GS TRẦN QUỐC
VƯỢNG
– MẤY VẤN ĐỀ VỀ VUA GIA LONG
– MẤY VẤN ĐỀ VỀ VUA GIA LONG
* PHẦN
MỘT
0.1. Tôi không
phải là một chuyên gia về lịch sử, đặc biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh
thoảng tôi cũng có những nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70
cho đến gần đây, đầu xuân Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua lại xứ Huế và viết
dăm bẩy bài về vị thế địa – văn hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn,
bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà Nguyễn, mở
đầu là vua Gia Long (1802-1820) và kết thúc là vua Bảo Đại (1925-1945).
0.2. Ông Nguyễn
Khoa Điềm – thuộc dòng họ Nguyễn Khoa nổi danh từ các chúa Nguyễn mà bà nội ông
(Đạm Phương Nữ Sĩ) là cháu nội vua Minh Mạng, sinh ra thân phụ ông là nhà
Mác-xít và là một trong những người cộng sản đầu tiên, tức Hải Triều Nguyễn
Khoa Văn – đã từng phát biểu ở trường Đại học viết văn Nguyễn Du trong dịp lễ
khai giảng khóa 5 (1995-1998), rằng khi ông là tổng biên tập đầu tiên của Tạp
chí Sông Hương ở một thời chưa đổi mới lắm, ông đã cho đăng bài của tôi về “Xứ Huế và vị thế lịch sử của Huế” và đã cùng ban biên tập tạp chí ấy
tặng tôi giải thưởng đặc biệt cho bài viết này, mà khi ấy người ta cho là một
sự “xét lại” về mặt sử học. Bởi trước đó, theo giới Sử – Văn – Triết – Mỹ chính
thống của Việt Nam, thì gần như là một sự “phủ định sạch trơn” (table rase) về
thời Nguyễn và nhà Nguyễn, trong khi đó ở bài viết ấy và những bài tiếp theo,
tôi cùng với các nhà nghiên cứu Dân tộc – Xã hội – Mỹ học như Nguyễn Đức Từ
Chi, Trần Lâm Biền đã đề nghị một cách nhìn hơi khác, tóm tắt lại là:
- Cần phân biệt
thời Nguyễn, đời Nguyễn và nhà Nguyễn.
- Cần phân biệt
thời các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn.
- Và trong các
vua Nguyễn, cũng cần phân biệt các vua đầu Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng
(1820-1840) và các vua cuối Nguyễn như Tự Đức (1848-1883); và ngay cả các vua
Nguyễn sau Tự Đức, cũng cần phân biệt những ông Đồng Khánh, Khải Định với những
ông vua yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Lại càng nên phân biệt
chính trị triều Nguyễn và học thuật, trước tác và mỹ thuật của nền Quốc học
Nguyễn. Có “cộng đồng” triều đình và có các “cá thể” vua – quan nữa chứ !
1.0. Nay theo
yêu cầu của Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói
tóm tắt đôi điều mà tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.
1.1. Về Nguyễn
Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (mà những người theo lý
thuyết Mác-xít thường gọi là “Khởi nghĩa nông dân”) bắt đầu xảy ra vào năm
1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành vua Quang Trung vĩ đại bấy giờ mới 18
tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới
chỉ một cậu bé con trên 10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính
“cậu bé” Nguyễn Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như hết thảy những nhân vật
của dòng chúa đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14
tuổi, từ xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần như là đại diện
duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành vị Nguyên Soái chống lại
phong trào Tây Sơn đang dâng lên và lan tỏa trong toàn quốc từ Nam chí Bắc như
triều dâng thác đổ.
1.2. Tôi không
bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất
ở ba mặt sau đây:
- Ở Đàng Trong
thì lật đổ “trào đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ “trào
đình” của các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ quãng đầu
thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã trở thành những ông vua “bù nhìn”, hay
là các “con rối” (puppet) trong tay các chúa Trịnh.
- Chiến thắng vĩ
đại chống quân xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho
(Tiền Giang) vào cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây
Sơn như sợ cọp” và chính là do lợi dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang
chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn Ánh mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”, cầu
ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự.
- Đại chiến
thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 – mà ông vua
cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn Ánh, ông vua
Lê ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.
1.3. Nguyễn Ánh
cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước lịch sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ
– Bắc Bình Vương – Quang Trung càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một vai
trò lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII.
Nhưng bảo rằng
Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng thành một đô thị thủ đô thì theo
tôi lại là một lối viết quá đà ! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông
Hương và thành Lý Châu – sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên một
thị thành, một cảng thị (City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó
thời Đại Việt Huyền Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim
Long thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn
Phước Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú
Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).
1.4. Tuy không
phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn
Ánh khi ông vì thế cùng lực kiệt, đã qua giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và
cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực
phương Tây (nhất là Pháp), đã dám cho vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại
diện cho nước Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng
cho Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để mong nước Pháp quân chủ cuối mùa
(1787) cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù cái nước
Pháp quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho Nguyễn Ánh và đã được /
bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử phương Tây, nhưng sao chăng
nữa, việc đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân phương Tây mà trước hết là
Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo thân (Pro) thực dân can thiệp ngày
càng sâu vào nội trị Việt Nam, và dẫn tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế
kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân
đầu mùa và quân chủ cuối mùa.
1.5. Tuy sự thật
lịch sử cho tôi – và cho chúng ta – biết rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước
Versailles ấy đã không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp
đòi vua Gia Long thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết
từ chối với lý do rất chính đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của
hiệp ước Versailles đâu !
Trên đường từ
Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan,
kỹ sư, kẻ “phiêu lưu” người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được vài cái
tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về
giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người
khác đã viết hơi quá đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những nhân tố
quan trọng nhất để tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại Tây
Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).
1.6. Như vậy,
với những điều viết trên, là tôi đã có một hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của
Nguyễn Ánh đối với triều đại Tây Sơn chủ yếu là do những nguyên nhân nội sinh,
và đứng về mặt cá nhân tôi hay là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục”
dù “chút chút” – Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của
một ông chúa bị giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh
giáp, không còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam
từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ có
những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia
Long.
1.7. Cho nên,
cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn Phương và một số nhà sử học
nước ngoài khác – từ phe XHCN (cũ) đến phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế
đã thống nhất đất nướcchứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ –
Quang Trung, mặc dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế lực
quân chủ thối nát ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm đứng
đàng sau những quyền lực khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan
là đã góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất nước(1).
1.8. Không nói
gì đến ông Nguyễn Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” – không đủ nội lực để đối
địch với Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu
nguồn” và ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia
đình, mà theo tôi “ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn
nhỏ nhen được làm Trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh
chọe” với em sau vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã
vội vã ra Bắc kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối
thù hận khôn nguôi và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có
một ông hoàng đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể
nói được là nước ta đã được thống nhất ngay dưới thời Tây Sơn ? Đó là một “lập
trường giai cấp” máy móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) “xọ chuyện kia”
(chống quân chủ Nguyễn – Trịnh).
1.9. Ở đây có
một vấn đề thuộc phương pháp luận sử học cần được làm sáng tỏ là: Lịch sử bao
giờ cũng có một sự gián cách giữa lịch sử – thực tại (Histoire – Réalité) và
lịch sử nhận thức (Histoire – Conscience). Mà cái lịch sử nhận thức thì luôn
gắn liền với chủ quan nhà sử học – nhưng trách nhiệm và bổn phận của nhà sử học
chân chính là luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan đến mức cao nhất.
Mức cao nhất đó là như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cuối thế kỷ XX nói:
Hơn ai hết là nhà sử học cần “nhìn
thẳng vào sự thật !”, nói đúng sự thật, và giải thích một cách khoa học
cái sự thật khách quan ấy. Vẫn theo tôi, “tâm thức tiểu nông” Việt Nam là nền
tảng tinh thần của nền “dân chủ làng xã”, của sự đồng dạng văn hóa (Cultural
Identity) ở cấp văn hóa xóm làng Đại Việt – Việt Nam một thời. Thống nhất rồi
chia rẽ, đó là “trách nhiệm lịch sử” của cấu trúc quân chủ Phật giáo (Lý –
Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê – Nguyễn). Lịch sử chính trị và lịch sử văn
hóa, có cái CHUNG và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ vào chính trị hay vào kinh
tế là cái nhìn (Point of view) đã “lỗi thời” (Over time) lâu rồi, quá lâu rồi !
* PHẦN
HAI
01. Luôn “trung
thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là một nhà sử học chính tông”,
sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều “lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được
về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long.
01.1. Nguyễn Ánh
đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…
Do nghiệm sinh
cá nhân, tôi rất thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ
quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ
Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt
bút, nhất là câu sau:
Văn vô sơn
thủy phi kỳ khí,
Nhân bất
phong sương vị lão tài !
Nghĩa là:
Văn không
sông núi, không cao diệu,
Người chẳng
phong sương, khó rạng tài !
01.2. Rất gần
đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý
rằng:
Phụ thân Hồ Chí
Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu lãng (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ “lãng du”
ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam,
Sài Gòn, Sông Bé, Long An, Sa Đéc…
Có thể Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng
(wandering) đó, nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có
dịp “sống nghiệm” với nhiều
nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG
(Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là
một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông trở thành người
của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ (Generous), rất Việt Nam và cũng rất
“Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở
ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.
Thế mà đã có kẻ
dám dịch “wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có
dụng ý nói xấu Cụ Hồ ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ
LỎNG” !
01.3. Nguyễn Ánh
(Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh
Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có
lúc là “quái ác” – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là
một vị tướng tài ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và
sau cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi
cách để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi
– ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho
dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn
trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về
cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng tử
Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh
– làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc
quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách cứ ông thì cũng
dễ thôi.
01.4. Cho dù ông
tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa
giáo của phương Tây, cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành
giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng
đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc
Hoa (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín
ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ
của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80,
tôi đi điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia
Long với một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên
“Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là
thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này
trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế Trà My”…
01.5. Ông không
chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta
tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm
theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt
Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh
tương đối thuần Việt Nam. Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác,
ít dính dáng đến chủ đề ta đang bàn về Gia Long.
02. Sau 10 năm
chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801) –
mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn
– cuối cùng ông đã thắng.
02.1. Tôi là con
cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất
tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua
!”.
Song, nếu tôi là
nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng
phải tìm cách “giải thích” lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ
nhỉ ?
Chả nhẽ lại chỉ
dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối
cùng NÔNG DÂN – nếu không có
một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA
giai cấp địa chủ – phong kiến , mà dù có thắng – như Tây Sơn đã từng thắng
trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi !
02.2. Như tôi đã
nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả
Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại
Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội
chiến ở Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở
miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” –
sáng – chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết
thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá
chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức
Việt Nam. Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA
(Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và
chiến thắng giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV):
Lạy trời cho
cả gió lên,
Cho cờ vua
Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).
Lại có câu ca dao “cận đại”:
Lạy trời cho
cả gió Nồm,
Cho thuyền
chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra !
Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần Bắc cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo
chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là
Folklore cổ – cận – dân gian.
02.3. Quân Tây
Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại thương
nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy;
ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra
Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc
Hà – mượn lời nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc
tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật
phê vào đơn:
Thôi ! Thôi
! Thôi ! Việc đã rồi !
Trăm điều
hãy cứ trách bồi vào ta !
Nay mai dựng
lại nước nhà,
Bia Nghè lại
dựng trên tòa muôn gian.
Thôi cũng
đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786) !
02.4. Gia Long
dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước
ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc
thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu
Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa Khuê
Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh
Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột
Cờ cao đẹp nhất kinh thành
ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại !
Thế thì kể ra
cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai làm gì
nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân
tộc – Dân gian.
Huế trở thành
một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta
rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu
không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn
nói chung ?
Kính xin quý vị
Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà
Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và
thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và
coi khi đó, không gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM !
03. Có một huyền
tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi
Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại
Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung
làm vợ. Huyền tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự
thực lịch sử là thế này:
03.1. Sau khi
vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng
mộ Quang Trung (xem sách “Đi
tìm lăng mộ Quang Trung” của
Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh
Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân)
cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà
Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có
thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai
(02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).
03.2. Cho nên
không làm gì có chuyện vua Gia Long giết hai con bà và lại lấy bà làm vợ. Khi
Ngọc Hân làm vợ Quang Trung, đã môi giới để người em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình
làm vợ của Cảnh Thịnh.
Khi Cảnh Thịnh
chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, bà Ngọc Bình bị kẹt ở Phú Xuân. Gia Long
chiếm Phú Xuân, bắt được Ngọc Bình và quyết định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám
triều thần của Gia Long xúm lại can ngăn, họ nói: - Bệ hạ nay có cả thiên hạ, thiếu
gì gái đẹp – trinh nguyên, việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình ! Vua Gia Long cười ha hả mà nói: - Đến đất nước của giặc “tau” còn
lấy, huống chi là vợ giặc,“tau” lấy vợ giặc làm vợ “tau” thì có chi mô !
Về việc này Biên
Niên sử của triều Nguyễn còn chép hẳn hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục
Chính biên.
Tôi kể chuyện
này với ông bạn thân – nay đã quá cố “người xứ Huế” (mẹ là dòng Hoàng phái
Nguyễn) là PGS Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm và bảo tôi rằng: - Ở đại học, tôi học cổ sử Việt
Nam với các thầy khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết. Thật
là tuyệt ! Đây là một “ca” (cas = trường hợp) mà nếu lý giải bằng phân tâm học
(psyanalyse) thì sẽ rất lý thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời các quan
đại thần là rất “cynique” (tôi
chưa biết dịch là gì cho đúng, đại khái là rất “tởm”, “lỗ mãng”, “bất cần sĩ
diện”, “trắng trợn”… nhưng mà rất THỰC) đấy
chứ, phải không anh ?
Tôi mủm mỉm gật
đầu đồng ý.
03.3. Tôi được
đọc GIA PHẢ nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm,
Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia
phả có đoạn chép:
Bà cụ Nguyễn Thị
Huyền – qua con gái là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân
(và hai con bà) về Bắc, về quê bà. Vua
Gia Long đồng ý. Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền
về làng Nành và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị (1840-1847), có một
tên cường hào ở làng Nành vì có sự chảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ Nguyễn
nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về ngôi “mả ngụy” Ngọc Hân,
cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không biết – phê vào đơn cho phép
đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông Nhị Hồng…
Hiện nay ở Gia
Lâm có đền Ghềnh, tương truyền là “rất thiêng”, đấy chính là nơi hài cốt Ngọc
Hân dạt vào, được dân vớt lên mai táng lại. Nhiều nhà “Hà Nội học” – không đọc
gia phả họ Nguyễn làng Nành – đã nói và viết rất “lu bu” về chuyện này và “đổ
vạ” cho Gia Long và nhà Nguyễn đào mả vợ Quang Trung để trả thù ! “Trả thù”,
vâng, có thể có ở mọi thời, song việc đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông không
phải là việc và trách nhiệm – tội lỗi của Gia Long.
03.4. Gia Long
“tội vạ” gì mà gây thù chuốc oán thêm với sĩ phu và dân chúng Bắc Hà mà ông chê
bai là “bạc” – theo thành ngữ dân gian – hay được / bị “dân gian hóa” thành
câu: “Bạc như dân, bất nhân
như lính”.
Theo chỗ tôi
được biết (tôi biết rất ít thôi), thì sau khi vua Gia Long ra Bắc (1802) diệt
nốt “dư đảng Tây Sơn” và cử Nguyễn Văn Thành (“Tiền Quân Thành”) làm Bắc thành
trấn thủ, vua Gia Long đã – qua ông Thành – làm vài việc sau đây:
03.5. Tổ chức
một lễ tế “Trận vong tướng
sĩ” ở bên bờ sông Nhị phía
Đông thành Thăng Long. Bài văn tế này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học –
vẫn được học ở sách Việt Nam
văn học sử yếu của cố GS
Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn tế là “Vô danh”, sau này giới
Văn học và Hà Nội học đã tìm ra tác giả chính là Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc
Hà – người đã cộng tác với triều đình Tây Sơn đến cùng (1801) và viết bài Phú
nôm nổi tiếng“Tụng Tây hồ phú” (và
do vậy Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài phản bác cũng khá hay
với nhan đề “Chiến tụng Tây
hồ phú”). Lễ tế vong này và bài văn tế giành cho mọi sĩ tử binh không phân
biệt ai là “chân” ai là “ngụy”. Tế xong, Nguyễn Huy Lượng không bị phạt tù tội
gì về việc cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn Gia Long “bổ” cho ông cử nhân hay
chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định), sau ông bị – theo gia
phả và sử địa phương chí chép – giặc cướp giết.
03.6. Cũng dưới
thời vua Gia Long, bà phi “tòng vong” với Lê Chiêu Thống xin triều Nguyễn cho
đưa hài cốt ông vua Lê cuối cùng này cùng vài quan tòng vong (đã chết bên nước
Thanh) đem về nước. Vua Gia Long – qua lời tâu của Trấn thủ Bắc thành – đã đồng ý. Bà phi họ Nguyễn
này mang hài cốt chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất xong thì tự tử
chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện này từ thời trung học
Pháp thuộc).
Vua Gia Long đã
sai lập “đền Cố Lê” ở Hà Nội (mạn phố Thụy Khuê) để thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà
Thái miếu ở Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ. “Đền vua Lê”
(còn gọi là “Thái miếu”) hiện vẫn còn và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước
CHXHCN Việt Nam xếp hạng (“Di tích Văn hóa được xếp hạng”).
03.7. Quê tổ nhà
Nguyễn là Gia Miêu ngoại trang ở Hà Trung – Thanh Hóa, đối diện với dãi núi
Triệu Tường. Ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã trở thành “ông Hai” (ông cả Nguyễn
Uông đã bị anh rể – chồng bà Ngọc Bảo – giết để cướp chính quyền Thái Sư
(như thủ tướng ngày sau), thay thế ông bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông,
Nguyễn Hoàng) đã bị đầu độc chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình thành đạo
Mẫu Việt Nam mà mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành
“Thánh Mẫu” theo thần tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng
đã được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan Lớn Triệu Tường”. Vua Gia
Long đã về thăm quê gốc Gia Miêu.
Trên đường công
tác điền dã, năm 1994, tôi đã về thăm Gia Miêu, thăm ngoại / nội trang, thăm
núi Triệu Tường, và đang đứng trầm ngâm chiêm ngắm ngôi đình được trùng tu lại
thời Gia Long, rất đẹp mắt nhưng đang gần như bị “bỏ quên” (chưa được xếp hạng
và đang xuống cấp, chưa được trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về
trụ sở Đảng ủy và UBND xã.
Tôi những tưởng
mình sẽ bị khiển trách và “thăm hỏi” vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang
niên hiệu Gia Long trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không !, tôi
được chiêu đãi một bữa bia “đã
đời”, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình “nghe lỏm” – tôi đang giảng
giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị
nhà nước bỏ quên ! Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình
hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu quê hương nhà Nguyễn
đã tỏ ra có “tư duy đổi mới” khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và
nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Vua
Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của mình nhưng không hề sai sửa lại tên quê.
Mãi đến thời Tự Đức (1848-1883), ông vua này mới sai đổi tên Gia Miêu cũ xưa
thành tên mới Quý Hương !
03.8. Tuy Trịnh
Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống
chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề
có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh này.
Thật là lạ !
Càng lạ hơn, khi tôi (1992) về thăm lại quê hương Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan
ở Thạch Thất xứ Đoài (nay thuộc tỉnh Hà Tây) – người được coi là “Trương Tử
Phòng” (quân sư Trương Lương của Hán Cao Tổ) của Trịnh Kiểm. Gia Long rồi Minh
Mạng đã ban cho ngôi nhà thờ Trạng Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4
chữ “TRUNG HƯNG CÔNG THẦN”, miễn sưu dịch cho con cháu Trạng Bùng, lại cho 2
“đinh phụ” được coi sóc nhà thờ và mồ mả của ông Trạng đã hết lòng “phù Lê phù
Trịnh” này.
03.9. Tôi có một
số bạn bè họ Trịnh đã / đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh
gia thế phả do Trịnh Cơ vâng
lệnh Gia Long, khai báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn
gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc (1802), ông đã cho gọi
tộc trưởng họ Trịnh – Trịnh Cơ – từ xứ Thanh ra Thăng Long và phán bảo rằng: - Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ
có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta !
Trịnh Cơ run rẩy
nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù. Nhưng
mà không !, vua Gia Long nói tiếp: -
Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình
thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ
gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác họ Trịnh trình cho ta
biết !
Trịnh Cơ mang
gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực viết ra (cố GS Hoàng Xuân Hãn rất
khen ngợi bản gia phả nhà Trịnh này là trung thực, đã viết rõ gốc gác nghèo hèn
và hành xử “xấu xa” của Trịnh Kiểm như ăn cắp gà, giết trộm trâu, ăn cắp
ngựa…). Đọc xong Gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng
công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay
làng Trịnh Điện bên bờ sông Mã có diện tích đúng 200 mẫu, 1 mẫu Trung bộ =
5000m2).
* LỜI
TẠM ĐÓNG
Khi còn ở Gia
Định và mới chỉ có Gia Định (châu thổ sông Mê Kông) trước 1801-1802, Nguyễn Ánh
– Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến Sài Gòn miền Nam thành
nơi sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy
các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng
đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình luận về ý
đồ chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị
trường” hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò
của NGUYỄN ÁNH ?
Tôi đã nhắc đi
nhắc lại – làm rườm tai bạn đọc, nếu bài này được đọc và được in – rằng tôi, kẻ
ngu hèn này, không phải là một nhà Sử học chính tông.
Vậy, theo ý F.
Engels vĩ đại, ai không am hiểu lắm về một lĩnh vực khoa học nào đó mà cứ cố
tình “nói chõ” vào thì có thể được lượng thứ về một số sai lầm không đến nỗi
lớn lắm.
Tôi, từ lâu đã
rất mê F. Engels, mượn và có thể là “lợi dụng” mấy lời nói của ông để tạm đóng
bài viết có nhiều phần “dở hơi” này.
Hà Nội – Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh)
Mùa thu tháng Tám, 1996
Kính nộp,
GS Trần Quốc
Vượng
(Đại học Quốc
gia Hà Nội)
(1) Có nhà Việt
Nam học ở Liên Xô (cũ) còn xem vai trò Gia Long như vai trò của Pi-e đại đế nước
Nga xưa nữa kia. Thật là “quá đáng”, nhưng theo tôi, Quang Trung cũng không hề
là nhà cải cách vĩ đại của Việt Nam.
(2) Bình Định
Vương Lê Lợi.
(3) Thăng Long –
Đông Đô – Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét