LUNG LINH KÍ ỨC
GIAO HƯỞNG
Đầu Mậu Thân (1968),
vùng bãi ngang xứ Nghệ chìm trong bom thảm, pháo bầy, chuẩn bị bước vào năm học
1968-1969, học sinh cấp 1 cấp 2 đều phải sơ tán lên các huyện miền Tây. Bố tôi
- một túc Nho của làng Lộc Thọ - gửi tôi ra Bắc tiếp tục chương trình cấp 2,
đồng thời để...bảo toàn giống nòi. Ra hôm trước, hôm sau tôi nhập học Trường xã An Hòa, huyện
Tam Dương, Vĩnh Phú. Hết học kỳ I lại theo Viện Thiết kế của Bộ Công nghiệp
nặng, chuyển về xã Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, Hà Bắc.
Xã Tam Sơn quê hương của Ngô Gia Tự - chiến sỹ cộng sản tiền bối, cũng
là quê hương phong trào "Nghìn việc tốt". Nhưng vì cơ quan cậu tôi chuyển về muộn mất 2
tuần nên trường "nghìn việc tốt" không cho tôi là cái thằng chưa được
tốt nào nhập học, đành phải sang học Trường cấp 2 xã Tương Giang bên cạnh,
hằng ngày cuốc bộ khoảng 12 cây số cả hai chiều đi về. Gần 700 thấy trò Trường
Tương Giang chỉ mình tôi nói “giọng Nghệ dễ nghe", nên “thằng bé hoàn
cảnh chạy loạn” được thầy cô bạn bè tận
tình sẻ chia giúp đỡ.
Một lần, từ Trường cấp 2 xã Tương Giang, tôi băng qua mấy cánh đồng về
chùa Tam Sơn, giữa đường gặp bác thợ cày ngồi nghỉ dưới bóng cây. Thấy thằng
nhóc chào bằng "Nghệ ngữ", bác kéo tôi cùng ngồi và cho tấm bánh gai,
bác bảo: Từ ngàn năm trước đất Tương Giang này có sông Tiêu Tương, có chùa
Tiêu Sơn (tức chùa Thiền Tâm). - Cháu vào Chùa Thiền Tâm rồi, nhưng chưa biết
Tiêu trong Tiêu Tương với Tiêu trong Tiêu Sơn, và Tương
trong Tiêu Tương với Tương trong
Tương Giang, về nghĩa có liên quan với nhau không?- Bác chỉ nghe người
già truyền lại như vậy. Còn tít đằng kia là làng Đình Bảng đó, xưa gọi là hương
Cổ Pháp, và cả Tương Giang này nữa một thời cũng soi bóng xuống dòng Tương.
Vật đổi sao dời, ngàn năm sau vẫn đất cổ ấy là nơi bác cháu mình đang ngồi,
nhưng dòng Tương thì chỉ còn trong ca dao cổ ngữ, trong da diết lời ru và trong thao thiết biển đời mà thôi!
Ngày ấy giáo dục trên toàn miền Bắc, lao động
là môn chính khóa của chương trình phổ thông, cứ thứ Năm hằng tuần thầy trò
cùng nhau lao động sản xuất. Ý thức trong việc chấp hành sự phân công lao động
là một trong những tiêu chí để đánh giá đạo đức học trò (gọi là hạnh kiểm),
điểm của kết quả lao động được cộng với điểm của các môn học chính khoá,, cuối
năm được tính vào điểm tổng kết đánh giá học lực của trò. Cách giáo dục ấy giúp
học trò "chín sớm", lũ con trai chúng tôi mười ba mười bốn tuổi đã biết
đánh tranh, trát vách, lợp ngói sửa nhà; con gái cũng chẻ lạt đan phên che
thưng trường lớp; Giáo viên các bộ môn cũng tay lấm chân bùn với học trò, cũng
làm cỏ bón phân để cho những thửa ruộng thí nghiệm của trường luôn đạt cao sản.
Hơn 20 năm sau, tháng 11/1989 tôi có dịp sang
Thái Lan, được nghe một số bà con Việt kiều tại tỉnh Nakhonphơnôm và tỉnh
Mụcđahán kể rằng, từ năm 1928 Nguyễn Ái Quốc (hồi đó lấy tên là Thầu Chín) sang
đây gây dựng cơ sở đào tạo cán bộ, chuẩn bị nguồn lực lâu dài cho cách mạng
Việt Nam. Ban đầu Thầu Chín mở lớp dạy chữ quốc ngữ cho con em Việt kiều, thứ
Năm hằng tuần thầy trò tạm nghỉ học để tăng gia lao động, chăm sóc vườn cây ăn
quả của trường. Không phải ngẫu nhiên mà sau khi nước nhà giành độc lập, chương
trình giáo dục của chế độ mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu,suốt nhiều chục
năm liền dành ngày thứ Năm hằng tuần để thầy và trò cùng học môn lao động. Đầu
những năm tám mươi của thế kỷ 20 cải cách giáo dục, từ đó "hành trong học,
học trong hành" vào ngày thứ Năm hằng tuần không còn duy trì trong một nền
giáo dục từng thăng hoa trong đạn lửa.
Trường cấp 2 xã Tương Giang ngày đó nằm cách
chùa Tiêu không xa, sau buổi sáng lao động thứ Năm, mấy bạn trong lớp rủ tôi
lên chùa Tiêu. Chùa tọa trên núi Tiêu Sơn, ban đầu gọi là chùa Lục Tổ, rồi chùa
Thiền Tâm, về sau gọi là chùa Tiêu. Núi Tiêu Sơn nằm giữa cánh đồng mà ngày ấy
còn là thẳng cánh cò bay, nhìn từ xa núi Tiêu như khối ngọc xanh khổng lồ đã
được bao đời bảo quản cất giữ. Chùa được xây dựng từ trước thời Lý, vừa là nơi
đào tạo ra nhiều bậc cao Tăng, vừa là nơi tàng trữ cung cấp sách kinh Phật cho
nhiều chùa trong khắp cả nước. Năm 13 tuổi Lý Công Uẩn được Thiền sư Vạn Hạnh
trụ trì chùa Tiêu đưa về đây rèn cặp, về sau Lý Công Uẩn lên ngôi mở ra triều
Lý (1009-1225). Thiền sư Vạn Hạnh học rộng tài cao kiến thức uyên thâm, Thiền
sư cống hiến trọn đời mình không chỉ vì lợi ích của giáo Phật. Với việc hậu
thuẫn đưa Lý Công Uẩn lên ngôi khởi đầu triều Lý, mở ra thời kỳ phồn vinh của
nước Đại Việt trong suốt nhiều thế kỷ tiếp đó, tài năng công lao của Thiền sư
đã đang và mãi được lịch sử nước nhà ghi nhận. Phật giáo nước Đại Việt suy tôn
Thiền sư Vạn Hạnh lên hàng Quốc sư. Trên đỉnh ngọn Tiêu Sơn gần trường cấp 2
tôi học, từ lâu nhân dân dựng Tượng đài vị Quốc sư-nhà yêu nước Vạn Hạnh: Ngài
toạ trên lưng mãnh hổ, bàn tay Quốc sư như đang xoa đầu một chú khỉ bên cạnh,
hình tượng thể hiện tầm tư tưởng nhân văn sâu sắc, vừa cụ thể tấm lòng từ bi
bao la trời biển của vị Quốc sư.
Hằng ngày tôi đi bộ chừng 6 cây số từ trường
về xã Tam Sơn là nơi ở trọ, cụ già nhà cạnh đường thấy nhóc tôi "nói giọng
Nghệ dễ nghe" kéo tôi vào nhà cho ăn ngô bắp. Cụ búi tóc củ tó, trên vách
nhà treo mấy bức chữ Nho rất đẹp, cụ bảo họ Nguyễn làng Tiên Điền trong Nghệ và
họ Nguyễn xã Tương Giang của cụ chung gốc Tổ họ Nguyễn làng Canh Hoạch trấn Sơn
Nam (nay là Hà Đông). Mấy lần các cụ ngoài này muốn vào Nghệ để nối kết gia phổ
nhận anh em, nhưng bom đạn dữ quá nên tạm gác lại.
Cụ cho biết, nhiều thế kỷ qua chùa Tiêu quê
cụ liên tục được trùng tu tôn tạo với tư cách là một trung tâm Phật giáo lớn
của nước Việt.- Thưa cụ, cháu thấy ở đây các bà các mẹ gặp nhau ngoài đường vẫn
chắp tay chào nhau cung kính, cháu cạn nghĩ kiểu chào ấy chỉ áp dụng nơi cửa
Thiền chứ ạ ?
Cụ thủng thẳng xoa đầu tôi: - Cháu nhầm! Chắp
tay chào nhau cung kính không phải là đặc trưng của riêng nhà Phật, từ xưa cách
chào này đã rất thông dụng trong xã hội Việt Nam. Từ khi người Pháp sang đô hộ
nước ta họ mang theo động tác bắt tay kiểu chào của người phương Tây, dần người
mình chạy theo mốt của người Tây mà bỏ mất cái đặc trưng rất đẹp của tổ tiên mình!
Bữa đó tôi được cụ khai tâm
về kiểu chào chắp tay cung kính, theo đó, hình ảnh chắp tay thể hiện ý nghĩa Hiệp
chưởng - Liên hoa thủ. Hiệp chưởng (hai bàn tay chụm lại):
Biểu trưng cho sự hoà hợp bình đẳng, hiệp sức chung lòng vì mục đích tốt đẹp
cao cả. thể hiện tinh thần "lục hoà cộng trụ" trong tổ chức đoàn thể.
Nếu thiếu "lục hoà cộng trụ" sẽ dẫn đến vấn nạn mất đoàn kết nội bộ,
phá vỡ kỷ cương, gây thù gây oán đẩy nhau vào vòng đau khổ. Liên hoa thủ
(bàn tay hoa sen): Chắp tay là biểu trưng của nụ búp sen, tuy chưa nở nhưng vẫn
đủ đầy đặc trưng tốt đẹp của hoa sen-loài hoa biểu trưng nhiều ý nghĩa trong
giáo lý đạo Phật. Chắp tay xã giao là "trực chỉ nhân tâm kiến tinh thành
Phật". Cháu cứ hiểu nôm na là chúc mọi người đạo đức vẹn toàn, được vậy
thì sẽ tiến tới thành Phật.
- Thưa cụ ! Trong que cháu không còn chùa
chiền, mà sao khi cúng giỗ Chạp cháu nghe người ta vẫn khấn xin Quan thế âm
Bồ Tát cứu khổ cứu nạn ! Quan thế âm Bồ Tát là người thế nào mà mọi người
đều tôn kính cầu xin?
Lần này cụ già cười to: - Câu hỏi này thì ông phải lục sách vậy. Lục sách phần vì
đọc đã lâu giờ nhiều chỗ quên, phần vì do là tích truyền nhưng khi mình kể lại
cũng phải có sách có chứng để mà thủ. Lớn lên cháu hiểu, ở đời phàm người ít
đọc sách thì hay cãi, mà khi người ta cãi cối cãi chày mà mình không có sách
trong tay thì rất dễ "thằng chết đúng, thằng khiêng sai".
Cụ chậm rói đọc tôi nghe tích truyện để thay cho việc trực tiếp trả lời
câu hỏi vỡ sao Bồ Tát được mọi người tôn kính cầu
xin. Chuyện nghe từ 45 năm trước, giờ đầu hai thứ tóc mà tôi chép lại
vẫn như mới nghe hôm kia hôm qua.
Quan âm là một trong những Bồ Tát của Phật giáo. Quan thế âm là hoá
thân của từ bi, là Thần cứu khổ cứu nạn giúp đời. Một lần Quan âm có việc phải
đi qua sông Lạc Thuỷ rất rộng, dòng chảy dữ dằn, đứng bờ bên này nhìn không
thấy người bờ bên kia, thuyền đò qua lại đã nhiều lần gặp nạn, không ít người
vĩnh viễn nằm lại dưới lòng sông. Đúng bữa đó Bồ Tát chứng kiến thảm hoạ đắm đò,
nhiều người bị nước cuốn không tìm được thi thể. Tiếng khóc than vang vọng
đôi bờ. Cả một rừng người mà đành phải khoanh tay nháo nhác, Bồ Tát đăm chiêu
nghĩ kế sách cứu nhân độ thế.
Sau đại hoạ ấy, người ta thấy trên quãng rộng nhất của sông Lạc Thuỷ
xuất hiện một thiếu nữ dịu dàng xinh đẹp, đêm ngày cần mẫn chèo đò đưa đón
khách qua sông. Trong vòng một tháng khắp vùng rộ lên ý ngọc lời vàng về thiếu
nữ chèo đò đức,tài, sắc vẹn toàn, ăn nói dịu dàng, trình độ tay nghề không ai
sánh kịp. Hữu xạ thiên hương (mùi thơm tự bay lên trời), lượng khách qua sông
tăng đột biến, đôi bờ tấp nập đêm ngày. Xưa nay các quý tử con nhà khá giả vẫn
qua sông bằng thuyền rồng thuyền phượng của nhà, nhưng từ sau bữa chứng kiến
cô lái đò dung nhan nghiêng nước nghiêng thành ấy, các quý tử vì “nghiện” sắc
đẹp mà chen nhau xuống đò để có dịp tỏ tình với Tiên nữ giáng trần. Phí qua đò
cô cũng bằng các đò khác, nhưng cuối
ngày tiền cô thu về thì gấp nhiều lần đồng nghiệp. Tiếng thơm về cô ngày càng
lan toả trong dân chúng, song một vài kẻ ghen ăn tức ở thì hậm hực phao tin đồn
đại bôi nhọ rằng, cô lái đò dùng kế mỹ nhân hút hết khách quen của họ. Mặc,
Tiên nữ giáng trần vẫn nhiệt tình đưa đón khách, dịu dàng tươi cười nói với
mọi người.
Phàm là thói đời thì dù ít hay nhiều, thời nào cũng còn chuyện ghen ăn
tức ở, kẻ gian tham không từ dã tâm ngậm máu phun người, họ thường tìm cách
bôi nhọ người thẳng ngay. Một điểm chung có ở mọi thời mọi cuộc là: Kẻ sỹ biết
dành Tâm-Trí vì mục đích chung của cộng đồng xã hội trong đó có mình; còn tiểu
nhân thì tìm mọi cách “đào mỏ” cộng
đồng, không từ dã tâm hại người để thu vén cho mình.
Ngày qua ngày cô lái đò thu về bộn tiền, nhưng số tiền lớn ấy vẫn chưa
đủ để làm một cây cầu qua sông Lạc Thuỷ. Mấy tháng sau cô đánh tiếng kén chọn
người làm chồng, người mà cô kén chọn phải đạt các tiêu chuẩn sau: Gia đình
giàu có, khôi ngô tuấn tú, không nghiện ngập rượu chè cờ bạc…
Được lời nh
cởi tấm lòng, các quý tử khắp trong vùng đua nhau mang hết tiền bạc ra đua tìm
vận may. Trước một “rừng” quý tử tuấn tú khôi ngô, giàu sang phú quý, gia thế
họ tộc nổi tiếng ngất trời, cô lái đò nhỏ nhẹ dịu dàng:
- Các chàng đến đây ai cũng xứng làm chồng, mà thân em thì chỉ có một.
Để đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch, em xin phép cắm sào cho đò đậu giữa
lòng sông, các chàng đứng trên bờ ném tiền vàng xuống thuyền. Ai ném tiền trúng
người em thì xin được nhận
làm chồng !
Lập tức trận mưa tiền vàng từ đôi bờ trút xuống lòng đò giữa sông, cô
gái vẫn đứng vẫy tay cười, cô càng cười tươi tiền vàng trên bờ càng tăng tốc
trút xuống lòng thuyền. Khi những núi tiền vàng trên bờ đã được ném hết xuống
thuyền, lạ thay không có đồng nào trúng được người cô lái đò. Đứng giữa thuyền
đó đầy ắp tiền vàng cô vẫn tươi cười vẫy gọi, nhưng các chàng trai không còn
tiền vàng để ném tiếp, rốt cuộc không chàng trai nào đoạt nổi người đẹp. Đúng
lúc ấy Lã Động Tân-vị Thần cao minh, có việc qua sông, Thần nhận ra cô lái đò
là Quan âm Bồ Tát và nói:
- Đáng khen ! Góp tiền vàng để Bồ Tát xây cầu cho muôn dân thoát khỏi
thảm hoạ sông nước, để thiên hạ được chung hưởng an bình thật đáng khen !
Bồ Tát thuê thầy thợ giỏi trong vùng đến làm cầu, mấy hôm sau trên
quãng sông ấy xuất hiện cây cầu vững chãi. Muôn dân phấn khởi vui mừng đi tìm
Quan âm Bồ Tát để được nói lời cảm tạ nhưng chẳng thấy Ngài đâu. Từ đó các thế
hệ người đời tạc dạ ghi lòng hình ảnh vị cứu tinh bằng cách nhắc tên Ngài mở
đầu cho các bài khấn tế, cầu nguyện: Con lạy Ngài Quan thế âm Bồ Tát cứu khổ
cứu nạn cho muôn chúng sinh…Và Đền thờ Bồ Tát luôn hiện hữu giữa lòng người dòng đời !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét