Bài viết đăng trong Công trình Ký Ức Người Lính
nhân Kỷ niệm 60 năm mở đường Trường Sơn ( Đường 559
)
--------------------------------------------------------------------
BỐN LẦN VÀO NAM RA BẮC TRÊN ĐƯỜNG
TRƯỜNG SƠN - KỶ NIỆM KHÔNG BAO GIỜ QUÊN
N M Đ
Trong cuộc đời quân ngũ của mình, tôi chưa bao giờ
được biên chế vào đơn vị thuộc đội hình Bộ Tư lệnh Trường Sơn ( Đoàn 559 ).
Nhưng từ rất sớm - tháng 12 năm 1964 - và trong quá trình chiến đấu, tôi đã có
bốn lần vào Nam ra Bắc trên đường Giao liên huyết mạch chiến lược Trường Sơn.
Tôi xin kể lại đôi điều về những kỷ niệm không bao giờ quên.
1 - Cuối tháng 12/1964, hết thời gian huấn luyện và
bồi dưỡng sức khỏe, chúng tôi hoàn tất mọi công việc chuẩn bị lên đường đi chiến
đấu ở chiến trường miền Nam. Mọi người được trang bị đầy đủ: ba lô con cóc, quần áo, chăn màn, mũ tai bèo,
tăng võng, ni lông, bi đông, túi đựng cơm, lương khô, mắm kem, bao gạo (ruột tượng),
hộp thuốc cá nhân, thuốc pha với nước lã uống trực tiếp, băng cá nhân. Trên
danh nghĩa, chúng tôi sẽ là chiến sĩ Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Do đó,
theo qui định bắt buộc, tất cả những thứ tư trang, đồ dùng cá nhân, từ tấm ảnh,
giấy tờ tùy thân, sổ lưu bút, nhật ký, có cái gì liên quan đến miền Bắc đều phải
gửi lại, bỏ lại, không được mang theo người. Phát hiện ra ai không chấp hành, cố
tình mang đi là bị xử lý kỷ luật.
Ngày đó tôi mới
chẵn 16 tuổi xin khai tăng thêm tuổi để được nhập ngũ, chưa có người yêu. Những
anh lớn tuổi hơn, có người yêu, thậm chí có vợ con rồi, khi bỏ lại những tấm ảnh
của người thân, tần ngần, xúc động, tiếc lắm. Mà ảnh thì có phải nhiều như bây
giờ đâu. Có người cả đời chưa chụp ảnh. Nhiều người trước lúc chia tay, vội
vàng chụp một pô ảnh đen trắng để làm kỷ niệm, nên rất quí. Có người dùng túi
ni lon bọc ảnh rất kỹ, cố giấu ảnh tận đáy ba lô. Trên đường hành quân và khi ở
chiến trường sau này, thi thoảng một mình nhớ nhà quá, mở ra xem. Tiền thừa còn
lại và tư trang đều phải gửi về nhà qua đường bưu điện. Từng người kê khai,
đóng gói, tập trung lại do đơn vị cử người đi gửi. Tôi gom góp lại được 100 đồng,
gồm tiền ăn bồi bưỡng còn thừa được thanh toán cộng với tiền trong túi còn lại.
Đồng thời giặt sạch bộ quần áo ngày mặc lên đường gấp lại kèm một bức thư gửi về
cho mẹ.
Ngày 25 tháng
12 năm 1964, toàn đơn vị nhập Trạm Giao liên bắt đầu lên đường đi chiến trường
miền Nam. Chúng tôi được biết, lộ trình hành quân sẽ là từ miền tây Quảng Bình vào
Nông trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh), lên Làng Ho, vượt qua Đường 9 vào Trường
Sơn sang Lào. Từ vùng giải phóng Lào đi dọc theo tuyến tây Trường Sơn thẳng về
Nam. Tùy theo nhiệm vụ của từng đơn vị bổ sung cho từng chiến trường mà rẽ
ngang về Trị Thiên, về Khu 5, vào Tây Nguyên, hoặc đi thẳng qua đất Cămpuchia
vào tận Nam Bộ.
Hồi đó, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ mới giới
hạn ở những trọng điểm nhất định, chưa lan rộng như 1 - 2 năm sau. Đông và Tây
Trường Sơn vẫn là những cánh rừng nguyên sinh nhiệt đới bạt ngàn rậm rạp, nhiều
tầng, có nơi lâu lắm rồi hình như chưa có dấu chân người. Đường hành quân bộ là
đường mòn Hồ Chí Minh. Một lối đi nhỏ thôi, hàng một, vươn ra, vươn xa dưới những
khu rừng đại ngàn được phủ kín bóng cây cao bóng mát, vượt qua nhiều con suối
nước trong xanh. Sau này, khi nghe bài hát Trường Sơn Đông -Trường Sơn Tây, nhạc
của Hoàng Hiệp, lời thơ của Phạm Tiến Duật, có câu “ Đường ra trận mùa này đẹp
lắm”, đám lính trẻ chúng tôi tranh luận với nhau sôi nổi. Có người lập luận,
nhà thơ đã lãng mạn hóa, thi vị hóa để cổ động tuyên truyền mọi người ra trận,
chứ thực ra đường ra trận có gì đâu mà đẹp.
Hơn nữa, bất cứ ở đâu, lúc nào, mọi cuộc chiến tranh - kể cả chiến tranh chính
nghĩa - đều là điều bất đắc dĩ đối với con người. Chiến tranh là một biện pháp
giải quyết tình thế giữa các tập đoàn xã hội, khi không còn phương cách nào
khác, thì hãy đừng coi đó là đẹp. Có người lại nói, kể ra nếu dùng từ “vui”
thay cho từ “đẹp” thì đúng hơn. Vì ngày đó với khí thế hừng hực, như nhà thơ Tố
Hữu đã viết: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”,
trong không khí rộn rịp, thì dùng từ
“vui” hợp lý hơn. Với tôi, tôi cho rằng ở thời điểm cuối năm 1964 đầu năm 1965,
đường hành quân đi B chưa bị bom đạn địch cày xới, cây rừng còn xanh tươi, chưa
bị chất độc làm trụi lá, non nước hữu tình, cộng với khí thế hào hùng sôi nổi
hăm hở của những chàng trai trẻ đi chiến đấu, trùng điệp những đoàn quân ra trận,
thì quả thật, đường ra trận vừa vui, vừa đẹp.
Trên đường hành quân mỗi người mang theo trên mình
khoảng 30 kg. Trong đó riêng bao gạo đủ ăn được 10 ngày. Đến từng trạm bổ sung
dần lương thực, thực phẩm. Mỗi ngày chúng tôi hành quân qua một cung trạm. Từ
trạm này sang trạm khác khoảng 30 cây số. Trên đường đi cứ bình quân 1 tiếng đồng
hồ nghỉ giải lao độ 10 phút. Thường là sau khi đã ăn sáng, đổ đầy nước sôi vào
bi đông, được lệnh xuất phát từ 5 giờ thì đến trạm tiếp theo khoảng 5 giờ chiều.
Ở rừng trời mau tối. Hơn 5 giò chiều đã nhá nhem, mọi người chuẩn bị nấu cơm
ăn, mắc tăng võng để ngủ. Bếp ăn tiểu đội, mọi người chuẩn bị củi đuốc, che lại
ánh sáng, khơi lại bếp để nấu cơm tối và chuẩn bị bữa sáng mai, trưa mai.
Để bảo đảm bí mật, chỉ huy đơn vị phổ biến yêu cầu mọi
người thực hiện nghiêm ngặt mọi qui định. Thực hiện đi không dấu, nấu không
khói, nói không tiếng. Đúng như các cụ xưa thường nói: “Lai vô ảnh, khứ vô
hình”. Đi không dấu là rời khỏi nơi trú quân tuyệt đối không để lại dấu tích
gì, dù là nhỏ nhất. Khi chặt cây rừng để làm cột mắc võng hoặc lấy củi, phải
rút hết toàn bộ cành lá xuống. Nếu để lại, cành cây bị chết khô, từ trên cao,
máy bay địch sẽ phát hiện được dấu hiệu khả nghi. Nấu không khói là để tránh
máy bay Mỹ phát hiện, khi nấu cơm phải đào bếp Hoàng Cầm. Ban ngày thì không có
khói. Ban đêm thì không phát ra ánh sáng. Ngày đó Mỹ đã nghiên cứu chế tạo ra một
loại máy thu phát tín hiệu, vỏ bằng cao su, nhựa, bề ngoài không tinh mắt nhìn
như một loại cây rừng - gọi là cây nhiệt đới. Máy bay Mỹ thả cây nhiệt đới vào
các khu rừng trên tuyến hành quân của ta để thu thập và phát thông tin về các
căn cứ của chúng.
Cứ thế, ngày đi đêm nghỉ. Đến một ngày cả đơn vị vượt
qua một con sông nhỏ trên một cái cầu mấy cây tre ghép lại, có tay vịn. Tới giữa
dòng, anh chính trị viên đại đội ngoái lại nói nhỏ với tôi rằng, đây là sông Sê
Pôn. Sang bên kia là huyện Mường Phìn, tỉnh
Savanakhet đất Lào rồi. Qua cầu, tôi ngoảnh lại bờ đông là một rừng tre cao vút
dưới nắng vàng, đẹp lắm. Nơi ấy là Tổ quốc mình. Lòng tôi bồi hồi xúc động. Đây
là lần đầu tiên trong đời, tôi đi ra nước ngoài. Đi ra nước ngoài mà không có hộ
chiếu, không có giấy tờ tùy thân. Với bộ quân phục Quân Giải phóng và chiếc mũ
tai bèo, mà như nhà thơ Tố Hữu sau này đã viết, chẳng làm đau một chiếc lá trên
cành, đã thay cho hộ chiếu. Trong túi áo của mỗi người chỉ vỏn vẹn một tờ giấy
bìa cứng, rộng bằng cái chứng minh thư, trên đó đề là Giấy chứng nhận XYZ, họ và tên, được cử đi
Bác Ái. Lúc đó tôi cũng chẳng biết giấy XYZ
là cái gì, để làm gì, cất giữ ra sao, tại sao lại lấy 3 ký hiệu toán học
đặt tên cho nó. Đi Bác Ái nghĩa là đi đâu. Chỉ biết rằng, mỗi người đi “B dài”
đều được cấp giấy XYZ. Nhưng khi đã vào chiến đấu ở chiến trường rồi chẳng còn
quan tâm đến miếng giấy đó nữa. Sau này, khi ra Bắc, nghe đâu cần có giấy chứng
nhận XYZ để làm khen thưởng thì phải. Ai nghĩ ra việc đó kể cũng lạ. Người lính
bao năm lăn lộn vào sinh ra tử ở chiến trường, ai còn giữ được một cái miếng giấy
nhỏ bằng nửa lòng bàn tay!
Hành quân được
bốn ngày, đến bữa ăn tôi thấy rất ngon
miệng, cảm giác như ăn bao nhiêu cũng hết, không biết no. Sau này mới biết đó
là dấu hiệu ban đầu của bệnh sốt rét rừng. Người bị bệnh sốt rét có hai thời điểm
ăn rất nhiều: trước khi bị ngả bệnh mấy hôm và sau khi hết bệnh ăn giả bữa.
Sang ngày thứ 5 khi đến trạm giao liên tôi
bị sốt li bì. Bên ngoài thì người đỏ lừ sốt cao, mà trong bụng thì rét
kinh khủng. Rét tận đáy lòng, thấu tận sống lưng. Tôi vơ bao nhiêu thứ đắp vào
mà vẫn run cầm cập, chui vào bếp đốt lửa sưởi cũng không hết rét. Lúc đầu tôi cứ
nghĩ là bị cảm lạnh nhưng không phải, chẳng hiểu bị bệnh gì. Đêm đến, anh tiểu
đội phó lên đại đội báo y tá xuống xem. Anh Soạn y tá đại đội, quê ở vùng Qui Đạt
- Quảng Bình đến gặp tôi sờ trán, hỏi han, cặp nhiệt kế đo nhiệt độ lên tới
39,5 độ. Anh vừa mỉm cười, vừa nói :
- Như thế này là bị sốt rét rồi, em ạ. Không sao
đâu, chịu khó uống thuốc đủ liều, rồi mấy
bữa là khỏi thôi. Người ta nói, phi sốt rét bất thành Quân Giải phóng mà. Sống ở
rừng, trước sau thì ai cũng bị sốt rét cả, không ai thoát được đâu. Có điều, em
bị sốt rét hơi sớm. Mới hành quân được 5 ngày thôi đấy.Vào tận cùng, nghe đâu, phải hành quân bộ mất những 3 tháng nữa cơ.
Nói rồi, anh đưa tôi mấy viên thuốc quinin và một
bát nước. Tôi uống vào đắng lắm. Đến khuya thì tôi hạ sốt nhưng vẫn rét run người.
Sáng ngày ngủ
dậy tôi đau ê ẩm toàn thân, đầu đau như búa bổ, miệng đắng ngắt, lưng đau nhừ,
chân tay bủn rủn. Đến giờ hành quân, anh tiểu đội trưởng san hết đồ đạc của tôi
cho toàn tiểu đội. Người thì mang khẩu súng, người khoác hộ ba lô, người quàng
thêm bao gạo. Tôi chỉ chống một cây gậy thất thểu lên đường, chân bước liêu xiêu.
Cứ thế, mấy ngày sau, bệnh tình tôi không thuyên giảm, thậm chí còn nặng thêm.
Mấy bữa liền không ăn uống được gì, người tôi gầy rộc và khuỵu xuống không đi
được nữa. Anh em trong tiểu đội phải chặt một khúc tre làm đòn khiêng cột võng
vào làm cáng để cáng tôi tiếp tục hành
quân. Nằm trên võng lắc lư khi lên dốc, lúc xuống đèo, vượt suối, người bị sốt
li bì, tôi chẳng biết gì. Khi tỉnh dậy tôi thương anh em đồng đội vô cùng. Cáng
được tôi trên đường hành quân anh em đồng đội vất vả lắm.
Ba ngày sau, theo
đề đạt của tiểu đội, trung đội, thủ trưởng đại đội xét thấy, tôi không còn đủ sức
đi tiếp mà để anh em cáng, thì làm chậm tốc độ hành quân của đơn vị. Vì vậy, đề
nghị lên tiểu đoàn gửi tôi lại trạm giao liên, đợi đến lúc khỏe sẽ vào sau. Tôi
cứ nằm trên võng, từng anh em trong tiểu đội đến cầm tay tôi nồng ấm bịn rịn chia tay:
- Em ở lại nhé, đi sau.
Tôi giàn giũa
nước mắt lưu luyến giã từ đồng đội. Đó là những người vừa là đồng đội, vừa là bạn
học, vừa là đồng hương. Chúng tôi không chỉ gắn bó với nhau bằng nhiều kỷ niệm
trong thời gian mới vào quân ngũ mà còn thân thiết với nhau từ khi còn ở quê.
Tôi linh cảm, cuộc chia ly này khó có ngày hội ngộ.
Khi anh em cáng tôi đến bàn giao cho trạm xá của Trạm
Giao liên hay của Binh trạm, tôi mê man chẳng biết gì. Hôm sau tỉnh dậy, tôi thấy
cùng cảnh mới đến như tôi độ khoảng 10 người nữa. Cũng đều là đám lính trẻ hành
quân đi chiến đấu bị sốt rét rừng, không chịu nổi, phải gửi lại. Còn lại là số
thương hinh, bệnh binh đã điều trị ở đây từ trước.
Trạm xá ở một khu rừng nước bạn Lào bằng phẳng, cây
cối tốt tươi, rậm rạp và đẹp. Nép dưới
tán lá cây rừng là mấy dãy nhà lợp cỏ tranh, xung quanh che chắn bằng phên nứa.
Các dãy lán dài trải bằng sạp nứa. Nằm trên đó có cả thương binh lẫn bệnh binh.
Chúng tôi được phổ biến rằng, đây là trạm xá dã chiến để thu dung thương binh,
bênh binh trên tuyến hành quân. Ai nhẹ thì điều trị một thời gian rồi trả về
đơn vị cũ hoặc bổ sung cho đơn vị khác theo quyết định của cấp trên. Ai nặng
thì chuyển về phía sau, nặng hơn nữa thì chuyển hẳn ra Bắc. Hàng ngày, sau giờ
ăn sáng, cấp thuốc uống hoặc tiêm, ai không bị lên cơn sốt thì, hoặc là chơi tú
lơ khơ, đánh cờ tướng, hoặc tha thẩn dạo chơi xung quanh trạm xá. Cũng có khi
chúng tôi ra suối câu cá hoặc vào rừng hái rau tàu bay, hoặc đào hái măng đưa về
cho nhà bếp cải thiện thêm bữa ăn.
Điều trị ở trạm
xá được hơn mười ngày, dứt cơn sốt, sức khỏe bình phục dần, tôi háo hức xin trạm
xá cho lên đường đuổi theo đơn vị. Nhưng các thủ trưởng ở trạm xá nói rằng, 10
ngày qua, đơn vị đó đã đi xa lắm rồi, không thể theo kịp nữa, hãy chờ lệnh cấp
trên bổ sung cho đơn vị khác. Tôi lại phải tiếp tục ở đó thêm mấy hôm nữa.
Đến một buổi
sáng, tôi và ba người nữa được thông báo có cán bộ đến nhận về đơn vị mới. Tất
cả bốn anh em chúng tôi tập trung lại nghe một anh cán bộ trung tuổi, người tầm
thước, thái độ niềm nở, vui vẻ, nói tiếng Nghệ Tĩnh, tự giới thiệu là Hồ Chư,
Thiếu úy, Trợ lý chính trị của Tiểu đoàn 929 Quân khu 4, được đơn vị cử đến đón
chúng tôi về. Lúc này đơn vị đang làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ hành lang đường
giây 559. Chúng tôi cảm ơn, bịn rịn chia tay bác sĩ, y sĩ, cán bộ và các anh chị
nhân viên, y tá của trạm xá để lên đường. Chỉ hơn mười ngày thôi nhưng các cán
bộ, nhân viên trạm xá đã dành cho chúng tôi trách nhiệm và tình cảm thân
thương. Cảm động lắm, nhiều người đã nhiều đêm thức trắng bên lán, chăm sóc cho
chúng tôi từng viên thuốc, từng thìa cháo. Chắc chắn là, trong hoàn cảnh khó
khăn, ác liệt ở chiến trường, tình cảm giữa con người với nhau gắn bó sâu nặng
hơn.
Theo sự chỉ
huy của anh Hồ Chư, chúng tôi bốn người gồm: Nguyễn Văn Kiu, Trần Công Thuận,
Nguyễn Trọng Năm và tôi hành quân về đơn vị là Tiểu đoàn 929. Chúng tôi cùng lứa
tuổi, là đồng hương, cùng nhập ngũ,cùng hoàn cảnh hành quân đi B bị sốt rét gửi
lại trạm xá giao liên, cùng được bổ sung về một đơn vị lại cùng chiến đấu nên
thân thương nhau lắm. Anh Kiu quê ở xã Nghi Hưng, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An,
năm 1965, trong một trận chiến đấu ở tây Savanakhet (Lào), bị cụt một chân, sau
đó phục viên về quê. Anh Thuận quê ở xã Thanh Cát, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ
An, năm 1968, làm Trung đội trưởng, hy sinh ở khu vực Bình Điền tây Thừa Thiên
- Huế. Anh Năm quê ở xã Thanh Khai, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, năm 1969,
làm Chính trị viên phó Đại đội hy sinh ở Đường 12 tây Thừa Thiên-Huế. Còn anh Hồ
Chư, quê ở xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, năm 1969, làm Chính trị
viên Tiểu đoàn 9, rồi Trưởng tiểu ban tổ chức Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, sau giải
phóng Miền Nam nghỉ hưu, đã từ trần năm 2000.
2 - Tháng 10 năm 1966, sau gần 2 năm chiến đấu ở Lào
rút về miền Bắc củng cố 3 tháng, Trung đoàn 29 chúng tôi rời Hương Khê hành
quân vào miền Nam. Cả đơn vị dừng lại trú quân ở Nông trường Quyết Thắng, Vĩnh
Linh. Tiểu đoàn trưởng Bùi Trần, các đại đội trưởng và tiểu đội trinh sát đi
nghiên cứu địa hình. Là Tiểu đội trưởng liên lạc, đồng thời là liên lạc trực tiếp
cho Tiểu đoàn trưởng, tôi cũng thuộc thành phần đi trinh sát chiến trường. Từ
Nông trường Quyết Thắng, chúng tôi vượt qua Bến Tắt để sang bờ Nam sông Bến Hải.
Từ đây, chúng tôi đi tiếp theo hướng đông về huyện Gio Linh. Trước đó, tháng 7
năm 1966, các trung đoàn của Sư đoàn 324 mới đánh nhau với quân Mỹ ở trục Đường
9 từ Cù Đinh, Ba De đến gần sát khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu.
Đây là lần đầu
tiên tôi đặt chân vào chiến trường Miền Nam. Mặc dù đã trải qua chiến đấu gần 2
năm trên chiến trường Lào, nhưng là mới đánh nhau với quân ngụy Lào (Phu Mi),
chưa chạm trán bộ binh Mỹ. Mãi sau này, nhất là khi đã trở thành cán bộ, tôi cứ
nghĩ rằng, nếu với cách tổ chức sinh hoạt và chiến đấu như thời kỳ ở Lào mà đơn
vị chúng tôi đã trải qua, thì không thể trụ lại được với sự khốc liệt gian khổ ở
Miền Nam, dù chỉ là trong thời gian ngắn.
Những nơi chúng tôi đi qua là cảnh tan hoang của chiến trường. Cây cối đổ
ngổn ngang, cháy trụi, bị bom đạn băm nát xác xơ. Hố bom đạn chằng chịt cày xới
mặt đất, cái đen kịt, cái đỏ lòm. Qua các bãi đổ bộ, trú quân của quân Mỹ, rặt
một mùi Mỹ khó tả. Mùi đồ hộp các loại, mùi thuốc lá, mùi xà phòng tắm, mùi nước
hoa, mùi thùng các tông, mùi thuốc súng, mùi cây cối bị cháy sém, mùi mồ hôi ở
quần áo đồ dùng vứt lại…Tất cả quyện lại thành một mùi hỗn tạp hoi hôi, ngai
ngái, ngầy ngậy, ghê ghê, gây buồn nôn. Tôi ấn tượng ngay từ đầu và mãi sau
này, mỗi khi vào trinh sát các cứ điểm Mỹ đóng quân, trong khứu giác của mình
không bao giờ quên được cái mùi đặc trưng đó.
Chúng tôi đi nghiên cứu địa hình từ khu vực Hồ Khê,
Đá Bạc vòng về làng An Cát Khê, làng Trung An, qua các trục Đường 74, Đường 75,
lên đến làng An Nha, An Hướng. Nơi đây đang là vùng tranh chấp giữa ta và địch.
Dân đã đi sơ tán hết. Có dân lên rừng, vào vùng giải phóng. Có dân chạy vào
Đông Hà, thị xã Quảng trị, thành phố Huế, vùng địch kiểm soát. Chỉ còn lại dân
quân du kích phối hợp hoạt động cùng bộ đội chủ lực. Dọc bờ nam sông Bến Hải,
nam cầu HIền Lương ra tới biển và dọc theo Đường 1 là vùng quân địch vẫn còn
chiếm đóng.
Sau khi đi
xem xét một lượt địa hình trong toàn khu vực, theo chỉ thị của trên, tiểu đoàn
chúng tôi bố trí trận địa đón lõng quân địch ở khu vực Hồ Khê, Đá Bạc. Theo dự
kiến, sau khi phát hiện có chủ lực của ta hoạt động ở phía Bắc Đường 9, quân Mỹ
sẽ hành quân từ căn cứ Đầu Mầu ở Đường 9 đánh chiếm dọc theo triền núi đi về
phía suối La La và Đồi Không Tên.
Ngày 15 tháng
4 năm 1967, từ khu vực tập kết ở Bình độ 100, các đơn vị trong Tiểu đoàn vào
khu vực núi Hồ Khê, Đá Bạc thuộc xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị xây
dựng công sự, trận địa. Thế bố trí lực lượng là: Đại đội 1, Đại đội 2 và Đại đại
3 được bố trí theo hình tam giác ( kiềng
ba chân). Theo đó, Đại đội 1 và Đại đội 3 (thiếu Trung đội 1) là lực lượng đánh
chặn địch ở tiền duyên, Đại đội 2 được bố trí hẳn sang phía bên quyết chiến điểm,
nhằm đánh thốc vào sau lưng địch. Trung đội 1 của Đại đội 3 do anh Lê Hồng Hải
làm Trung đội trưởng được bố trí bên cạnh Sở Chỉ huy Tiểu đoàn làm lực lượng cơ
động. Sở chi huy tiểu đoàn đặt sau Đại đội 1. Đại đội 4 trợ chiến bố trí hỏa
khí cối 82 ly, ĐKZ 75 ly, đại liên phân tán, nhưng các loại hỏa lực đều phải bắn
tập trung vào quyết chiến điểm. Ngoài ra, ở khu vực đó còn bố trí mìn ĐH10.
3 - Sau một thời gian chiến đấu ở Đường 9 Quảng Trị,
đơn vị chúng tôi rút ra củng cố ở một khu rừng gần Phong Nha - Kẻ Bàng ( miền
tây Quảng Bình ).
Ngày 25 tháng 12 năm 1967, tôi có mặt nhận nhiệm vụ ở
Ban Tham mưu Trung đoàn. Ban Tham mưu Trung đoàn có Tham mưu trưởng và các tiểu
ban: Tác chiến, Trinh sát, Thông tin, Công binh, Pháo binh, Quân lực, Cơ yếu.
Anh Nguyễn Hoán Tham mưu trưởng dẫn tôi sang giao cho anh Ngô Trí Thướng Trưởng
Tiểu ban Quân lực. Tiểu ban Quân lực lúc đó có 5 người. Anh Thướng trưởng tiểu
ban và 4 trợ lý: anh Nguyễn Thanh Chương quê Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh, trợ lý quân số;
anh Lê Văn Xảo quê Thọ Xuân- Thanh Hóa, trợ lý trang bị; anh Phí Văn Mao quê Lập Thạch - Phú Thọ, trợ lý
chính sách. Anh Thướng biết tôi từ trước. Các anh khác tôi mới gặp lần đầu. Anh
Thướng giao cho tôi trước mắt cứ tìm hiểu công việc chung của cơ quan, rồi sẽ
phân công công việc cụ thể sau.
Cơ quan tham mưu lúc bấy giờ toàn những người hơn tuổi
tôi. Các anh lãnh đạo đều là bộ đội từ hồi chống Pháp. Các anh trợ lý cũng đều
là lớp trên tôi. Cả cơ quan chỉ có Trương Tấn Phượng hơn tôi hai tuổi, mới được
điều từ Đại đội 12 ly 7 lên làm trợ lý bảo mật. Hai “tân binh” trở thành đầu
sai của cơ quan trong các công việc đòi hỏi đến sức khỏe. Phượng trầm tĩnh, cẩn
thận, chắc chắn bù lại tôi tháo vát, nhanh nhẹn, xông xáo. Bởi thế, tôi và Phượng
thân nhau ngay từ những ngày đầu gặp gỡ. Phượng quê ở làng Quảng Cư, xã Xuân Thủy,
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, đang học dở lớp 9 năm 1965 thì đi bộ đội.
Tôi lên Trung đoàn được 3 ngày, thì cả đơn vị bắt đầu
hành quân đi chiến đấu. Lần này, Trung đoàn không trở lại chiến trường Đường 9
mà hành quân vào sâu hơn. Lệnh của trên là cả Trung đoàn phải hành quân cấp tốc.
Tôi nhớ hôm vượt qua phà Long Đại. Ở đây có qui định các đơn vị chỉ được qua
phà lúc trời đã tối hẳn, đề phòng lộ bến máy bay Mỹ phát hiện oanh tạc. Đơn vị
đi đầu của Trung đoàn đến bến lúc 4 giờ chiều. Anh trưởng bến phà, nói giọng
Khu 5 rất gay gắt, dứt khoát không cho qua. Anh ấy nói:
- Việc qua phà ban ngày là vi phạm kỷ luật chiến trường.
Ai muốn qua, phải bước qua xác tôi.
Căng quá. Thậm chí đưa cả điện khẩn tối mật của cấp
cao nhất cho anh ấy đọc và nói thế nào cũng không được. Các anh chỉ huy Trung
đoàn đang lúng túng chưa biết tính sao, thì
anh Lê Văn Dánh, Phó Chính ủy Trung đoàn
nói:
- Lúc này mệnh lệnh hành quân chiến đấu là trên hết,
chậm trễ thì không hoàn thành nhiệm vụ. Thuyết phục không được, phải cưỡng bức.
Nói rồi, Anh Dánh giao cho mấy anh em trinh sát giữ
chặt anh Trưởng bến phà lại. Chờ đến khi cả Trung đoàn qua sông xong thì thả
ra. Đó là cách làm lưỡng tiện. Trung đoàn chúng tôi kịp hành quân theo mệnh lệnh
của trên. Mà chỉ huy bến phà cũng không vi phạm qui định.
Cả trung đoàn
vượt Đèo 1001, Dốc Chè. Sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, khi vượt Sông Bồ đi về
Hương Trà-Thừa Thiên, qua Đài Phát thanh được nghe Thơ Chúc tết của Bác Hồ:
”Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên!Toàn thắng ắt về ta”.
Từng đoàn quân trên đường ra trận khí thế ngất trời.
Chúng tôi mừng vô cùng. Bầu không khí rầm rập, rạo rực bao trùm cả đội hình
hành quân. Lúc này hình như không còn giữ bí mật nữa. Cả đoàn quân đi náo nức,
oai hùng. Mấy anh cán bộ mang đài bán dẫn mở hết cỡ. Đài Tiếng nói Việt Nam và
Đài Phát thanh giải phóng liên tục đưa tin thắng trận ở thành phố Huế, Sài gòn
và trên khắp chiến trường. Cả Miền Nam bắt đầu cuộc Tổng Tấn công và nổi dậy đồng
loạt. Chúng tôi như bay, như nhảy trên đường hành quân. Trung đoàn 29 chúng tôi
được giao nhiệm vụ vào tham gia chiến đấu ở Huế. Các trung đoàn lúc đó đều gọi
là Đoàn (Quân khu Trị Thiên Huế có các Đoàn 4,5,6,8,9). Trung đoàn 29 đổi tên
là Đoàn 8. ( Đến đầu năm 1969, khi vào đội hình của Sư đoàn 324 thì Đoàn 8 lại
đổi là Trung đoàn 3).
Chiều tối Mồng Một Tết hành quân qua ngã ba Hương
Trà, xuống Miếu Ông Ầm, các tiểu đoàn rẽ đi các hướng theo nhiệm vụ chiến đấu
được giao. Tiểu đoàn 7 đánh vào Thành nội, chợ Đông Ba. Tiểu đoàn 9 đánh vào Cửa
Chánh Tây, An Hòa. Tiểu đoàn 8 đánh ở ngoại thành Huế, vùng La Chữ, Quế Chữ.
Ngày Mồng Hai Tết, các đơn vị bước vào tham chiến với cả quân Mỹ và quân Ngụy.
Trời mưa phùn gió lạnh. Cả Trung đoàn chúng đấu giải phóng và bám trụ thành phố
Huế 25 ngày đêm trong điều kiện vô cùng quyết liệt. Sau đó, đã hoạt động chiến
đấu ở phía tây tỉnh Thừa Thiên.
4 - Tháng 1
năm 1971, thực hiện Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, quân đội Sài
Gòn tiến hành Cuộc hành quân Lam Sơn 719, đánh lên Đường 9 - Nam Lào, hòng chặt
đứt tuyến vận chuyển chiến lược Bắc- Nam của ta. Lực lượng địch huy động rất lớn,
gồm: 3 sư đoàn (1 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến),
1 liên đoàn biệt động quân, 1 lữ đoàn thiết giáp, 13 tiểu đoàn pháo binh ngụy;
20 tiểu đoàn Mỹ (7 tiểu đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn pháo binh, 5 tiểu đoàn thiết
giáp) và 2 trung đoàn quân ngụy Lào phối hợp ở hướng Tây. Tổng quân số khoảng 5
vạn tên ( tương đương 5 sư đoàn bộ binh).
Để chặn đứng, đánh bật cuộc hành quân, tiêu diệt lớn
quân địch, giữ vững hành lang huyết mạch của cuộc kháng chiến, tuyến vận chuyển
Chiến lược 559, từ đó từng bước đánh bại Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của
Mỹ, Quân đội ta đã thực hành chiến dịch phản công với qui mô rất lớn. Lực lượng
ta có 5 sư đoàn bộ binh (gồm các sư đoàn: 2, 304, 308, 320 và 324), các lực lượng
tại chỗ (Mặt trận B5, Trị Thiên, Đoàn 559), 3 tiểu đoàn tăng-thiết giáp, 4
trung đoàn pháo mặt đất, 4 trung đoàn pháo phòng không, 3 trung đoàn công binh,
một số tiểu đoàn đặc công, thông tin,…Chiến dịch bắt đầu từ ngày 30 tháng 1 năm
1971.
Đang đứng chân ở vùng A Lưới (Thừa Thiên) , chúng
tôi được lệnh hành quân cấp tốc ra Đường 9 - Nam Lào bảo vệ các cơ sở hậu cần kỹ
thuật của Bộ đội Trường Sơn ( Đoàn 559 ). Vừa đi vừa phổ biến quán triệt nhiệm vụ
vừa xây dựng quyết tâm chiến đấu cho anh em.
Ngày 5 tháng 2 năm 1971, khi chúng tôi mới hành quân
ra đến Trạm 19 thì gặp địch. Sở trường của bộ đội đặc công là táo bạo, bí mật,
bất ngờ tập kích địch trong cứ điểm vào ban đêm. Đánh hiểm, đánh nhanh, thắng
nhanh và rút khỏi trận địa nhanh. Vũ khí trang bị của đặc công là gọn nhẹ.
Trong biên chế trang bị chỉ có thủ pháo, lựu đạn, súng tiểu liên AK và B40,
B41; không có các loại hỏa lực khác có
uy lực lớn hơn (như: trung liên, đại liên, cối, ĐKZ, trọng liên 12,7 ly…).Vì vậy,
đặc công khó phát huy sức mạnh trong tác chiến với bộ binh địch ở ngoài công sự.
Sở đoản của đặc công là đánh địch ban ngày. Nhất là khi được giao nhiệm vụ chốt
chặn phòng ngự, chiếm giữ mục tiêu, chiến đấu dưới sự oanh kích của phi pháo địch,
thì đặc công càng khó hơn. Nay, gặp địch giữa ban ngày, mới khoảng 3 giờ chiều.
Trong Ban Chỉ huy có anh lo không hoàn
thành nhiệm vụ, đề nghị cho bám nắm địch, chờ đến khi trời tối mới tập kích. Với
tôi, trước khi chuyển sang đặc công đã từng chiến đấu bộ binh nhiều trận, nên
đã quen với tình huống này. Tôi vẫn nhớ cách các anh lớp trước nói rằng, đây
là hình thức chiến thuật “tao ngộ chiến”, nói theo thuật ngữ mới là “đánh gặp gỡ”.
Trong trường hợp này, lý luận nguyên tắc yêu cầu phải “tam tiên”, nghĩa là phải
nhanh chóng làm ba việc trước đối phương: triển khai trước, nổ súng trước, xung
phong trước. Bởi thế, tôi trao đổi với anh Trần Viết Xuân đại đội trưởng và
chúng tôi thống nhất quyết định triển khai đội hình chiến đấu ngay. Anh Xuân chỉ
huy mũi 2. Tôi chỉ huy mũi 1 tiếp cận vào quân địch. Trận đánh đó chúng tôi
giành thắng lợi lớn. Hiệu suất chiến đấu cao, bắt tù binh, thu vũ khí.
Sau khi đánh thắng quân địch trong trận “tao ngộ chiến”,
Trung đoàn giao cho Đại đội chúng tôi phối hợp với Trung đoàn 1 của Sư đoàn chặn
đánh quân địch đang hành quân từ Sê-pôn về phía Đông. Phương án tác chiến được
xác định là : Dựa vào công sự sẵn có ở Trạm 19, Đại đội chúng tôi tổ chức thành
một trận địa phòng ngự chốt, chặn đứng
cuộc hành quân của quân địch. Đồng thời, Sư doàn dùng Tiểu đoàn 1 của Trung
đoàn 1 do anh Võ Chót Trung đoàn phó chỉ huy cơ động đánh thốc từ phía sau để
tiêu diệt địch. Nôm na được hiểu là, Đại đội chúng tôi chốt chặn như một
cái “đe”. Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 1
cơ động đánh lên như một cái “búa”. Hai bên dồn ép quân địch lại để tiêu diệt.
Yêu cầu đặt ra là, đối với Đại đội chúng tôi là phải bám trụ kiên cường, trong
mọi trường hợp không được lùi trận địa. Tiểu đoàn 1 phải cơ động trên mặt đất
dũng mạnh tấn công.
Bắt đầu khai hỏa, toàn bộ trận địa của chúng tôi bị
chìm trong hỏa lực cối 60 ly, cối 82ly và ĐKZ 75 ly của Trung đoàn 1. Có mấy đồng
chí trực cảnh giới ở cửa hầm bị thương vong. Lạ thế, lúc đánh nhau với địch thì
thấy sức công phá của hỏa lực chi viện của ta chưa đủ mạnh; vậy mà khi hỏa lực
đó giáng trúng đội hình mình thì nghe dữ dội, đanh rát đến khủng khiếp. Chúng
tôi phải bẹp dí xuống hầm, không thể ngóc đầu lên được. Tình hình này nếu kéo
dài là rất nguy hiểm. Vì khi quân địch rút lui sẽ tràn qua trận địa ta. Bí quá,
tôi bảo cậu điện đài 2 oát gọi ngay cho Trung đoàn 1 yêu cầu lùi tầm bắn lại
khoảng 200 mét mới trúng được đội hình địch mà không rơi sang trận địa ta. Cậu
điện đài loay hoay mãi chưa liên lạc được. Trong khi đó, các loại đạn pháo cứ cấp
tập nện chát chúa vào công sự trận địa của đơn vị .Tôi sốt ruột vô cùng. Điện
báo viên thì bền bỉ gọi:
- Sông Hồng gọi Sông Lô. Nghe tốt, nghe rõ, trả lời.
Khi điện đài thông thoại được, tôi giật phắt lấy ống
nói, không dùng mật khẩu nữa, hết toáng lên:
- Ông Chót ơi, tôi là Đẩu đây, cối 82 và ĐKZ của các
ông bắn trúng vào trận địa của chúng tôi rồi. Không thể ngóc đầu lên được. Hướng
bắn thì đúng rồi đấy, nhưng phải cho tầm bắn lùi lại 200 mét thì mới trúng vào
đội hình quân địch.
Cáu quá, tôi còn chửi thề mấy câu nữa. Tức thì, đầu
bên kia nhận được thông tin, anh Võ Chót cho pháo bắn lùi ngay. Trận đó, Tiểu
đoàn 1 Trung đoàn 1 phối hợp cùng Đại đội chúng tôi đánh thắng giòn dã, tiêu diệt
và bắt sống gần trăm tên tù binh ngụy.
Mãi tới sau này, năm 1993, anh Võ Chót là Thiếu tướng,
Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 4 có lần cùng dự cơm ở làng Lệ Mật, Gia
Lâm, Hà Nội với chúng tôi. Ôn lại kỷ niệm xưa, anh Chót kể lại trận đó và nói
vui:
- Các ông ạ! Bây giờ ông Đẩu là Cục trưởng Cục Chính
sách trông hiền thế thôi. Chứ trước đây,
lúc đánh nhau ở trận tiền, là cán bộ chính trị nhưng ông ấy nóng nẩy, quyết liệt
và thậm chí là ngoa ngôn đấy!
Tôi cười vui,
nói lại:
- Mọi hoàn cảnh có thứ ngôn ngữ riêng. Cách biểu đạt
cũng vậy. Giữa lúc bom rơi đạn nổ ngút trời, sự sống chết của mình và đồng đội
là mong manh, thời khắc diễn ra tình huống chóng vánh, phải hoàn thành nhiệm vụ
là mệnh lệnh tối thượng. Vì vậy, người chỉ huy phải xử lý nhanh chóng, chính
xác và hiệu quả nhất. Có phải như bây giờ đâu mà tế nhị, ngọt ngào, nhẹ nhàng,
thưa với gửi!
Nghe xong, mọi
người cùng cười.
Đường 9 - Nam Lào từ lâu vốn là hậu phương của ta.
Khi địch bắt đầu cuộc hành quân Lam Sơn 719, theo chủ trương của trên, nhân dân
trong vùng và một vài đơn vị bảo đảm hậu cần – kỹ thuật ở Đoàn 559 đều sơ tán hết
về phía sau.Vì rút vội, trong các bản làng còn bỏ lại nhiều trâu, bò, lợn, gà
thả rông. Có cơ sở hậu cần của Đoàn 559
còn ngổn ngang lương thực, thực phẩm: Gạo, lương khô, thịt hộp, đường, sữa.
Ngày 20 tháng 3 năm 1971, tôi với anh Xuân Đại đội
trưởng lên Trung đoàn nhận nhiệm vụ. Cùng dự với chúng tôi có chỉ huy Tiểu đoàn
9 gồm anh Hồ Hữu Lạn Tiểu đoàn trưởng và anh Lê Hồng Hải Chính trị viên. Nhiệm
vụ Trung đoàn giao cho Đại đội đặc công chúng tôi phối hợp với Tiểu đoàn 9 bộ
binh cùng với Trung đoàn 1 đánh vào cao điểm 550 nhằm tiêu diệt Lữ đoàn 147 của
địch. Sau khi nghe anh Hoàng Trọng Thế trung đoàn trưởng cùng anh Lê Văn Dánh
chính ủy phổ biến tình hình và giao nhiệm vụ, chúng tôi bàn phương án tác chiến.
Theo đó, mục tiêu tấn công là Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến ngụy đang chiếm giữ
điểm cao 550. Hướng tấn công chủ yếu sẽ tiến hành từ phía đông lên. Vì ở hướng
đó có độ dốc rất cao, chắc địch cho là ta không thể lên được nên ít đề phòng
hơn. Khi ta đã lên được, từ trên cao đánh xuống, địch sẽ bị bất ngờ, khó đối
phó. Đặc công sẽ là mũi đột kích chủ yếu. Đại đội 11 bộ binh tiếp ứng với đặc
công. Đại đội 12 hỏa lực sẽ dùng cối 82ly và ĐKZ chi viện trong quá trình tác
chiến.
Chiều ngày 21 tháng 3 năm 1971, chúng tôi bắt đầu tiếp
cận vào vị trí tập kết ở chân cao điểm 550. Đến 7 giờ tối, trút bỏ lại những thứ
không cần thiết, chúng tôi bắt đầu tiềm nhập vào cứ điểm địch. Độ dốc rất cao,
gần như thẳng đứng, cây cối lúp xúp, lại có nhiều phiến đá lớn, chúng tôi phải
dùng giây làm thang, rồi từng người bám vào leo dần lên. Đến 12 giờ đêm, khi cả
đội hình đã lên gọn ở đỉnh dốc, bố trí xong đội hình, tôi mừng lắm. Tôi và anh
Xuân trao đổi với nhau, giữ được bí mật bất ngờ, tạo được thế đánh thuận lợi thế
này, trận này chắc chắn thắng to. Khi tiếp cận cách quân địch chừng 30 mét,
chúng tôi phát lệnh nổ súng.
Sau khi dùng B40, B41 bắn sập hai lô cốt đầu cầu, từng
tổ, theo phạm vi được phân công, lao lên ném thủ pháo, lựu đạn vào công sự địch.
Tiếp đó, anh em dùng súng tiểu liên AK lia từng loạt vào dẫy nhà bạt phía
trong. Ban đầu do bị bất ngờ, địch choáng váng, chưa kịp phản ứng gì. Nhưng gần
10 phút sau, khi phát hiện được hướng đánh của ta, chúng co cụm chống trả quyết
liệt. Địch bắn pháo sáng rực trời. Cả trận địa sáng choang như ban ngày. Từ ụ
súng gần đó, một khẩu đại liên bắn xối xả cản bước phát triển của ta. Tôi chỉ
thị cho cậu Bình xạ thủ B41 ngắm bắn vào khẩu đại liên. Quả B41 phóng đi, một
quầng lửa sáng đi liền một tiếng nổ rất to. Khẩu đại liên địch bị câm họng. Bất
ngờ từ phía bên phải, một tên địch phát hiện ra tôi, nó bắn một loạt tiểu liên
AR15. Tôi trúng đạn người đổ xuống tại chỗ. Tức thì, cậu Tấn liên lạc bắn trả một
loạt AK diệt ngay tên địch. Tôi thấy đau nhói ở lưng, tức ngực, không thở được.
Máu ở lưng trào ra. Đồng thời, cả mũi và miệng tôi đều ộc máu, lại phì phò
thành bọt theo nhịp thở. Tôi cũng không hiểu tại sao. Chắc viên đạn cắm phập
vào phổi, thủng phế quản, máu và hơi thở quyện vào nhau. Mặc dù đau lắm, nhưng
tôi vẫn tỉnh táo. Bằng kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm, tôi biết những người bị
thương nặng mà còn rất tỉnh thì khó qua khỏi.
Rời Sư đoàn, anh em không cáng tôi xuôi ra miền Bắc
mà lại ngược vào phía Nam, vào Viện 68 của Quân khu Trị Thiên Huế. Thương binh
trong Chiến dịch Đường 9-Nam Lào đưa vào đây khá nhiều. Đủ các loại vết thương,
không phân biệt nặng nhẹ và bị thương vào đâu, chúng tôi nằm xếp thành dài trên
sạp nứa trong các lán. Hàng ngày, các y
tá, y sĩ lần lượt thay băng, tiêm thuốc
cho thương binh. Các vết thương nặng đều phải phẫu thuật. Phòng mổ làm việc
liên tục suốt ngày đêm mà vẫn không kịp. Nhiều thương binh nặng, do không đủ
phương tiện và khả năng chữa trị, đã hy sinh. Ngay sau bệnh viện là một nghĩa
trang khá lớn.
Khi khám cho tôi, các bác sĩ kết luận là, tôi bị đạn
bắn gãy xương sườn, xuyên thấu phổi, thủng phế quản, gây tràn dịch màng phổi.
Sau này tôi mới biết, với loại vết thương này, nếu có điều kiện như ở những bệnh
viện bây giờ, thì chỉ cần mổ ra, gắp viên đạn, khâu lại lỗ rò phế quản, thì
không thành thương tật nặng. Nhưng thuở đó, điều kiện chiến trường, thiếu thốn
mọi thứ. Thầy thuốc chuyên khoa, thuốc men và phương tiện đều thiếu. Mổ phổi là
đại phẫu thuật. Viện 68 không đủ khả năng tiến hành. Chỉ còn cách tiêm kháng
sinh liều cao, chọc dò hút dịch. Hàng ngày, các bác sĩ đến dựng tôi dậy, cởi áo
ra, dùng cồn i-ốt sát trùng khắp cả một lượt, tiêm thuốc giảm đau rồi dùng một
cái xi lanh to gần bằng cổ tay, cắm phập một cái kim dài hơn 10 cm vào ngực, vào lưng để chọc hút dịch,
máu mủ. Có bữa hút được một cốc đầy dịch, nhìn như máu cá. Khi chưa hút thì tức
ngực, khó thở. Khi hút được rồi thấy dễ chịu hơn.
Ban đầu mỗi ngày hút một lần. Sau đó mỗi ngày phải
hút hai lần tôi mới chịu được. Nhưng vết thương của tôi ngày một nặng lên. Đau
nhức, tức ngực, khó thở và luôn sốt về chiều tối. Mấy ngày sau, dùng kim loại to cũng không hút được nữa, vì
dịch trong phổi đã thành mủ đặc quánh. Tôi càng đau nhức và khó thở hơn. Phải đặt
tôi nửa nằm, nửa ngồi mới thở được. Sốt cao, li bì, liên miên - nhất là về buổi
chiều và tối. Mỗi ngày tôi một yếu lả đi. Có mấy thương binh nằm cạnh đã ra
nghĩa trang. Tôi nghĩ mình sắp đến lượt.
Sau chiến thắng của Chiến dịch Đường 9-Nam Lào, cấp
trên khao quân. Ở bệnh viện, cứ hai thương binh được cấp một hộp thịt hộp. Lúc
chiều tối, chị y tá mang đi cấp phát và nói như vậy. Tôi và một thương binh tên
là Thanh, cỡ tuổi tôi, bị thương vào đầu,
nằm cạnh. Khi nhận rồi, với ánh nhìn hiền hậu, chân thành, Thanh nói với tôi:
- Thôi! ông giữ lấy mà ăn bồi dưỡng sức khỏe để còn
mổ. Mình nặng lắm, chắc không sống được nữa đâu. Ăn chẳng để làm gì!
Tôi nhìn anh
đau đớn, vì tin đó là sự thật. Và đến khuya, anh ấy kêu đau thảm thiết quá, bác
sĩ chạy đến cấp cứu tại chỗ, thấy anh giãy dụa một lúc rồi tắt thở. Nhân viên bệnh
viện chuyển anh ra nghĩa trang ngay trong đêm. Cảnh này diễn ra nhiều lần, anh em
thương binh chúng tôi chỉ buồn thương đồng đội, chứ không bất ngờ. Sáng ngày
nhìn sang cái dằm nằm trống trếnh bên cạnh và nhìn lại hộp thịt chỏng chơ, tôi
ngao ngán, ngậm ngùi và thương xót Thanh vô cùng. Rồi, giống như Thanh, tôi
cũng chuyển hộp thịt đó cho người khác, không tài nào ăn được.
Mấy ngày sau, khi khám cho tôi, bác sĩ cho rằng, mủ
trong lồng ngực nhiều hơn, đặc hơn, dùng kim không hút ra được nữa, chèn ép phổi,
gây tức thở . Xét thấy, cứ đà đó tôi ngày một yếu đi và sẽ không qua khỏi, bác
sĩ Sùng, chủ nhiệm Khoa ngoại quyết định mổ đặt ống dẫn lưu vào thẳng trong lồng
ngực để thoát mủ ra ngoài. Tôi được đưa lên bàn mổ vào lúc chập tối một ngày cuối
tháng 3 năm 1971, tôi không nhớ ngày cụ thể.
Phòng mổ đặt trong một căn hầm lộ thiên. Không có điện,
phải dùng đèn Đi-a-mô. Tức là, có một người đạp như đạp xe đạp để quay phát điện
làm sáng đèn. Đạp có nhanh đèn mới sáng. Dừng lại thì đèn tắt. Bác sĩ cầm dao mổ
dưới ánh đèn phập phù đó. Khi mổ chỉ dùng thuốc tê, nên tôi nghe và biết hết.
Các anh ấy banh cái xương sườn đã bị gãy của tôi lên, cầm một ống xông cao
su bằng con lươn nhỏ, có đầu mà trên đó
có nhiều lỗ, đẩy sâu vào lồng ngực tôi, tức thì mủ ở trong chảy trào ra. Dẫu
đau lắm, nhưng tôi mừng vì thấy dễ thở hơn. Hơi thở dài, sâu hơn; không ngắn và
gấp gáp như trước đó. Các anh đưa tôi về lán kèm theo sợi dây dẫn lưu từ ngực
tôi ra một bình thủy tinh – hình như vốn là bình đựng thanh huyết. Cứ thế, mủ
trong người tôi cứ chảy thoát tự nhiên ra ngoài.
Điều trị tiếp ở Viện 68 mấy ngày nữa, tôi được chuyển
ra Miền Bắc theo tuyến giao liên 559. Theo qui định, thương binh nặng thì chuyển
ra Bắc, thương binh vừa và thương binh nhẹ thì để lại điều trị đến khi khỏi, trở
về đơn vị chiến đấu. Ai được đưa ra Bắc tức là đã bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Có thể, có người vui vì được trở về Miền Bắc. Với tôi, biết chắc rằng, nếu để lại
chiến trường, thì tôi sẽ chết vì vết thương quá nặng. Nhưng ngày đó, vừa bước
sang tuổi 23, còn say mê lý tưởng, dạt dào khát vọng mà đã thuộc diện bị loại
ra khỏi cuộc chiến đang hào hùng, sôi động, tôi tủi thân và buồn lắm. Chẳng huyễn
hoặc, chẳng lên gân lên cốt gì đâu. Tuổi trẻ chúng tôi lớp lứa đó là vậy.
Ngày đầu cáng tôi
lên đường, đi qua gần chỗ đơn vị đóng quân. Vì đã biết trước, cả đại đội
đặc công, lúc đó còn lại khoảng hơn 50 người, ra đón đường chia tay tôi. Hơn một
tháng sau bị thương, sức khỏe tôi yếu lắm, người gầy rộc đi. Cáng dừng lại. Tôi
cứ nằm bất động trên cáng. Lần lượt từng anh em đến cầm tay tôi ngậm ngùi xúc động.
Hầu như người nào cũng khóc. Mấy cậu liên lạc Đại đội khóc rất to, thảm thiết.
Nước mắt tôi cứ thế chảy ra, chẳng còn sức mà khóc nữa, tôi nấc lên ngẹn ngào.
Chúng tôi biết rằng, đây là lần chia tay cuối cùng. Mà quả thật, kể từ ngày đó
đến hết cuộc chiến, số anh em bạn bè tôi
thuở ấy ở lại chiến đấu nhiều người đã hy sinh. Số còn lại đến bây giờ mà chúng
tôi thỉnh thoảng vẫn họp mặt nhau, khi Thái Bình, lúc Nam Định, Thanh Hóa, chỉ
còn chưa đến chục người. Đúng là những hạt gạo trên sàng. Khi chia tay, lo cho
tôi vết thương nặng, sức yếu, đường xa, dẫu chẳng có gì, anh em gom góp lại vài
cân đường, dăm hộp sữa để tôi bồi dưỡng và mấy vật chiến lợi phẩm của Mỹ như
đèn pin, bi đông, ka uống nước, võng dù,… tặng tôi làm kỷ niệm. Tất cả dồn lại
đựng vào một cái gùi, giao cho người cáng mang theo tôi.
Thường xuyên có ba người thay nhau cáng tôi và mang
ba lô đi cùng. Đường đi khi lên núi, xuống đèo, lúc nắng gay gắt, lúc mưa dầm dề,
đương gồ ghề trơn trượt, anh em vất vả. Mỗi ngày qua một cung trạm. Cứ tối đến,
quân y của trạm dùng xi lanh hút mủ từ trong lồng ngực tôi qua ống dẫn lưu ra
ngoài. Rồi thay băng, tiếp tục tiêm thuốc kháng sinh.
Cáng bộ được hơn 10 hôm, tức là qua được 10 trạm
giao liên. Đến một ngày các anh chuyển tôi từ trạm giao liên ra đường cái để
đưa lên xe ô tô vận tải. Tôi được đưa
lên ô tô cùng với mấy thương binh nữa. Khi nhìn thấy tôi, các anh phụ trách vận
chuyển bằng ô tô ái ngai, lo lắng. Họ cho rằng, đường chiến lược trong rừng rất
xấu, xe xóc rất mạnh, mà vết thương của tôi thì quá nặng. Đắn đo hồi lâu, các
anh quyết định để tôi ở lại để cáng bộ. Nhưng lúc gọi mấy chiến sĩ tải thương của
trạm giao liên để trả tôi lại, thì họ đã quay về trước đó, không còn ai nữa. Tải
thương trên ô tô chỉ có hai người phải lo cho mấy thương binh. Vì vậy, sau một
hồi suy xét, không còn cách nào khác,
các anh đành để tôi lại và cho rằng trên đường giao liên với nhiều người qua lại,
chắc chắn sẽ có người gặp và chuyển tôi về trạm. Chứ nếu chuyển bằng ô tô, tôi
không chịu nổi mà sẽ hy sinh trên đường.
Vậy là, một mình tôi bơ vơ nằm trên cánh võng, giữa
rừng, cạnh chỗ giao nhau của đường giao liên bộ với đường ô tô. Ban đầu, với vết
thương đau nhức, khó thở, sức đuối lắm, tôi
hoang mang, lo lắng vô cùng. Nằm trên võng, tôi chăm chú nghe ngóng và
khát khao có ai đi trên đường giao liên không. Tôi mong manh chờ mãi… chờ
mãi…chẳng thấy gì. Thời gian dần trôi, bốn bề vắng lặng, tôi khắc khoải vô vọng.
Nghĩ rằng, với vết thương nặng thế này, mình sẽ bị chết ở đây. Nhưng ngay sau
đó, giữa lúc vô vọng nhất, tôi trấn tĩnh lại, trong cuộc chiến đấu quyết liệt với quân thù, cùng trang lứa đã có
bao người hy sinh, nay đến lượt mình vì
vết thương quá nặng, âu cũng là tất yếu. Nắng chiều nhạt dần, trời sắp tối. Tôi
đưa tay lấy tập giấy tờ để trên võng, ra đọc. Trong đó có ba loại giấy: Giấy giới
thiệu sinh hoạt Đảng, Giấy chứng nhận bị thương, Giấy chuyển thương. Ở Giấy
chuyển thương, tôi thấy trong mục khi cần báo tin cho ai, ai đó đã viết nhầm
tên cha tôi là Nguyễn Văn Hòa. Sợ nếu mình hy sinh, báo tử nhầm địa chỉ, tôi lấy
bút bi đang cài ở túi ngực chữa lại chữ Hòa thành chữ Hòe bằng chữ in hoa hẳn
hòi, cho đúng. Tiếp theo, ở ô trống còn lại, tôi viết thêm lời nhắn nhủ: “Các đồng
chí ơi, tôi đã hy sinh ở đây!”. Viết xong, vuốt lại tờ giấy cho thẳng hơn, tôi
cho vào túi. Rồi mệt quá đến kiệt sức, hình như vết thương không còn đau nhức nữa, tôi lịm đi, thiếp dần, mơ màng, bồng bềnh như
vào giấc ngủ…
Vậy rồi, đến
khi từ từ khi mở mắt ra, tôi lạ lùng thấy mình đang nằm trên một cái lán nứa dưới
mái nhà tranh. Nghĩ là, mình đang nằm mơ, đưa tay cấu vào chân thấy đau, tôi mới
cho là thật. Tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Phía trên thấy có một chai thanh huyết
đang truyền vào người tôi. Ghé nhìn sang cạnh đó, một chị chắc là y tá đang ngồi
chăm chú nhìn tôi. Ngoài kia ánh sáng ban mai chói lòa. Thấy tôi động đậy, ú ớ,
chị y tá nói như reo lên:
- Ồ! tỉnh lại rồi hả. May quá!
Khi đã tỉnh hẳn, hỏi chị y tá, tôi mới biết, tối qua
có Đoàn cán bộ Dân Chính từ phía Nam ra. Trên đường bất chợt nhìn thấy tôi đang
mê man bất động trên chiếc võng ở gốc cây bên vệ đường. Họ thay nhau cáng tôi
đi và hỏi thăm tìm đường đến Đội Phẫu. Họ tìm được Đội Phẫu lúc khoảng 2 giờ
sáng. Cáng tôi vào đây bàn giao cho quân y rồi họ đi tiếp.
Khi tiếp nhận tôi trong tình trạng đang hôn mê, các
bác sĩ đã kịp thời tiến hành hồi sức cấp cứu. Sau đó, họ căn cứ vào những giấy
tờ hiện có của tôi, kết hợp với khám xét vết thương thực thể để lập bệnh án bổ
sung. Mấy hôm sau tỉnh hơn, tôi được biết,
đây là Đội Phẫu của một đơn vị thuộc Đoàn 559. Bác sĩ Lợi là Đội trưởng. Trong
Đội Phẫu ngày đó còn có anh Thơm quân y sĩ quê ở xã Nghi Hải, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An, cũng thường xuyên chăm sóc tôi. Thời gian điều trị ở Đội Phẫu do vết
thương ngày càng nặng hơn, có lúc nguy kịch, tôi phải cấp cứu mấy lần. Tôi nhớ
một lần tôi không thở được, có bác sĩ đề nghị mổ nới nội khí quản đưa ra ngoài
để thở. Với ánh nhìn đăm chiêu suy nghĩ lung lắm, sau một lúc xem xét kỹ vết
thương và đọc lại bệnh án của tôi, bác sĩ Lợi Đội trưởng quyết định không mở nội
khí quản. Ông vừa chăm chú nhìn tôi một cách thương cảm, vừa từ tốn rành rọt
nói với mọi người:
- Cậu này còn trẻ quá. Mổ ra, mở nội khí quản để thở
là giải pháp tình thế bất đắc dĩ. Có thể giải quyết qua cơn cấp cứu. Nhưng khi
lắp lại khí quản, ngộ nhỡ chạm đến giây thanh quản mà gây ra câm, thì tội vô
cùng. Thôi! Cứ cấp cứu bằng nội khoa. Tiêm Lu-ba-lin trợ hô hấp và tiêm
u-a-ba-in trợ tim, cần thiết thì tiêm moc-phin giảm đau đi đã.
Thế rồi, dưới
sự chỉ đạo và trực tiếp điều trị của bác sĩ Lợi, tôi qua được và khỏe dần lên.
Lúc đó, vì rất lo lắng đến tính mạng, nên mặc dù trong trường hợp nguy kịch,
tôi vẫn còn tỉnh, chăm chú nghe. Trọn đời, tôi chịu ơn của của bác sĩ Lợi. Ngày
đó, nếu không có kinh nghiệm và sự quyết đoán của ông, không biết tôi sẽ là thế
nào. Tiếc là, sau ngần ấy năm trời, tôi chưa có dịp nào gặp lại bác sĩ Lợi.
Điều trị ở Đội
Phẫu khoảng dăm ngày, tôi lại được tiếp tục đưa ra Bắc theo tuyến chuyển
thương. Lại nằm trên cáng lênh đênh dọc tuyến giao liên. Tôi nằm trên đôi vai của
các chiến sĩ tải thương khi lên núi, lúc băng đèo, lội suối với biết bao vất vả,
gian truân và có khi còn bị máy bay oanh kích nữa. Tôi cảm kích và mãi mãi chịu
ơn của những đồng đội mà tôi không hề biết tên đó ./.
N M Đ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét