CHUYỆN 40 NĂM TRƯỚC - KỶ NIỆM KHÔNG QUÊN
N M Đ
Ngày 17/02/2019, nhà cầm quyền Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, bất
ngờ dùng 12 vạn quân ồ ạt tấn công trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung. Thời
điểm cao nhất chúng huy động tới 60 vạn .
Trong cuộc chiến hơn 1 tháng, quân xâm lược Trung Quốc đã dã man bắn giết
biết bao người và tàn phá rất nhiều cơ sở vật chất của ta.
Quân dân ta đã kiên cường đánh trả, tiêu diệt và làm bị thương hàng vạn
tên địch. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc, biết bao cán bộ, chiến
sĩ đã hy sinh anh dũng. Tổ quốc & nhân dân ta đời đời nhớ ơn các Liệt sĩ.
Khi quân Trung Quốc xâm lược ồ ạt tấn công vào lãnh thổ biên giới phía Bắc
nước ta, tháng 02/ 1979, tôi đang công tác ở Cục Tổ chức Tổng cục Chính trị.
Tin tức từ các hướng mặt trận từ Hoàng Liên Sơn đến Quảng Ninh ngày đêm dội về
cơ quan Bộ Quốc phòng. Sau mấy năm hòa bình, không khí thời chiến đang trở lại.
Nếp công tác, sinh hoạt rộn rã khẩn trương hơn. Cơ quan tiến hành báo động nhiều
lần. Cán bộ các cơ quan luôn luôn trong tâm thế sẵn sàng đợi lệnh lên đường nhận
nhiệm vụ.
Chiều ngày 23 /02/1979, tôi cùng một số cán bộ thuộc các cơ quan được Thủ
trưởng Tổng cục Chính trị triệu tập giao nhiệm vụ làm Phái viên xuống các đơn vị
đang trực tiếp chiến đấu ở biên giới thuộc: Quân khu 1, Quân khu 2 và Đặc khu
Quảng Ninh.
Vừa bước sang tuổi 31, bậc quân hàm Đại úy, tôi lại hăm hở nhận nhiệm vụ
lên đường ra mặt trận tựa như mùa Đông năm 1964 - mới chẵn 16 tuổi đã nhập ngũ
vào chiến trường Miền Nam chiến đấu.
Theo phân công, tôi cùng anh Đào Thắng, Trung úy, Nhà văn, cán bộ Cục
Tuyên huấn xuống Trung đoàn 567 thuộc Quân khu 1 đang chiến đấu tại mặt trận
Cao Bằng. ( Sau này, anh Đào Thăng là Đại tá, chuyển ngành làm Chánh Văn phòng
Hội Nhà văn ).
Nhận nhiệm vụ xong rời phòng họp, tôi bất chợt gặp Đại tướng Chu Huy Mân
ở dãy hành lang tòa nhà Văn phòng Tổng cục Chính trị. Ông dừng lại ôn tồn hỏi
tôi:
- Cháu được cử đi đâu ?
- Dạ, cháu được cử lên mặt trân Cao Bằng - Tôi hăng hái trả lời .
Ông nói tiếp :
- Thế là tốt. Chiến tranh do kẻ địch phát động diễn ra trên diện rộng, với
qui mô lớn. Cả nước ta lại phải đương đầu với một cuộc chiến tranh mới, với kẻ
thù mới. Cháu đã qua chiến đấu ở chiến trường thời đánh Mỹ. Nay, cần tiếp tục
phấn đấu rèn luyện qua thực tiễn chiến đấu, công tác ở đơn vị cơ sở. Này! Những
năm đầu kháng chiến chống Pháp, bác đã từng chỉ huy chiến đấu ở Cao Bằng đấy.
Bây giờ lên đó, cháu phải xuống hẳn một Trung đoàn đang chiến đấu, trực tiếp nắm
tình hình và giúp lãnh đạo chỉ huy đơn vị giải quyết những vấn đề đặt ra. Nhớ
phải có báo cáo kịp thời về Tổng cục.
Chia tay ông, tôi vui vẻ trở về cơ quan chuẩn bị mấy thứ cần thiết để
sáng mai lên đường.
Sáng sớm ngày 24/ 02, tôi dùng xe Hon Đa đưa nhà tôi và Nguyễn Trần
Quang, con trai đầu ( ngày đó mới hơn 3 tuổi, chúng tôi chưa sinh Nguyễn Trần
Thùy Vinh) từ nhà tôi ở 1A Hoàng Văn Thụ vào nhà 30 Lý Nam để chia tay ông bà
ngoại.
Từ nhà ông bà ngoại, tôi khoác ba lô đi bộ sang cơ quan Tổng cục Chính
trị. Liễu và cháu Quang đi tiễn. Từ trong nhà ra gần tới cổng 30 Lý Nam đế, đến
đầu cổng nhà ông Đồng Sỹ Nguyên có lối nhỏ rẽ tắt qua Đại đội 2 vệ binh thuộc Lữ
đoàn 144 sang cơ quan TCCT - Lối đi này chỉ những người có Giấy ra vào Thành mới
qua được. Tôi dừng lại giang tay bế con trai lên ghì chặt vào lòng, ôm hôn con.
Quang hỏi, Ba ơi, Ba đi chống Tàu bao giờ về? ( Trước đó, nghe người lớn nói với
nhau là vậy, nên cháu biết ). Tôi nói, chưa biết trước, nhưng không lâu lắm đâu
con ạ. Liễu nhà tôi bịn rịn, tay cầm tay, rồi lẳng lặng ngoảnh mặt đi, đưa tay
nghẹn ngào gạt nước mắt. Trong phút giây xúc đông, tôi vội nói lời chia tay rồi
đi thẳng, đầu không dám ngoảnh lại. Hoàn cảnh khác nhau, nhưng mọi cuộc chia
tay lưu luyến của bao cặp vợ chồng trong thời chiến từ xưa đến nay đều diễn ra
như vậy.
Vào tập trung ở sân bóng đá Tổng cục Chính trị, các cơ quan có một số người
đến chia tay một cách nhẹ nhàng. Tôi và anh Đào Thắng lên chiếc xe com - măng -
ca Bắc Kinh đít tròn, do anh Nguyễn Văn Mỹ quê ở Hải Dương lái. Tôi và Mỹ quen
nhau đã nhiều năm, nên dễ vào chuyện. Với anh Đào Thắng, đây là lần gặp đầu
tiên. Qua câu chuyện bước đầu, tôi biết anh Thắng hơn tôi hai tuổi, là chồng cô
Như, con gái Nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Thi. Thời chống Mỹ, anh Thắng ở đơn
vị Phòng không đã tham gia rất nhiều trận chiến đấu ác liệt ở vùng Khu Bốn. Anh
thuộc nhiều địa danh quê tôi. Anh Thắng cũng đã có nhiều tác phẩm viết về những
trận chiến đấu ác liệt bắn máy bay Mỹ trên bầu trời Khu 4.
Từ Hà Nội, theo Quốc lộ 3, chúng tôi lên Bộ Tư lệnh Quân khu 1 đóng ở
Thái Nguyên, với cự ly khoảng hơn 80 cây số. Đến Quân khu, chúng tôi vào làm việc
với Cục Chính trị. Anh Nguyễn Hức, Cục phó Chính trị cùng anh Ban cán bộ Phòng
Tuyên huấn tiếp và làm việc với chúng tôi. Sau đó, xe chúng tôi đi lên Bắc Kạn
với cự ly khoảng 90 cây số, rồi đi tiếp lên Cao Bằng.
Hôm đó là Thứ Bảy, ngày 20 tháng Giêng năm Kỷ Mùi. Tiết Xuân đang lúc
gió mùa đông bắc, mưa phùn lất phất, trời se lạnh. Đây là lần đầu tiên trong đời
tôi lên Cao Bằng. Hai bên đường trên các triền núi, có nhiều vạt lau khá cao,
bông lau phất phơ trong gió xuân. Thỉnh thoảng có cây đào phai, trông khá đẹp.
Đường đi qua nhiều đèo cao khúc khuỷu : Đèo Giàng, Đèo Gió, Đèo Ngân Sơn, … Đèo
Gió là đèo cao và dài nhất, rất nguy hiểm. Trời mù sương, đường trơn trượt, nếu
lái xe không cẩn thận dễ xảy ra tai nạn. Trên đường khá tấp nập xe cộ. Người ra
mặt trân. Người về phía hậu phương. Lúc này quân Trung Quốc vừa chiếm xong Thị
xã Cao Bằng. Tỉnh đội Cao Bằng đã lùi về Ngân Sơn. Trong số đoàn người lui về về
sau, phần đông là dân đi sơ tán và cũng có nhiều xe chở thương binh từ mặt trận
về.
Khi đến Ngân Sơn, chúng tôi vào Tỉnh đội Cao Bằng xuất trình giấy tờ. Cơ
quan Tỉnh đội bố trí cho tôi, anh Thắng và Mỹ ngủ ở một nhà dân trong bản. Dân ở
đây đã sơ tán về phía sau. Nhà trống, đồ đạc vứt lại ngổn ngang. Đêm đến miền
núi cao trời rét đậm, nấu cơm ăn xong, chúng tôi ngồi sưởi ấm bên bếp lửa hồng
đến tận khuya rồi mới thu xếp sửa soạn chỗ ngủ.
Theo phân công, sáng mai, chúng tôi hành quân bộ cùng với anh Nông Văn
Nhung, Trung tá, Chính ủy Trung đoàn 567 và mấy cán bộ, chiến sĩ lên nhận nhiệm
vụ ở Tỉnh đội Cao Bằng quay về đơn vị. Tôi nhìn vào bản đồ tác chiến thì thấy
Trung đoàn 567 đang nằm sau lưng địch. Nói cách khác, quân Trung Quốc đã tiến
khá sâu vào lãnh thổ Việt Nam mà Trung đoàn 567 đã nằm trong vòng vây của
chúng. Việc liên lạc từ Trung đoàn 567 về Tỉnh đội và Mặt trận Cao Bằng rất khó
khăn, chỉ có từng toán nhỏ xuyên cắt rừng, tránh địch để đi.
Với tôi, bằng kinh nghiệm từ hồi chống Mỹ khi còn là chiến sĩ trinh sát,
đặc công. Lần nay, việc cắt rừng tránh địch để đi là nguy hiểm, nhưng không thật
khó. Vì đường rừng mênh mông có nhiều lối tránh. Thêm nữa, được các chiến sĩ của
Trung đoàn 567 quen thuộc địa hình dẫn đường thì chúng tôi yên tâm.
Sáng dậy, cơm nước xong, vai khoác ba lô, lưng đeo khẩu súng ngắn K 59,
từ Ngân Sơn chúng tôi đi cắt đường rừng vào Trung đoàn 567 đang hoạt động ở Đường
số 4. Trên đường đi, hỏi chuyện tôi biết anh Nông Văn Nhung, người dân tộc Tày,
hơn tôi độ dăm tuổi, người đậm chắc, đầu hơi bị hói. Thời chống Mỹ, anh Nhung ở
Sư đoàn 312 đi chiến trường Tây Nguyên, rồi vào chiến đấu ở Đông Nam Bộ.
Cuốc bộ đường rừng, leo nhiều dốc cao, lội qua nhiều con suối, tôi cảm
thấy khá mệt. Đang trời rét mà mồ hôi tôi cứ túa ra ướt cả áo. Dưới chân thì từng
đàn vắt cứ ngoe nguấy bám theo. Thật chẳng khác nào việc xuyên rừng, vượt suối
tôi đã trải qua thời đánh Mỹ. Khoảng 5 giờ chiều, đoàn chúng tôi về tới Trung
đoàn bộ đóng cạnh một bản dân tộc ở chân núi, phía dưới có con suối, xa hơn là
mấy thửa ruộng bậc thang. Sở Chi huy Trung đoàn gồm mấy căn hầm, phía trên có mấy
cái bàn làm bằng tre ghép lại, xung quanh là mấy dãy lán nứa. Người đầu tiên tiếp
chúng tôi là anh Hứa Văn Kính, Thiếu tá, Trung đoàn trưởng - Một cán bộ khá trẻ
so với cấp bậc và độ tuổi, dáng tầm thước, da trắng, tác phong vui vẻ, nhanh nhẹn,
xởi lởi. Qua câu chuyện, tôi được biết anh Kính mới được điều động từ Trường
Quân sự Quân đoàn 1 về Trung đoàn mấy tháng trước khi xẩy ra chiến tranh.
Trung đoàn 567 là trung đoàn độc lập trực thuộc Quân khu 1. Khi chiến
tranh biên giới xẩy ra, Trung đoàn 567 đã chiến đấu nhiều trận, lập công xuất sắc
ở Thach An, Hà Quảng.
Ngày đầu tiên, 17/02/1979, Quân Trung Quốc mở đầu là pháo bắn dữ dội, tiếp
theo là xe tăng và bộ binh tấn công. Trung đoàn 567 đã cùng Đồn Biên phòng Tà
Lùng và dân quân tự vệ địa phương chặn đánh địch quyết liệt ở Đèo Khâu Chỉa (
Phục Hòa ). Mấy ngày sau, địch tập trung quân dồn dập tấn công vào Thị xã Cao Bằng.
Do tương quan lực lương chênh lệch, ngày 24 / 02 / 1979, địch chiếm được Thị
xã. Nhiều đơn vị của ta bị tổn thất, rơi vào thế bị chia cắt, bao vây. Lúc này
quân số và vũ khí trang bị của Trung đoàn 567 đã bị tiêu hao, lương thực, thực
phẩm khó khăn.
Với tư cách là Phái viên của Tổng cục Chính trị, nhiệm vụ của chúng tôi
là nắm tình hình mọi mặt của đơn vị, tư vấn cho chỉ huy lãnh đạo đơn vị xử lý
các tình huống. Qua nắm tình hình, chúng tôi nhận thấy, cán bộ chiến sĩ Trung
đoàn nhận thức khá đầy đủ về âm mưu thủ đoạn của địch và nhiệm vụ của đơn vị.
Qua mấy ngày chiến đấu đơn vị có thương vong, nhưng mọi người không hề nao núng
tinh thần. Cùng với việc nắm tình hình và tư vấn với Ban chỉ huy Trung đoàn xử
lý các tình huống chiến đấu, tôi còn đi sâu kiểm tra thực hiện công tác chính
sách trong chiến đẩu: việc an táng liệt sĩ, cấp cứu thương binh và giải quyết
giấy tờ cho thương binh về phía sau điều trị; việc bình bầu khen thưởng những tập
thể cá nhân lập thành tích trong chiến đấu.
Là nhà văn quân đội đang tác nghiệp như một phóng viên chiến trường đích
thực, anh Đào Thắng đã đi sâu gặp gỡ các cá nhân và tập thể điển hình xuất sắc
trong chiến đấu, kịp viết bài đăng Tạp chí Văn nghệ quân đội và Báo QĐND. Hằng
ngày, chúng tôi cùng ăn ở với bộ đội ở trận địa.
Bằng vốn sống thực tế nhiều năm ở chiến trường miền Nam, tôi sớm quen với
mọi việc, được anh em từ lãnh đạo chỉ huy Trung đoàn đến chiến sĩ tin tưởng,
thân thiết gần gũi, công việc thuân lợi. Anh Đào Thắng cũng vậy. Như phần trên
đã nói, trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, là bộ đội pháo cao xạ, anh Thắng
đã nếm trải bao ác liệt, khó khăn trên các địa bàn trọng điểm ở Khu Bốn.
Ở Trung đoàn 567 được hơn 1 tuần, có Điện gọi chúng tôi về Bộ Tư lệnh Mặt
trân Cao Bằng báo cáo tình hình. Phút chia tay anh em Trung đoàn thật bùi ngùi.
Chỉ ngót mười ngày thôi mà tình cảm thật gắn bó. Chúng tôi lưu luyến chia tay,
hẹn ngày gặp lại. Ban Chỉ huy Trung đoàn cho 2 chiến sĩ cắt đường rừng dẫn
chúng tôi trở ra Ngân Sơn.
Lúc này, theo chỉ thị của trên, Bộ Tư lệnh Quân khu 1 đã Quyết định
thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Cao Bằng. Đại tá , AHLLVT Đàm Văn Ngụy , Phó Tư lệnh
Quân khu 1 được phân công làm Tư lệnh Mặt trận. Đại tá Ngô Bằng Khê làm Chính ủy
Mặt trận. Sở Chi huy BTL Mặt trận Cao Bằng đặt ở Bằng Khẩu. Khi về tới BTL thì
tôi gặp và báo cáo với Thủ trưởng trực tiếp là Thiếu tướng Hùng Phong, Cục trưởng
Cục Tổ chức TCCT mới từ Hà Nội lên đang làm Phái viên của Bộ tại Mặt trận. ( Một
thời gian sau, ông Hùng Phong được cấp trên điều động làm Bí thư Đảng ủy Quân
khu, Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 1).
Khi chúng tôi chuẩn bị ra về, thì có một việc đột xuất : Mặt trận dùng
máy bay trực thăng Mi6 để tiếp tế vũ khí đạn dược, lương thực phẩm cho Trung
đoàn 567 đang nằm trong vòng vây của địch. Vì tổ lái máy bay không xác định được
địa điểm, tọa độ đóng quân của Trung đoàn. Vậy là, tôi và anh Đào Thắng được
giao nhiệm vụ ngồi lên máy bay để dẫn đường như hoa tiêu. Dù biết chắc địa điểm
đơn vị đóng quân, lại là người cũng có ít nhiều kinh nghiệm xác định tọa độ
trên bản đồ, nhưng quả thật địa hình rừng núi, lại ngồi trên máy bay nhìn xuống,
mây mù dày đặc. Bay cao nhìn xuống dưới thì không thấy gì, bay thấp thì sợ đâm
vào các ngọn núi cao. Hơn nữa, được biết hồi đó Trung Quốc đã đưa pháo cao xạ
vào đất ta, kể cả thị xã Cao Bằng. Ngồi vào buồng lái, bằng mắt thường nhìn qua
kính máy bay, tôi loay hoay chỉ trỏ cho máy bay vòng đi vòng lại cả một vùng
khá rộng, đến mấy lượt, nhưng đều không thấy. Cuối cùng, sau vài chục phút dò dẫm
không tìm được chỗ đóng quân của Trung đoàn 567. Qua bộ đàm, tổ lái xin ý kiến
và được cấp trên lệnh cho máy bay quay về căn cứ.
Khi tiếp đất, nhìn những lô hàng vũ khí đạn dược, lương thực thực phẩm
đang xếp sẵn trong khoang hạnh lý máy bay, lòng tôi áy náy xót xa vô cùng. Tôi
tự cảm thấy mình như có lỗi lớn với anh em. Trong kia, giữa vòng vây quân thù,
bộ đội ta thiếu thốn mọi điều, phải hằng ngày dè xẻn chắt chiu để sống và chiến
đấu.
Tôi được biết, sau đó mấy hôm, BTL Mặt trận Cao Bằng lệnh cho Trung đoàn
567 vượt vòng vây rút ra phía sau để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị tập trung phản
kích địch.
Hai hôm sau, có Điện yêu cầu chúng tôi về Hà Nội gấp để tổng hợp đánh
giá tình hình các hướng và kịp xét đề nghị khen thường. Nhân có máy bay trực
thăng Mi6 chở hàng lên Mặt trận Cao Bằng quay về Hà Nội, chúng tôi được phép
cho ô tô lên máy bay để cùng về. Hơn một giờ sau, trực thăng hạ cánh sân bay Bạch
Mai. Chúng tôi lên ô tô về đơn vị.
Trong cuộc đời quân ngũ 45 năm, tôi có nhiều chuyến công tác. Nhưng có
thể nói, chuyến thâm nhập Trung đoàn 567 Quân khu 1 đang trực tiếp chiến đấu ở
biên cương Cao Bằng mùa Xuân năm 1979 - trong thời điểm cả Dân tộc ta đang sục
sôi hào khí chống quân Trung Quốc xâm lược - là một trong chuyến công tác có
nhiều ý nghĩa với bao kỷ niệm không quên.
Thấm thoắt thời gian trôi nhanh, mới ngày nào đó mà nay đã tròn 40 năm.
Lâu nay, trên các phương tiện thông tin, tuyên truyền và cả trong các văn bản
pháp qui đều gọi là :" Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc ".
Tôi trộm nghĩ, gọi thế e không đúng ! Gọi là “ chiến tranh biên giới “
thì phải là cuộc chiến tranh xâm lấn giành giật lãnh thổ lẫn nhau của cả hai
bên biên giới. Đằng này, đây là cuộc chiến tranh xâm lược lãnh thổ Việt Nam được
phát động đơn phương từ Trung Quốc. Phía Việt Nam không hề cho quân xâm lấn đất
đai Trung Quốc.
Tên gọi một cuộc chiến tranh là căn cứ vào bản chất của nó, chứ không phụ
thuộc vào qui mô, thời gian, không gian và tính chất của cuộc chiến.
Từ cách nghĩ đó, tôi cho rằng, cần nói thẳng là :" Cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam của Trung Quốc".
Và điều này nữa là : Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của
dân tộc, tổ tiên chúng ta đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh chống lại sự xâm
lược của các triều đại phong kiến phương Bắc : Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh,
Thanh mà lịch sử mãi mãi khắc ghi.
Mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789, Quang Trung - Nguyễn Huệ thiên tài đã lãnh đạo
dân ta đánh tan 29 vạn quân Thanh. Cuộc chiến chỉ diễn ra mấy ngày, nhưng Chiến
công đó mãi mãi chói lọi trong Lịch sử vinh quang của dân tộc. Vậy mà, mới có
40 năm thôi, trên phương tiện tuyên truyền không đề cập tương xứng ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét