Không ngạo nghễ như Caesar
- một vị hoàng đế La Mã cổ đại - nhưng Quang Trung hoàng đế có một niềm tin
mạnh mẽ vào chiến thắng cuối cùng mà đội quân của ông có thể giành được trước
kẻ thù. Đó là những chiến thắng được xây dựng từ nghệ thuật dụng binh thần
tốc, táo bạo và nắm chắc thời cơ.
Thế kỷ 16, Đại Việt chìm trong chia cắt: hết cuộc
chiến giữa tập đoàn phong kiến Trịnh-Mạc cho đến cuộc đối đầu triền miên giữa
dòng họ Trịnh-Nguyễn. Cuối thế kỷ, cục diện đàng trong đàng ngoài chính thức
hình thành và kéo dài mãi từ đó đến gần hai thế kỷ sau.
Đất nước lâm nguy, vua chúa cả hai miền chỉ lo vơ
vét của cải, ăn chơi hưởng lạc, khiến nhân dân lầm than. Trong bối cảnh ấy,
không ít cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Tuy nhiên, chưa cuộc khởi nghĩa nào thắng
lợi.
Năm 1771, trên vùng Tây Sơn Thượng Đạo (An Khê, Gia
Lai ngày nay), 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ phất cờ khởi
nghĩa. Được nhân dân ủng hộ, trong vòng 12 năm, từ 1777-1789, nghĩa quân Tây
Sơn liên tiếp lập nên những chiến công hiển hách: lật đổ 2 tập đoàn phong
kiến Trịnh - Nguyễn; đánh tan 5 vạn quân Xiêm và đè bẹp 29 vạn quân Thanh Xâm
lược.
Trong suốt chặng đường chiến đấu, Nguyễn Huệ đã
không chỉ chứng tỏ mình là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc mà còn là một nhà
cầm quân tài ba. Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện
được.
Táo bạo - Đòn phủ đầu không ngờ
Một trong những điểm nổi bật trong cách dụng binh
của Nguyễn Huệ là sự kết hợp giữa tài chỉ huy quân sự và tính cách cá nhân:
táo bạo, thần tốc và vô cùng tự tin.
Trong cuộc phản kích tiêu diệt quân Xiêm (1785),
thay vì chọn khúc sông Mỹ Tho có địa hình thuận lợi cho việc phục kích như
đoạn từ Cái Bè đến Bình Chánh Đông, ông lại chọn khúc Rạch Gầm - Xoài Mút -
một khúc sông rộng và địa hình trắc trở hơn để đặt phục binh.
Còn trong cuộc tiến công từ Phú Xuân ra Thăng Long
tiêu diệt 29 vạn quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ - khi đó đã là vua Quang Trung
- chọn cách tấn công vào Thăng Long từ phía Nam. Đó là khu vực quân Thanh bố
phòng cực kỳ kỹ lưỡng. Nhưng đó cũng là hướng quân Thanh chủ quan nhất, vì
chúng đinh ninh rằng mình ít có khả năng bị tấn công, thế nên ông đã quyết
định ra đòn phủ đầu.
Đợt phản kích quân Thanh theo hướng này diễn ra rất
chóng vánh: chỉ trong vòng 6 ngày, kể từ khi xuất binh (Đêm 30 tết) đến khi
tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh trong trận Đống Đa (ngày mồng 5 tết).
Biến thần tốc thành sức mạnh
Nhưng sự táo bạo chỉ phát huy được sức mạnh của nó
nếu cuộc tấn công được triển khai nhanh chóng, thần tốc và bất ngờ.
4 năm sau trận chiến một ngày ở Rạch Gầm - Xoài Mút,
đội quân của Nguyễn Huệ lại làm nên một điển hình mẫu mực trong lần truy diệt
29 vạn quân Thanh năm 1789.
Nếu không tính đến cuộc hành quân nhanh kỳ lạ và đến
giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi của đội quân Tây Sơn từ Phú Xuân ra Bắc, thì
chỉ nguyên cuộc phản kích quân Thanh trong vòng 6 ngày Tết Kỷ Dậu 1789 cũng
đã là một bài học tuyệt vời trong kho tàng nghệ thuật quân sự.
Đêm 30 tết, quân Tây Sơn bí mật vượt sông Gián Khẩu,
tiêu diệt gọn địch ở đồn tiền tiêu và cả nhóm quân do thám. Đêm mồng 3 tết,
quân của ông bí mật vây đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Quân giặc bất ngờ,
hoảng sợ hạ khí giới đầu hàng. Mờ sáng 5 tết, trong khi cánh quân Tây Sơn do
đích thân Quang Trung chỉ huy bắt đầu tấn công đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà
Nội) thì một cánh quân Tây Sơn khác nhắm thẳng vào đồn Đống Đa (Hà Nội).
Cùng lúc với hai chiến thắng đó là hàng loạt chiến
thắng khác: chiến thắng Đại Áng, chiến thắng Đầm Mực, chiến thắng Nhân Mục,
chiến thắng Hạ Yên Quyết. Các cuộc tấn công trên đều diễn ra một cách nhanh
chóng và dồn dập đến độ quân Thanh không kịp trở tay. Chúng không còn có thời
gian để thông báo, hỗ trợ hay ứng cứu nhau.
Cách đánh bất ngờ, thần tốc này luôn là tâm điểm
trong binh pháp của ông. Đó là cách để bù đắp sự chênh lệch trước những đội
quân đông hơn mình gấp nhiều lần. Hơn thế nữa, không chỉ là người "nhạy
cảm" với thời cơ, ông còn biết cách tạo ra thời cơ để tận dụng tối đa
thế mạnh của mình.
Nắm chắc thời cơ
Cuối năm 1788, quân Thanh đưa quân vào nước ta dưới
danh nghĩa giúp nhà Lê dẹp loạn. Với sự bảo trợ của vua Lê Chiêu Thống, cánh
quân Thanh được nhiều nhân sĩ trung thành với nhà Lê ủng hộ, nhân dân Thăng
Long chưa biết nên theo ai: Tây Sơn hay vua Lê. Tình thế hoàn toàn bất lợi
cho quân Tây Sơn.
Nhận được tin Lê Chiêu Thống "mời giặc vào
nhà", Nguyễn Huệ nhanh chóng làm lễ, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là
Quang Trung. Ngay sau đó, ông tập hợp quân đội, Bắc tiến, diệt quân Thanh.
Tất cả những chuyện lên ngôi hoàng đế, triệu tập quân đội, rồi xuất binh chỉ
diễn ra trong vòng... 1 ngày.
Với một vị tướng nhiều kinh nghiệm trận mạc, hoàng
đế Quang Trung đã nhìn thấy: đây là thời cơ tốt để chinh phục lòng dân và
tiêu diệt địch.
Sau này, trên đường ra bắc, ông đã dừng lại ở Nghệ
An để lấy thêm quân và tham khảo ý kiến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp về thời cơ
và cách đánh quân Thanh. Câu trả lời của Nguyễn Thiếp khiến Nguyễn Huệ rất
ưng ý. Nguyễn Thiếp nói: "Quân Thanh đến từ xa không biết tình hình quân
ta mạnh hay yếu thế nào, không biết thế nên chiến hay nên thủ thế nào. Vả nó
có bụng khinh địch, nếu đánh gấp không quá 10 ngày sẽ phá tan; nếu trì hoãn
một chút thì khó lòng được nó". Hơn thế nữa, quân Thanh sẽ sớm lộ rõ âm mưu xâm
lược. Đó là lúc đội quân Tây Sơn sẽ có được sự ủng hộ và giúp sức của nhân
dân.
Về phía giặc, sau khi vào Thăng Long dễ dàng, quân
Tây Sơn thì đã rút mãi về tận Tam Điệp (Ninh Bình) - Biện Sơn (Thanh Hóa),
lại thêm được nhiều quan quân nhà Lê ủng hộ, càng gần Tết, quân Thanh càng
khinh đối thủ.
Tất cả những điều đó góp phần khẳng định: đó là thời
cơ tốt nhất để tận diệt quân Thanh. Cùng với việc củng cố quân đội, đốc thúc
việc hành quân nhanh chóng, ông còn lưu tâm đến việc làm kiêu binh địch,
khiến địch ngày càng chủ quan, tự mãn. Sự thất bại của quân thù chỉ còn là
vấn đề thời gian.
Anh hùng nước Nam
Lúc tuyển thêm binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã đưa lời
dụ tướng sĩ:
"Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chính luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam
quốc anh hùng tri hữu chủ"
Ông hối thúc ba quân hãy đánh sao cho quân thù không
còn mảnh giáp, đánh sao cho chúng không còn đường về, đánh sao cho chúng nhận
ra rằng nước Nam
là có chủ. Và đội quân "cốt tinh, không cốt đông" của ông tiến vào
Thăng Long đúng với khí thế ấy.
Hoàng Lê nhất thống chí miêu tả sự thất bại của quân Thanh: "Quân
Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết ..., thây
ngổn ngang đầy đồng, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại".
Những mũi tấn công sắc sảo của quân Tây Sơn luôn
giáng cho quân địch những đòn chí mạng. Bởi thế, chỉ một trận Rạch Gầm - Xoài
Mút mà quân Xiêm sau này "sợ quân Tây Sơn như sợ cọp". Còn nhà
Thanh cũng tắt luôn âm mưu xâm lược nước Nam từ trận đại bại đó.
(Theo VNN)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét