền Đông cho Pháp, sự nhượng bộ này khiến người dân Việt
Nam phản đối quyết liệt, sử gia Gosselin (Pháp) viết rằng: Các hoàng đế An Nam phải
chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước. Dân xứ này, quan lại,
binh lính xứng đáng có được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù quáng vì không dự liệu,
không chuẩn bị gì hết.
Sau khi triều
đình để mất ba tỉnh miền đông Nam
bộ, các tướng
Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt vốn
trung thành với triều đình cũng tỏ kháng cự bằng hành động, khiến triều đình
Huế và bộ máy thống trị của Pháp lúng túng đối phó. Tại xứ Nghệ, Đầu Xứ Thái vừa dạy học vừa giao du ngoài Bắc
trong Nam tìm bạn để cùng thực hiện chí hướng cứu nước, ông trở về làng Cổ Đan
lập Tân đảng, xưng Đông
Hải đại tướng quân, mộ được mấy trăm nghĩa binh đêm ngày luyện tập chuẩn bị
cuộc chống Tây cứu nước. Việc bị lộ, năm 1865 Tự Đức ghép Đầu Xứ Thái “tội phản nghịch”, sai quân về làng Cổ Đan vây bắt ông mang
ra xử chém tại pháp trường Vinh (nay là mé Tây Ngã ba Quán Bàu). Trước khi bị
rơi đầu, Đông Hải
đại tướng quân vẫn
ung dung đoc bài Tuyệt mệnh được ông nung nấu trong ngục tối vào
đêm cuối cùng đời mình:
Ba hồi trống giục thây
cha kiếp
Một lát gươm đưa đéo mẹ
đời
Sống làm tướng mạnh ba
phương đất
Thác xuống thần thiêng
bốn phía trời
Từ pháp trường bài Tuyệt mệnh đến được với đời là nhờ
trí nhớ tuyệt vời của một lính Nam
triều trong tốp lính thi hành án mờ sáng ấy, anh này trực tiếp nghe, thuộc
truyền lại cho người trong nhà. (Có bài viết cho rằng 2 câu Ba hồi trống giục thây cha kiếp Một lát gươm đưa đéo mẹ đời của Cao Bá Quát
?)
Chí sỹ Hoàng Phan
Thái ra pháp trường bấy giờ chưa manh nha phong trào Cần Vương; nhưng từ sau
ngày “Hiệp ước hữu nghị” ký kết, dải đất mang tên Việt Nam đã như lò thuốc súng
khổng lồ dưới chân thực dân Pháp cướp nước và triều đình Huế-bộ máy thống trị của
một bộ phận quan lại tay sai bán nước. Giữa bối cảnh ấy, sự hy sinh lẫm liệt
của
Đông
Hải Đại tướng quân giữ vai trò kíp nổ kích hoạt các cuộc khởi nghĩa yêu nước bùng
lên sau đó.
Chí sỹ Hoàng Phan
Thái ra pháp trường bấy giờ Nhà yêu nước
Phan Bội Châu mới lên 2 tuổi. Sau này trên
hành trình tìm đường cứu nước, năm 1907 cụ
Phan viết Tiểu truyện Đầu Xứ Thái, lên án triều Tự Đức sát hại Chí sỹ yêu
nước, suy tôn lên hàng khai sáng cách mạng giải phóng dân tộc. Cụ Phan là người đầu tiên dũng cảm xóa
nỗi oan khuất cho Chí sỹ yêu
nước họ Hoàng. Trong
Phan Bội Châu niên biểu tác giả cho rằng Tiểu truyện Đầu Xứ Thái đánh dấu bước chuyển biến lớn về tư
tưởng đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, mở đầu cuộc vận động chống lại
chế độ phong kiến muc nát kìm hãm sự phát triển của dân tộc Việt Nam.
Sang
thế kỷ 21, ở thành phố Vinh,
ở huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí
Minh, ở thị
xã Hương Thủy thành phố Huế…đều có đường lớn mang tên
Hoàng Phan Thái. Vậy mà tại
quê xã Phúc Thọ chân dung vị khai sáng cách mạng vẫn bị phủ dày dưới lớp mờ huyền
sử. Trong phả hệ của các chi phái họ Hoàng (lập
trước và sau năm 1945) đều không thấy tên ông. Các cao niên họ Hoàng sinh trước năm 1930, hiện sống cùng con cháu tại
Phúc Thọ và các xã cận kề đều không biết Đầu Xứ Thái thuộc Chi phái nào, trước
khi hy sinh có vợ con hay không, nếu có thì hậu duệ gồm những ai, ở đâu, làm
gì. Nghĩa là cái chết lẫm liệt của Đầu Xứ Thái vẫn bảng lãng trong tâm thức cư dân xã Phúc Thọ, và án oan triều Tự Đức trút xuống đầu ông vẫn là một
tồn nghi ngay trong trực hệ chi họ Hoàng.
Hai nhà yêu nước vĩ
đại quê xứ Nghệ đã về với thế giới người hiền. Cụ họ Hoàng bị chém. đầu giữa thế
kỷ 19, cụ họ Phan bị giam lỏng rồi mất trong uất hận giữa thế kỷ 20. Hai thế hệ
yêu nước cách nhau gần 100 năm vẫn chưa thực hiện được dù là một phần ước mơ hoài
bão đưa nước nhà tiến lên hạnh
phúc văn minh đã thành xu thế của
thời đại./.
Hè 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét