Trung tướng Nguyễn Mạnh
Đẩu:
Đôi điều được nghe về Triết gia Trần Đức Thảo
(Bài đăng trên Website Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 23/5/2013)
Đôi điều được nghe về Triết gia Trần Đức Thảo
(Bài đăng trên Website Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 23/5/2013)
Lastest update: Thứ năm, ngày
23 tháng 5 năm 2013
Ngay sau khi
Hội thảo khoa học quốc tế “Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo”
được tổ chức tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào ngày 7/5/2013, Ban tổ chức
Hội thảo đã nhận được rất nhiều thư cảm ơn tới lãnh đạo Nhà trường và khoa
Triết học, những sự ghi nhận đánh giá về ý nghĩa của việc tổ chức Hội thảo, về
chất lượng nội dung và công tác tổ chức,... Trong số đó có nhiều bài viết cảm
động chia sẻ những thông tin và kết quả của Hội thảo. Chúng tôi trân trọng giới
thiệu bài viết của Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ
thuật - Bộ Quốc phòng, người trực tiếp tham dự Hội thảo.
Hội thảo khoa học Quốc tế
"Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo"
Các đại biểu tham dự Hội
thảo
Các đại biểu tham dự Hội
thảo
Cuộc Hội thảo được thể hiện trên 3 phần : Con người và
sự nghiệp Trần Đức Thảo; Tư tưởng triết học Trần Đức Thảo; Các lĩnh vực khoa
học khác trong tư tưởng Trần Đức Thảo. Có nhiều tham luận đề cập một
cách phong phú, sâu sắc trên từng khía cạnh của nhiều lĩnh vực, xoay quanh chủ
đề Hội thảo là “Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo”.
Với tôi, do nhiều hạn chế vốn có, tôi chỉ nghe và đọc lại 3 tham luận mà tôi
cho là hay nhất: Tham luận đầu tiên của GS Nguyễn Đình Chú với nhan đề “Triết
gia Trần Đức Thảo - niềm tự hào của chúng ta”. Kế đến, tham luận
của GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn: “ Trần Đức Thảo - một nhân cách, một
nhà triết học tư duy không mệt mỏi”. Tiếp theo, tham luận của GS
Hà Minh Đức: “Nhớ thầy Trần Đức Thảo - một triết gia thông thái,
một nhân cách cao đẹp”. Qui định của Ban tổ chức là mỗi tham luận
chỉ được 10 phút, nhưng cả ba vị giáo sư đều trình bày quá thời gian. Thế mà
xem ra, cả người trình bày và người nghe vẫn cảm thấy thòm thèm.
Tham luận của GS Nguyễn Đình Chú , Khoa Ngữ văn, phác thảo
chân dung MỘT CON NGƯỜI được mệnh danh là triết gia duy nhất của Việt Nam, một
người Việt Nam có thanh danh lớn nhất trên trường quốc tế về học thuật: Trần
Đức Thảo. Tập trung thể hiện trên 5 phần: Trần Đức Thảo: người con xuất chúng
của Bắc Ninh-Kinh Bắc, “cái nôi của người Việt, của văn hóa Việt”. Trần Đức
Thảo: một người Việt nam trọn đời yêu nước với nhiều biểu hiện, đặc biệt là từ
giã Pari hoa lệ để về nước tham gia kháng chiến giữa những ngày gian khổ, ác
liệt. Trần Đức Thảo: một lưu học sinh làm vẻ vang cho Tổ quốc Việt Nam trên đất
Pháp với tấm bằng thủ khoa thạc sĩ triết học mà đến nay chưa có người thứ hai.
Trần Đức Thảo: vị triết gia duy nhất của Việt Nam trên trường quốc tế với những
hành động, những tác phẩm nổi trội, có ý nghĩa phát triển chủ nghĩa Mác theo
hướng “duy vật biện chứng nhân bản”. Trần Đức Thảo: người sáng lập bộ môn lịch
sử triết học dưới chính thể Việt nam dân chủ cộng hòa tại Đại học Sư phạm Văn
khoa (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội).
Tại Đại học Sư phạm, khóa học 1954 - 1957, thế hệ sinh
viên hồi đó thật may mắn được thụ giáo bởi những những nhà khoa học, những bậc
danh sư - như một giàn sao sáng trên trời, một đi không trở lại - như: Đặng
Thai Mai, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh
Tường, Nguyễn Khánh Toàn, Phạm Huy Thông, Trần Văn Giàu, Nguyễn Lân, Nguyễn Lương
Ngọc, Hoàng Xuân Nhị,…Các sinh viên thời đó mà phần đông sau này đều thành danh
trong sự nghiệp, nhiều người trở thành những GS.TS tiêu biểu.
GS Nguyễn Đình Chú trình bày tham luận
GS Nguyễn Đình Chú - người có thâm niên 55 năm trên bục giảng Đại học Sư phạm, bồi hồi xúc động đến nghẹn ngào kể lại những kỉ niệm của mình khi được học rồi tiếp đó là trợ lý của thầy mình - Triết gia Trần Đức Thảo. Ông kể rằng, hồi đó tại Đại giảng đường 35 Lê Thánh Tông từ phòng chính cho đến chuồng gà hầu như hôm nào có giờ giảng của Giáo sư Trần Đức Thảo thì đều chật ních và tĩnh lặng. Có hiện tượng lạ như thế là vì tiếng đồn về Giáo sư quá lớn. Nào là đậu Thạc sĩ triết học của Escole Normale ở phố Ulm - trường danh tiếng nhất của nước Pháp- thắng Jean Paul Sartre trong cuộc tranh luận, bỏ Pari hoa lệ về nước tham gia kháng chiến.
GS Nguyễn Đình Chú trình bày tham luận
GS Nguyễn Đình Chú - người có thâm niên 55 năm trên bục giảng Đại học Sư phạm, bồi hồi xúc động đến nghẹn ngào kể lại những kỉ niệm của mình khi được học rồi tiếp đó là trợ lý của thầy mình - Triết gia Trần Đức Thảo. Ông kể rằng, hồi đó tại Đại giảng đường 35 Lê Thánh Tông từ phòng chính cho đến chuồng gà hầu như hôm nào có giờ giảng của Giáo sư Trần Đức Thảo thì đều chật ních và tĩnh lặng. Có hiện tượng lạ như thế là vì tiếng đồn về Giáo sư quá lớn. Nào là đậu Thạc sĩ triết học của Escole Normale ở phố Ulm - trường danh tiếng nhất của nước Pháp- thắng Jean Paul Sartre trong cuộc tranh luận, bỏ Pari hoa lệ về nước tham gia kháng chiến.
Giáo sư Nguyễn Đình Chú, Khoa Ngữ văn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội mở đầu báo cáo tham luận: Triết gia Trần Đức Thảo
- niềm tự hào lớn của chúng ta (Philosopher Tran Duc Thao - our great
pride). Giáo sư Nguyễn Đình Chú là học trò của Giáo sư Trần Đức Thảo khi học
khóa I Đại học Sư phạm Văn Khoa niên khóa 1954 -1957.
Theo hồi tưởng của GS Nguyễn Đình Chú, thì Triết gia
Trần Đức Thảo trên tư cách là một nhà giáo, quả là một hiện tượng kỳ lạ
chưa từng thấy trong ngành sư phạm. Thầy Trần Đức Thảo có cá tính độc đáo, chỉ
coi trọng chiều sâu học thuật, không câu nệ bề ngoài - thậm chí bất chấp mọi
khuôn mẫu, chuẩn mực mô phạm thường thấy xưa nay của người thầy giáo trên bục
giảng. Bởi thế, các đồng nghiệp, học trò vô cùng yêu mến, kính trọng thầy mà nhận
xét vui rằng: Thầy Thảo có bề ngoài như là phi sư phạm nhưng thực chất lại là
“đại siêu sư phạm”. Thầy Thảo thường đến lớp trong tay không một mẩu giáo án,
không ngồi ở ghế mà ngồi ghé mép bàn, không hề nhìn sinh viên, chỉ nhìn ngược
lên trần nhà giảng đường, mà tiếng nói thì lúng búng, thỉnh thoảng tự mỉm cười.
Thế mà cô cậu sinh viên nào cũng tỏ ra mình hiểu. Nếu không thì tự nhận là mình
dốt sao? GS Nguyễn Đình Chú cho rằng, sở dĩ, ông có được những kết quả
trong đời thì trước hết nhờ có sư phụ Trần Đức Thảo. Bởi chính Thầy Trần Đức
Thảo đã gieo vào mình một ám ảnh suốt đời phải đeo đẳng và phấn đấu là
sự thèm khát suy nghĩ, thèm khát một năng lực tư duy trừu tượng khoa học, dù ít
dù nhiều, cái mà thầy đã có. Mặc dù trong đời sống có nhiều lĩnh vực khác nhau,
nhưng nghiên cứu khoa học thì bao giờ cũng rất, rất cần đến năng lực tư duy đó.
Nói “đại siêu sư phạm” là thế. Không chỉ phát sáng cho học trò mà cao hơn nữa
là làm sao gieo được vào học trò một nỗi ám ảnh suốt đời để học trò theo
mình mà tự phát sáng dù ở lĩnh vực nào.
Kết luận bài viết, sau khi nói lên vị thế của Triết
gia Trần Đức Thảo, GS Nguyễn Đình Chú nhấn mạnh: một đất nước muốn trở thành
một đất nước hùng cường, sánh vai với năm châu thế giới không thể không có
triết học.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, nguyên Viện trưởng Viện Triết học,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, trong bài tham luận: “Trần
Đức Thảo, một nhà triêt học tư duy không mệt mỏi” đã tập trung khắc họa
chân dung và nhân cách của nhà triết học Trần Đức Thảo với khả năng tư duy
không mệt mỏi vì sự nghiệp khoa học. Ông là một nhà khoa học, một trí thức biết
dấn thân, biết vượt qua khó khăn, những sự thù nghịch để trọn đời theo đuổi
chân lý, đến với chủ nghĩa Mác - con đường đúng đắn để giải quyết vấn đề cơ bản
về phần lý luận khoa học để đấu tranh đòi tự do cho dân tộc. Sự nghiệp và nhân
cách của ông rất đáng được kính trọng, rất đáng được tôn vinh và thật sự đã
được tôn vinh dù có hơi muộn màng.
Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trình bày báo cáo: Trần Đức Thảo - một nhân cách, một nhà triết học tư duy không mệt mỏi (Tran Duc Thao: a great personality, a philosopher thought tierless).
Trước những năm 80 của thế kỷ XX, Trần Đức Thảo (1917- 1993) được giới triết học phương Tây biết đến nhiều hơn những người nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam đọc ông, biết đến các công trình của ông và hiểu ông.
Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trình bày báo cáo: Trần Đức Thảo - một nhân cách, một nhà triết học tư duy không mệt mỏi (Tran Duc Thao: a great personality, a philosopher thought tierless).
Trước những năm 80 của thế kỷ XX, Trần Đức Thảo (1917- 1993) được giới triết học phương Tây biết đến nhiều hơn những người nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam đọc ông, biết đến các công trình của ông và hiểu ông.
Theo GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, khi ông đang làm nghiên
cứu sinh triết học tại Liên Xô (cũ), trong một buổi báo cáo khoa học, một phụ
nữ không quen biết đến ngồi cạnh và hỏi, ông có phải là người Việt Nam không.
Ông trả lời, vâng, đúng thế! Bà ta hỏi tiếp, ông có quen nhà triết học Trần Đức
Thảo không. Ông Chuẩn trả lời rằng, tôi có biết nhưng chưa bao giờ được gặp ông
ấy. Bà ta tỏ vẻ ngạc nhiên và nói ngay rằng, tôi rất thích cuốn “Hiện tượng học
và chủ nghĩa duy vật biện chứng” của Trần Đức Thảo bằng tiếng Pháp”. Hóa ra là,
Trần Đức Thảo không chỉ được giới triết học phương Tây mà cả giới triết học
Liên Xô lúc bấy giờ cũng đã biết đến ông từ trước đó.
Tiếc rằng, ở trong nước có không ít người nghe đến tên
ông Trần Đức Thảo nhưng lại chỉ biết về ông như là người có liên quan đến vụ “Nhóm
nhân văn”. Việc ông không được nhiều người biết đến là do các công trình của
ông dù được viết tại Việt Nam hay được viết tại Pháp, rồi được dịch ra nhiều
thứ tiếng khác và được xuất bản ở các nước như Hunggari, Anh, Mỹ, Tây Ban Nha,
Nhật Bản,…Ngoài ra, cũng có thể, suốt một thời gian dài ở nước ta những công
trình nghiên cứu mang tính khoa học đều bị coi là thứ xa xỉ, là xa lạ rời thực
tế. Người ta chỉ chăm chăm vào những cái gì mang tính minh họa hoặc thuyết
minh. Hơn nữa, trong nhiều năm, việc công bố hoặc truyền bá những gì dính dáng
tới những người có liên quan đến vụ “nhân văn” là điều tối kỵ và thậm chí
không được phép. Những nguyên nhân cốt tử đó đã không thể đưa các tác phẩm của
Giáo sư Trần Đức Thảo đến với công chúng rộng rãi cũng như những người giảng
dạy triết học nhưng không thông thạo tiếng Pháp, không trực tiếp sử dụng được
Pháp ngữ.
Suốt trong nhiều năm, từ cuối nhứng năm 50 cho đến
cuối đời, nhà trí thức lớn Trần Đức Thảo dù bị o ép và sống trong cảnh túng
thiếu, không có chỗ để sách, không có nơi làm việc, nhưng ông vẫn không ngừng
công việc nghiên cứu của mình. Đặc biệt, từ đầu năm 1988, sau khi chuyển vào
thành phố Hồ chí Minh, cuộc sống của ông càng khó khăn hơn. Trong mọi khó khăn,
Trần Đức Thảo không đánh mất mình. Suốt những năm sau khi về nước, ông kiên trì
theo đuổi các công trình nghiên cứu và nhờ đó các bài báo, các công trình được
đăng cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài.
Sự nghiệp và cuộc đời của Trần Đức Thảo là sự nghiệp
của một nhà khoa học biết dấn thân, biết vượt qua những khó khăn, những sự thù
nghịch để trọn đời theo đuổi chân lí.
GS Hà Minh Đức, nguyên
Viện trưởng Viện Văn học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tham luận báo
cáo chủ đề: “Nhớ thầy Trần Đức Thảo, một triết
gia thông thái, một nhân cách đẹp”. Bài viết hồi tưởng
lại những ấn tượng sâu sắc của một học trò đã trực tiếp được Giáo sư Trần Đức
Thảo giảng dạy các bài giảng Lịch sử tư tưởng triết học. Cuộc đời Giáo
sư Trần Đức Thảo dù gặp phải những vất vả, nhưng thầy không hề oán giận, trách
móc. Thầy vẫn lặng lẽ sống, chịu đựng, quan tâm đến nghiên cứu khoa học, nhận
những công việc được giao phó và hoàn thành có trách nhiệm. Với tư cách là một
nhân chứng lịch sử, GS Hà Minh Đức khẳng định tầm vóc trí tuệ và nhân cách
trong sáng của thầy mình - Giáo sư Trần Đức Thảo.
Giáo sư Hà Minh
Đức, nguyên Viện trưởng Viện Văn học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam tham luận báo cáo chủ đề: Nhớ Thầy Trần Đức Thảo - một triết gia thông
thái, một nhân cách cao đẹp (Remember Professor Tran Duc Thao - A erudite
philosopher, a great personality). Giáo sư Hà Minh Đức cũng là học trò của Giáo
sư Trần Đức Thảo khi học khóa I Đại học Sư phạm Văn Khoa niên khóa 1954 -1957.
GS Hà Minh Đức kể rằng, hồi đó, thầy Thảo dạy về triết
học duy tâm chủ yếu là phương Tây. Giáo trình dài nhưng phần nhập tâm nhiều hơn
đối với sinh viên là triết học trước Mác với các tác giả nổi tiếng như Kant, Phơbach,
Hégel…Là một nhà duy tâm nổi tiếng, Trần Đức Thảo bắt đầu từ đâu với triết học
duy vật biện chứng. Nghe nói, hồi đó có một vị lãnh đạo nói với GS rằng, anh
không thể bước từ đỉnh của triết học duy tâm sang đỉnh của triết học duy vật,
mà phải đi xuống đã, rồi từ dưới leo lên đỉnh cao của triết học duy vật.
Mỗi khi thầy vào lớp, mọi người đứng dậy chào, thầy
khẽ gật đầu và bắt ngay vào giảng, tay cầm micro nói một hơi cho tới giờ nghỉ.
Thầy lên văn phòng một lúc rồi quay về lớp giảng tiếp một hơi cho đến kết thúc.
Không nói hùng hồn, hùng biện như các thầy Trần Văn Giàu và Trương Tửu mà giọng
nói đều đều không vội vàng, không vấp váp như nước trong nguồn chảy ra. Phải có
một tư duy hệ thống có logic chặt chẽ trong cấu tạo ý tưởng mới có thể chuyển
tải bài giảng dài không hề lệ thuộc vào sách vở. Có lúc một tay thầy cầm micro,
một tay đút túi quần, mắt như nhìn sinh viên mà không nhìn vào ai cụ thể. Lớp
cử ra hai người là Nguyễn Đình Chú và Phạm Hoàng Gia, hai sinh viên thông
minh, giỏi và chữ đẹp, viết nhanh để ghi lại lời thầy. Không có ghi âm hoặc yếu
tố nào hỗ trợ, hai sinh viên Nguyễn Đình Chú và Phạm Hoàng Gia được dành 2 ghế
ở hàng đầu có đánh dấu phấn để tiện công việc. Về xem lại phần ghi chép và gửi
đến thầy, thầy chỉnh lí và cho in. Giờ học sau, cả lớp đã có bài giảng chu đáo,
kịp thời. Có người nói vui, thầy nào cũng như thầy Thảo thì việc viết sách giáo
khoa rất thuận tiện, mà chẳng tốn kém như bây giờ. Giáo trình Lịch sử tư
tưởng triết học đã ra đời như thế. Nhưng điều đáng quí là, đã tạo cho sinh
viên làm quen với tư duy trừu tượng. Một nhược điểm không dễ khắc phục với lối
nghĩ cảm tính và cảm nhận cụ thể. Quá trình khái quát hóa và trừu tượng hóa rất
cần cho học tập và nghiên cứu khoa học của mọi người. Người ta thường nhắc đến
khả năng trừu tượng hóa siêu việt của Hégel và sau này một số triết gia phương
Tây tiếp nối được.
Theo GS Hà Minh Đức, từ Việt Bắc về Hà Nội, Giáo sư
Trần Đức Thảo vẫn giữ được vốn quí triết học, nhưng về chính trị thầy chưa trải
nghiệm qua nhiều thử thách. Đúng lúc phong trào Nhân văn giai phẩm
xuất hiện, Giáo sư Trần Đức Thảo đã viết bài: Nỗ lực phát triển tự do dân
chủ (đăng Nhân văn số 32, 15-10-1956). Trong đó tác giả đề cao, nhấn
mạnh đến yêu cầu tự do phát triển cá nhân; phê phán những tư tưởng làm hạn chế
sự phát triển của xã hội như : quan liêu, bè phái, giáo điều, sùng bái cá nhân.
Kết quả là, Giáo sư Trần Đức Thảo bị ngừng giảng dạy, một số cuộc họp trong
Trường ĐHSP phê phán Giáo sư Trương Tửu và Giáo sư Trần Đức Thảo khá nặng nề.
Sau nhiều năm chịu đựng nhiều vất vả, nhưng Giáo sư Trần Đức Thảo không hề oán
hận, trách móc, thầy vẫn lặng lẽ sống và quan tâm đến nghiên cứu khoa học.
Tháng 9-2000, Giáo sư Trần Đức Thảo được Nhà nước truy
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh - đây là sự giải tỏa, điều minh oan cho Thầy.
*
*
*
Giải thưởng
Hồ Chí Minh mà Nhà nước truy tặng Giáo sư Trần Đức Thảo là căn cứ trên hai công
trình khoa học tiêu biểu nhất của ông : “Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy
vật biện chứng” , “Tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức”.
Được biết, Triết gia Trần Đức Thảo để
lại cho đời hơn 15.000 trang viết bằng 3 thứ tiếng: Việt, Pháp, Đức. Chỉ riêng
công trình Danh mục về di sản của Giáo sư Triết học Trần Đức Thảo do cố
Tiến sĩ Cù Huy Chữ sưu tầm biên soạn cũng đã gần 700 trang. Có thể nói, trên
đất nước ta thật hiếm có được người như ông.
Sự nghiệp và
thanh danh của Triết gia Trần Đức Thảo to lớn như thế, nhưng nội dung triết học
cụ thể của ông là gì, thì đối với số đông học giới Việt Nam ta, xem ra lại là điều không dễ
dàng. Theo GS Nguyễn Đình Chú, một người muốn hiểu được một cách tương đối thấu
đáo về tư tưởng triết học của Triết gia Trần Đức Thảo, thì phải phải hội đủ 4
điều kiện cần thiết là: Về ngoại ngữ, phải thành thạo tiếng Pháp và tiếng Đức.
Phải có trình độ nhất định về triết học thế giới - đặc biệt là triết học phương
Tây. Phải có hiểu biết tới mức cần thiết của khoa học tự nhiên (cứ nhìn những
sách tham khảo một cách uyên bác mênh mông của Triết gia sẽ thấy phải như thế).
Quan trọng hơn nữa là, phải có năng lực tư duy trừu tượng khoa học như thế nào
đó thì mới thâm nhập được vào tác phẩm của Triết gia, trong khi đất nước mình
vốn có thế mạnh về tư duy cụ thể mà nghèo về tư duy trừu tượng.
Về tài
năng to lớn của Giáo sư Trần Đức Thảo, có thể khái quát gọn trong một câu khẳng
định của Giáo sư Trần Văn Giàu: “Mình không có truyền thống triết học. Nếu có
thể nói, có một nhà triết học thì người đó không phải là Trần Văn Giàu - Trần
Văn Giàu là một giáo sư triết học hay nhà nghiên cứu triết học. Người đó chính
là Trần Đức Thảo”.
Trung
tướng Nguyễn Mạnh Đẩu
Nguyên
Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Quốc
phòng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét