Giáo sư Bùi Văn Nguyên - một trong những người đặt nền móng cho nhân cách và trí tuệ Khoa Ngữ văn
Lastest update: Thứ sáu Ngày 5 tháng 4, 2013
Nhân dịp kỷ niệm 95 năm ngày sinh và 10 năm
ngày mất của Giáo sư Bùi Văn Nguyên, xin trân trọng giới thiệu bài viết
của GS.TSKH.NGND Bùi Văn Ba (Phương Lựu). Trong đó, tác giả khẳng định:
Giáo sư Bùi Văn Nguyên là Giáo sư đầu ngành, một trong những người Thầy
đầu tiên đặt nền móng cho nhân cách và trí tuệ Khoa Ngữ văn.
Còn nhớ năm
1960 từ nước ngoài trở về Khoa, tôi được tiếp xúc với thế hệ nhà giáo
lão làng sinh thành trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ trước, kể từ thầy
Nguyễn Lương Ngọc (1910), nhà thơ Vũ Đình Liên(1913), Anh Huỳnh Lý
(1914), Anh Trương Chính (1916), Anh Lê Trí Viễn (1919). v. v… và hiển
nhiên không thể quên Anh Bùi Văn Nguyên (1918). Nếu nhìn theo con mắt
truyền thống thì thế hệ này nói chung, Anh Nguyên nói riêng đều có đầy
đủ cả ba mặt lập đức, lập công, lập ngôn, mà ở đây chỉ nói những điều
tôi trực tiếp cảm nhận được.
Xin nói về mặt lập công trước, đây là
thế hệ vốn đã có nhiều đóng góp cho ngành giáo dục trong thời kháng
chiến chống Pháp, và về sau trở thành những viên đá tảng làm nền móng
cho khoa ta trở thành một trung tâm đào tạo từ Cử nhân đến Tiến sĩ Ngữ
Văn. Hồi sơ kiến thì tôi mới 24, Anh Nguyên đã 42, như thề là bậc cha
chú rồi, nhưng rồi có nghe Anh Nguyên cũng vốn có học Anh Viễn, như thế
thì tạm gọi là đồng môn, xưng hô theo tình huynh đệ cũng được. Nhưng sau
đó mới biết Anh Nguyên còn lớn tuổi hơn Anh Viễn, lại từng làm Hiệu
trưởng Trường cấp III Phan Đình Phùng, tôi liền liên tưởng đến Anh Đức
Nam cùng tuổi Thìn với anh trai tôi (sinh năm 1928) hơn tôi tám tuổi mà
đã từng là thầy học của Nguyễn Khắc Phi (sinh năm 1934) hơn tôi hai
tuổi. Như thế nếu tôi học ở phía Bắc, thì chắc là học trò của Anh Nam,
huống chi là với Anh Nguyên! Tất nhiên đây chỉ là giả thiết, nhưng không
phải chỉ có thế.
Tốt nghiệp ở nước ngoài về dạy đại học
trong nước, tôi liền tự phát hiện thật ra mình chưa có trình độ đại học
về văn họcViệt nam, thậm chí còn có thể nói là cũng chưa thật có trình
độ trung học về văn học nước nhà. Bởi vì thời Trung học, tôi chỉ say mê
làm Toán, rất ghét và rất dốt Văn. Như thế phải lo học, tất nhiên là học
ở nhiều nguồn, nhưng ưu tiên theo phương châm “học tại chỗ”. Dạo ấy
ngay từ năm 1961, bộ Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam của Đại học Sư phạm lần lượt công bố hoàn chỉnh trọn bộ trước Đại học Tổng hợp nhiều, với hai tập đầu là Văn học dân gian Việt nam, Văn học Việt Nam thế kỷ XI-XVIII
mà trong những lần tái bản về sau đều ghi Anh Nguyên chủ biên. Tất
nhiên “học tại chỗ”không phải chỉ học Anh Nguyên, và học Anh Nguyên cũng
không phải chỉ ở hai công trình nói trên, mà tất cả đều còn lưu lại
chứng tích. Luận án Tiến sĩ khoa học Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt nam, về
một mặt nào có thể xem như một báo cáo kết quả học tập của tôi về văn
học nước nhà (chỉ riêng phần trung đại) trong đó có trích dẫn ý kiến của
các anh chị Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú, Đặng Thanh Lê, Phan Sĩ Tấn.
v. v… Có trích dẫn, nghĩa là ít nhiều có kế thừa, nhưng cũng có khi kèm
theo sự trao đổi lại thêm ở một khía cạnh nào đó. Riêng Anh Nguyên, tôi
lại trích dẫn trong công trình Văn chương Nguyễn Trãi (Nxb Đai
học. . , H. 1984) ở mục “Quan niệm văn chương vì nghĩa lớn, vì chí lớn
của đấng anh hùng vì dân vì nước”. Khác với Anh Khánh, theo cách đặt vấn
đề của Anh Nguyên thì trong quan niệm văn chương của Nguyễn Trãi có mối
quan hệ giữa văn và đạo, nhưng không bị ràng buộc trong cái khung Văn
dĩ tải đạo. Quả vậy, trong quan niệm văn học của Nho gia, thì quan hệ
giữa Văn với đạo là bất biến, nhưng là đa biến về các kiểu quan hệ: Văn dĩ minh đạo, Văn dĩ hoằng đạo, Văn dĩ quán đạo.v.v…, còn Văn dĩ tải
đạo chỉ là đặc sản của Tống Nho mà thôi. Cách nhìn của Anh Nguyên đã
thêm một luận cứ giúp cho tôi càng tự tin để xác tín rằng không phải
ngay từ thời Lý Trần Lê mà cho mãi đến thời Nguyễn thì vua quan và Nho
sĩ nước ta mới quán triệt quan điểm Văn dĩ tải đạo, tất nhiên là với
những mức độ và sắc thái thuần nhất khác nhau…
Nói chuyện lập công thì tự nhiên đã
chuyển sang chuyện lập ngôn, bởi vì thực chất giảng dạy đại học là
nghiên cứu khoa học. Anh Nguyên đã để lại cho đời một khối lương công
trình đồ sộ, kể cả riêng và chung có đến 25 cuốn như chúng ta đều biết,
và như đã được khái quát vào ba lĩnh vực chính là Văn học, Văn hóa dân
gian, Hán Nôm, về cơ bản là đúng, nhưng dường như còn sót một điều gì
đó. Chúng tôi muốn nhắc đến cuốn sách thứ 26 là một công trình riêng của
tác giả: Kinh Dịch Phục Hy - Đạo người trung chính thức thời
(Nxb Khoa học xã hội, H. 1997). Không biết đây có phải là công trình
cuối đời không, nhưng được manh nha vào lúc đầu đời, ấy là vào thời
trước cách mạng, năm 1944, nhân đọc bản dịch Kinh Dịch của Ngô
Tất Tố, tác giả đã bắt đầu sưu tập tư liệu rồi. Đánh giá công trình này
không hề có chút dễ dàng, ở đây chúng tôi chỉ xin phát biểu qua một vài
cảm nghĩ còn hời hợt. Công trình này đã đánh dấu thêm một lĩnh vực
nghiên cứu khác của GS Bùi Văn Nguyên là triết học cổ điển phương Đông,
một lĩnh vực nghiên cứu tuy công bố kết quả muộn nhất, nhưng lại được
manh nha sớm nhất như trên đã nói… Tất nhiên lĩnh vực nghiên cứu này lại
có liên hệ lô-gic với các lĩnh vực khác ở chỗ đã nghiên cứu văn học cổ
điển Việt nam, văn hóa dân gian Việt Nam thì không thể không nghiên cưú
triết học cổ điển phương Đông. Mới nói đến đây đã hé lộ ra cái tác phong
khoa học “truy nguyên”(lật từ nguồn) của Gs Bùi Văn Nguyên. Và sự “truy
nguyên”còn được tiếp diễn thêm hai cấp độ nữa. Đó là nghiên cứu triêt
học cổ điển Trung hoa, thì phải bắt đầu từ Kinh Dịch. Nhưng thông thường moị người, trong đó có tôi chỉ dựa vào Chu Dịch (sách Dịch của nhà Chu), tự bằng lòng và rất cả tin với việc thất truyền của Liên sơn Dịch (sách Dịch của nhà Hạ) và Quy tàng Dịch (sách Dịch của nhà Thương). Bỏ qua những bước đó anh Nguyên càng đi ngược lên Hy Dịch (sách Dịch vốn là Tiên thiên bát quái đồ thời
Phục Hy). Cái học phong “truy nguyên”triệt để này của Giáo sư Bùi Văn
Nguyên như còn để lại một nụ cười châm biếm mãi mãi với cái lối hóng hớt
trên ngọn của các loại đề tài giàu chất “tư duy dự án “hiện nay. Riêng
tôi cũng có chút ân hận vì cuối thế kỷ trước khi chủ trì Trung tâm Trung
quốc học cũng mở đầu bằng việc nghiên cứu Kinh Dịch và cũng đã công bố một công trình tập thể Nghiên cứu Chu Dịch - Khoa học xã hội và tự nhiên, gồm
ba mươi bài, khoa ta đóng góp 10 bài. Hai muơi bài bên ngoài trong đó
có cả những bài nghiên cứu của GS.TSKH Nguyễn Hoàng Phương như Kinh Dịch và mã di truyền, Về bốn chất acid amin mới từ Kinh Dịch, hoặc của nhà văn Ông Văn Tùng nhưChu Dịch, tiền thân của máy tính điện tử. v. v…Kể
ra cũng đã hết sức cố gắng tập họp lực lượng, nhưng cũng chính vì thế
mà càng không khỏi ân hận vì trong những năm tháng ấy tôi không hề hay
biết gì Khoa ta còn ẩn cư một nhà Dịch học tầm cỡ. Anh Nguyên là như
vậy! Như cứ lặng lẽ miệt mài trên một “chòi cao”ở phố cổ trong kinh
thành Thăng Long thuở nào vậy! Nhân đây xin nói luôn một việc, vừa nghe
kể lại, cũng có khi trực diện, trực thính là Anh Nguyên thỉnh thoảng hay
hỏi hoặc bàn về số Pi, về vi phân, tích phân, về đạo hàm (dérivée),
nguyên hàm (primitive). v. v, . . Chắc không phải Anh đã đột chuyển sang
ngành Toán, mà có lẽ đó là chẳng qua là những kiến thức công cụ phải
nắm bắt, nhưng rồi được chưng cất thành cái gì (dường như có chút ít
bóng dáng trong công trình cuối đời), và chảy về đâu, vẫn còn là một dấu
hỏi? Dù sao qua đây cũng thấy bằng việc làm của Anh Nguyên đã vô hình
trung mở rộng khái niệm “nghiên cứu liên ngành” trên một cấp độ tổng
quát giữa khoa học xã hội với khoa học tự nhiên .
Lập công, lập ngôn đã như thế thì ắt hẳn
là người có đức, Bởi vì đức thật ra có hai điều cơ bản là phải lao động
hết mình, không những không xâm hại mà cống hiến tận lực cho công viêc
chung, không những không xâm hại, mà còn giúp đỡ người khác theo khả
năng và điều kiện của mình. Dù chỉ có hai điều cơ bản, nhưng nói dễ chứ
làm khó, rất khó, nhưng Anh Nguyên hoàn toàn thoả mãn được những yêu cầu
đó. Cứ xem lúc binh sinh tuy chưa thụ hưỏng được sự ghi nhận và tôn
vinh đúng mức và thích đáng, nhưng không hề ảnh hưởng gì đến sự lao tâm
khổ tứ đầy quyết tâm và quyết chí của Anh thì đủ rõ. Tất nhiên đức độ là
một phạm trù mở, phong phú, trên đức còn có mỹ đức. Không
hiền hòa nhã nhặn được như Anh Trác, không vui vẻ, chan hòa thân tình
được như Anh Lý, Anh Nguyên để lai một ấn tượng là người rất khó tính,
đầy lý trí, sống rất nguyên tắc. Ấn tượng này là có cơ sở với những căn
cứ dồi dào. Tuy nhiên, tôi cũng có những căn cứ ngược lại. Tất nhiên đây
chỉ là cảm nhận qua quan hệ cá nhân, có thể không có mấy giá trị khái
quát, nhưng chí it cũng đủ nói lên rằng sự khó tính, tính nguyên tắc ở
Anh Nguyên là không thuần chất, không cực đoan một chiều.
Trước hết tôi thấy Anh Nguyên, tuy vậy,
cũng có nhiều lúc vui tính ra phết. Anh thường trổ tài chơi chữ Hán Nôm
rất lắt léo. Tôi còn nhớ một hôm ở nơi sơ tán, cơm chiều xong, cùng nhau
lững thững dạo bước trên bờ đê Quần ngọc, Anh Nguyên bỗng nói: “Lũ
chúng ta vinh quang thật, đã lâu không thấy miếng thịt nào, chứ đâu phải như lũ chúng nó, mỗi miếng ăn là một miếng nhục”, thế
là được một phen cười thoải mái! Bây giờ hình dung lại Anh Nguyên, thì
bên cạnh cái dáng dấp của một “ông đồ mô-đéc” của quê choa, là hình ảnh
một lão niên cũng có lúc cười ha hả, khanh khách, rồi nếu không xen kẽ
thi cũng kết thúc bằng từ Mourrir (theo nghĩa mở rộng
tùy ngữ cảnh tiéng Việt: chết thật, chết thôi, chết đến nơi, đáng chết,
sướng đến chết, rồi cũng chết thôi, …). Thí dụ thời sơ tán, mỗi lần
xuống lớp đến thẳng bếp chị Dinh, thấy toàn loại bánh mỳ nắp hầm, Anh
liền nói: “Mệt bở hơi tai, đói lả ra rồi, mà còn gợi chuyện xuống hầm
trú ẩn thế này, cứ như sắp mourrir đến nơi”. Hồi ấy tôi
nghĩ một ngươi đang sung sức hăng say việc đời như vậy mà sao lúc nào
cũng nghĩ đến chuyện chết nhỉ? Tất nhiên là vui miệng thôi, nhưng có lẽ
trong cõi vô thức thẳm sâu của Anh Nguyên chất chứa một cảm quan nhân sinh hữu hạn.
Đã thế, hoặc đúng thế, thì được sinh ra ở đời, cứ làm việc cho đời, rồi
hưởng ngay niềm vui và hạnh phúc trong quá trình và kết quả của những
việc làm ấy, thế là đủ, tự cân bằng, không thiệt thòi đâu cả, cần gì mà
cũng không thể đua chen danh lợi làm gì, vì đến lúc nằm xuống thì tất cả
thành phù du hư vô cả thôi! Nghe hơi triết lý nhân sinh quá,
đây đang nói chuyện vui cơ mà! Vậy thì xin quay lai nói thêm, đã vui,
thì phải tếu thêm mới đâm đà, lại phải thêm chút tục nữa mới “nổi vị”.
Cái cườì của Anh Nguyên đều có đủ ba sắc thái đó. Anh Hà Minh Đức kể
rằng khi thành lập Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, trong lần ra
mắt tại số 9 Hai Bà Trưng, gặp gỡ các nhà giáo đầu ngành, Bộ trưởng Tạ
Quang Bửu có nhấn mạnh việc quán triệt đường lối giáo dục của Đảng, quan
điểm giáo dục Mác - Lênin. v. v…, Anh Nguyên liền phát biểu nước ta là
nước văn hiến từ ngàn xưa, nền giáo dục, đã xuất hiện những quốc sư như
Chu Văn An từ sớm, từ cái thuở mà Mác, Lênin còn chưa được ở dạng tinh
trùng!... Mọi người đều cười, cụ Bửu cũng đành cười theo! Tất nhiên đây
chỉ là tôi nghe kể lại, còn trực kiến, trực thính thì cũng không ít
chuyện vui. Bây giờ hay đùa “Nhà giáo yêu tí, Nhà giáo nhăn răng”, nhưng không biết gốc gác từ đâu, song từ lâu lắm rồi, tôi đã nghe Anh Nguyên đùa “Đang yêu tí, mà bảo nhăn răng sao đành?”. Nhưng vui nhất là chuyện này. Có lần Anh Nguyên nhắn tôi đến chơi sẽ tặng cho cuốn sách mới ra. Tôi nhớ là cuốn Văn chương Nguyễn Trãi
(Nxb Đai học. . , H. 1984). Đến nơi, vừa dở sách ra ký tặng, Anh Nguyên
vừa than rằng: “Đằng đẵng mấy năm trời mà nhuận bút không bằng một lần
chó cho giống”. Anh kể tiếp ở nhà bên cạnh (Hàng
Ngang), mỗi lần chó giống “hành sự” còn xơi một chậu to cháo đỗ xanh,
lại còn được đập thêm vào mấy quả trứng… Ngán ngẩm, anh cô kết lại cũng
đầy đủ hai vế rồi, nhưng tôi trau chuốt thêm thành: “Khôn ba năm của bác thức giả. Rồ một phút của chú mộc tồn (cây còn
là con cầy)”. Anh Nguyên cười ha hả, nhưng vẫn nói: “Khá! Khá! nhưng
chưa hết ý, đâu có được cân đối ngang bằng, còn thua xa chứ!”. Về Khoa,
tôi kể lai chuyện này, không quên nói cụ Nguyên rất khoái, nhưng còn
chê! Cùng cười vang xong, Anh Hải Hà ắng giọng nói: “Phải chăng nên nôm
na thêm ra thể này: Ba năm thức giả miệt mài! Không bằng một phút chú lài sortir (tạm dịch tếu là bắn pháo hoa). Một
ít lâu sau gặp lại, Anh Nguyên cười nói: “Có tân biên, dị bản rồi đấy
nhé!”. Tưởng Cụ có nhuận sắc gì thêm câu của tôi, hóa ra câu của Anh Hải
Hà lan truyền đến tai Cụ nhanh đến thế. Chuyện anh em đối điếc, thơ
thẩn, đùa tếu này, thế chớ mà có chút ít “dấu ấn thời đại” và cũng sống
dai mãi đấy! Tết vừa rồi, như thường lệ tôi đến thăm Anh Hải Hà có nhắc
lại mấy câu trên, cũng lại cười, nhưng có pha thêm ý vị chua chát trước
hiện tình !
Anh Nguyên có khi cũng rất tình cảm.
Nhưng nếu chuyện đùa tếu ở Anh Nguyên có pha lẫn chút gì hơi “ngạo đời”,
thì tình cảm ở Anh tôi cứ láng máng cảm thấy hơi thiên về cái gì có bản
sắc dân tộc, truyền thống văn hóa, phong thủy địa phương, giòng dõi họ
tộc. Có lần tôi nghe Anh nói: “Mật độ tài hoa thì có lẽ phải nhường cho
Bắc kỳ, nhưng đầu óc nhất phải là Nghệ Tĩnh, rồi tiếp theo mới là Nam
Ngãi”. Nhưng đây mới là một khía cạnh, còn nói cho hết các sắc thái
riêng biệt như trên trong tình cảm của Anh Nguyên, thì phải là một “tiểu
tự sự” hoàn chỉnh về một hiện tượng nào đó. Hồi tôi bảo vệ luận án Tiến
sĩ khoa học, Hội đồng chính thức tối thiểu phải 15 vị Giáo sư và Tiến
sĩ khoa học, nhưng lấy đâu ra, cho nên phải mời rộng ra miễn là đều
thuộc trong những chuyên ngành của khoa học xã hội. Nhưng cũng chính vì
thế, lại quá nghiêm nhặt về người phản biện phải đủ bốn vị, chia làm hai
nhóm. Căn cứ theo đề tài luận án, thì về khía cạnh Lý luận
phải là hai TSKH bên ngoài về, nhưng không được cùng trong một nước, một
từ Nga, một từ Đức. Còn về khía cạnh Văn học Việt Nam phải là hai Giáo
sư Văn học trung đại, mà nếu cùng cơ quan thì chỉ được một mà thôi, thế
thì “đánh đáo” vào GS Bùi Văn Nguyên rồi! Thú thật tôi cũng có hơi lo.
Nhưng khi được Anh cho xem trước bài phản biện thì ngoài việc góp ý một
số chi tiết không đáng kể, còn đa phần là khen, tôi nói: “Rất cảm ơn
Anh, nhưng chỉ dám nhận mấy điều cơ bản được Anh khẳng định thôi!”. Đó
là hai điẻm gắn liền nhau, mà như Anh đã nhấn mạnh và tóm lược lại như
sau: “Là nhà lý luận vốn học ở nước ngoài về, nhưng rất khổ công học
thêm văn học trong nước. Có học có hóa, có vay có trả, học tập nhưng
biết đúc kết nâng cao… Từ những lời tựa, lời bình.v.v.., mà ít nhiều ai
cũng biết, rồi dụng công sưu tập dịch thuật bổ sung thêm. Tất nhiên cứ
liệu vẫn còn trong dạng trực cảm, tản mạn, kém phong phú, thế mà với
cách nhìn lý thuyết, với sức luận chứng thuyết phuc, tác giả đã dựng lên
được một hệ thống lớp lang về quan niêm văn chương cổ Việt nam, làm cho
người đọc không khỏi ngạc nhiên, hóa ra ông cha ta cũng có cách lý luận
riêng của mình, mà cũng gần như đầy đủ cả”. Nhưng càng ngạc nhiên hơn
chính là tôi, vì người nổi tiếng nghiêm khắc chặt chẽ, hóa ra cũng rất
phải chăng, dễ chịu. Do đó tự nhiên tôi có nhu cầu giải thich điều có vẻ
mâu thuẫn này, mà những phiếm đàm bên lề sau đó, tôi dần dần mới hiểu
ra phần nào. Anh Nguyên bảo: “Sao lại chỉ Phó thôi, phải làm Tiến sĩ hẳn
hoi chứ! Ông cha ta từ xưa đã làm rồi. Mà rất có ý thức tương đương học
vị với bên ngoài đấy nhé, thượng quốc có bằng gì ta có bằng nấy. Tôi
cũng sẽ bảo Cao Đức Tiến dấn lên… Mà nên làm về văn học nước nhà, Tiến
sĩ mà lại, mà phải được giới khoa học nước nhà thẩm định”. Hóa ra thế,
thật may việc làm của mình ngẫu nhiên lọt vào tầm ngắm đầy tự tôn về
giáo dục và văn học dân tộc của Anh Nguyên, Nhưng không phải chỉ có thế,
còn có một chút vĩ thanh nữa. Sau bảo vệ, trên đường đi cảm ơn các
thành viên Hội đồng, tôi ghé vào Anh Nguyên trước tiên, thấy Anh còn vui
vẻ lắm. Bỗng Anh nói: “Thời Bắc thuộc, dân Tàu qua laị mình rất nhiều,
Cậu có nghe truyền thuyết Vương Bột bị đắm thuyền ở Cửa Lò không? Khảo
cứu còn cho biết một nhánh hậu duệ của Tiến sĩ Bùi Độ, Tể tướng đời
Đường có đinh cư ở Hải dương, sau đó một chi nhánh vào Nghệ an, lại môt
nhánh nhỏ đi tiếp vào Nam Ngãi…”. Trong không khí mơ mơ hồ hồ bán tín
bán nghi của truyền thuyết, tôi như ngộ ra chuyện thực tế rằng, việc
nguồn gốc cho dù có đúng thế thì Bùi tộc ở Việt Nam cũng chả mấy hiển
hách. Nhưng trời xui đất khiến thế nào có hai giọt máu của tộc họ này
sớm tụ lại ở Khoa Văn ngay từ thở ban đầu, trên có Bùi Văn Nguyên, dưới
có Bùi Văn Ba, tuy cách ra một nấc (từ 1 - 3), nhưng cậu em vừa qua
hưởng được thêm chút nghĩa tình của ông Anh là còn vì thế chăng?
Hồi tưởng lại như thế, tôi không tránh
khỏi có chút ân hận vì chưa làm gì được cho Anh Nguyên, mặc dù cũng có
lòng thành và cũng đã từng khởi động nhưng không đạt kết quả. Năm 2005,
gia đình đăng ký xét giải thưởng cho Anh Nguyên ở bên ngành Văn hóa dân
gian. Đã từng có chân trong Hội đồng Giải thưởng Hội Nhà văn và của
Trường ta, có chút ít thể nghiệm về chuyện thuận nghịch trên vấn đề này
của các bậc cao niên khác, tôi đã tìm gặp nói với Cao Đức Tiến: “Cụ xứng
đáng và cứ mạnh dạn đăng ký Giải thưởng Hồ Chí Minh, nhưng phải theo
phương châm tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ... Cuối đơn, nên
ghi thêm nguyện vọng của gia đình là nếu chưa đạt, thì xin xét theo
tiêu chuẫn Giải thưởng Nhà nước. Tất nhiên lần này có chủ trương chỉ
đăng ký một cửa, chứ không được nước đôi như trước. Nhưng đó là yêu cầu
chặt chẽ với đương sự, còn đây chỉ là nguyện vọng của gia đình, thay mặt
người quá cố, thì chắc ai cũng thông cảm thôi”. Sau đó Tiến có nói lại:
“Cảm ơn tấm lòng thầy, gia đình vốn cũng có trao đổi, nhưng thấy để cho
thật chắc, cứ chỉ đăng ký Giải thưởng Nhà nước thôi thầy ạ!”. Điều này
thì quá chắc chắn đi rồi như đã diễn ra trong thực tế, nhưng tôi vẫn cứ
thấy tiếc vì chưa xứng tầm với Anh Nguyên!
Hôm nay nhân dịp tưởng niệm cả ngày sinh
lẫn ngày mất của Anh Nguyên, xin được có gì kể nấy, nhớ sao nói vậy,
nhằm góp thêm một nén tâm hương trước vong linh một Giáo sư đầu ngành đã
góp phần đặt nền móng cho nhân cách và trí tuệ của Khoa ta.
Phương Lựu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét