VĂN GIÁ
Nói ra bảo lạ, làm cái anh đàn ông có muốn ngắm nghía gì
thì ngắm đám đàn bà con gái chứ ai lại đi ngắm…người cùng giới. Nhưng mà với
riêng tôi, tôi thường có một niềm vui, thật bình yên và tin cậy, mỗi khi có
dịp gặp thầy Nguyễn Đình Chú, tôi hay ngồi im lặng ngắm thầy. Ngắm thầy đang
trò chuyện. Ngắm thầy cười vui. Ngắm thầy lắc đầu thất vọng. Ngắm thầy hỏi
han người khác…Thầy là người mang một gương mặt đẹp. Đẹp ở đây trước hết hiểu
theo nghĩa…đẹp giai (vào tuổi ngoại bát tuần như thầy bây giờ thì nên gọi là
đẹp lão). Thời trẻ tuổi, thầy thuộc diện đẹp giai, chắc hẳn không ít các em
mê. Đẹp còn được hiểu là một gương mặt phúc hậu nữa. Rất lạ, quan sát người
ta lúc về già, người nào càng có tấm lòng nhân hậu lớn, người đó càng có một
gương mặt đẹp. Cái đẹp ở đây thuộc về nhan sắc đã đành. Nhưng để có được nhan
sắc ấy, không phải chỉ do trời ban cho, mà còn do cái đức nhân hậu trong tâm
hồn tác động lên đường nét, thần thái, làm cho gương mặt đẹp hơn lên. Rất
nhiều lần, ngồi đối diện với thầy, tôi thường ít nói, hay đúng hơn, tôi muốn
im lặng để được nghe thầy nói và ngắm nghía. Ngắm gương mặt ấy theo cung cách
của người yêu kính, hay hơn thế, của người đáng tuổi con đang ngắm một người
thầy cỡ tuổi cha mình…
Nhớ lại cái đận những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX,
thầy vẫn còn ở bên Đồng Xa, trên tận tầng tư chót vót, chúng tôi thường hay
sang thăm thầy. Chả mấy khi thầy có nhà. Nghe bảo thầy cũng là một … “con
nghiện” tổ tôm thượng thặng. Thường thì cô hay tiếp đám học trò chúng tôi. Cô
tịnh không than phiền gì về thầy cả. Cô chỉ bảo thầy đi vắng, thế thôi. Có
lần vui chuyện hỏi thầy đã khi nào đi tổ tôm về khuya cô cho…đứng ngoài chưa?
Thầy cười hiền hậu, không trả lời vào câu hỏi, kể sang chuyện khác, chuyện
một thầy giáo cùng xóm cũng mê tổ tôm. Có lần, vào một tối nọ, thầy ấy nể vợ,
chắc là có ý muốn chuộc lỗi với vợ nên nhận bê chậu quần áo xuống vòi nước
công cộng trong xóm để giặt. Đi giặt thế quái nào đến tận khuya vẫn không
thấy về. Cô vợ và các con ở nhà lo sốt vó, bổ xuống tìm. Hỏi han các bà trong
xóm lúc đi giặt có nhìn thấy đâu không thì chả ai thấy ông ấy giặt giũ khi
nào cả. Linh tính mách bảo, cô ấy bủa lên nhà thầy Chú. Hóa ra các cụ đang
ngồi rung đùi bát sách thông tôm… quên trời quên đất. Cô ấy không thèm nói
gì, bê chậu quần áo chưa giặt quầy quả bước về, nước mắt giàn giụa…Kể đến
đây, thầy cười lất ngất, tôi nhìn thấy trên mắt thầy loáng nước. Thầy hạ một
câu: “Cái người phụ nữ ở xứ mình khổ thật đấy…”.
Tôi là học trò của thầy những năm cao học. Nhờ đấy mà
chúng tôi được học thầy, được quen thân đi lại với thầy. Sau đó lại làm
nghiên cứu sinh. Cái năm thi vào nghiên cứu sinh, hôm thi môn Lịch sử văn học
Việt Nam
chỉ có mấy người. Sáng thi. Chiều tình cờ gặp thầy ở lối vào văn phòng khoa.
Chỉ định chào thầy một câu rồi đi, ai dè thầy vẫy tay lại bảo: “Này cậu, có
mấy bài làm của các cậu đặt cạnh nhau mà thấy chênh nhau một trời một vực”.
Tôi đâm lo lo. Lòng hoang mang không biết mình là trời hay là vực đây. Mạnh
dạn hỏi thầy, thầy cười tươi bảo: “Cậu thì còn lo gì nữa. Bài của cậu khá
đấy”. Tôi cười xòa, hết lo, lại đùa tếu với thầy: “Vậy chắc bài của em là
trời thầy nhỉ”. Thầy cười thật giòn và hiền hậu xiết bao…
Học xong cao học, tôi xin được việc ở Hà Nội, một cơ quan
hào hiệp đón tôi. Phải làm thủ tục chuyển từ Bộ nọ sang Bộ kia. Đến khổ. Một
hôm, tôi mò lên Vụ tổ chức- Bộ GD, vào phòng gặp một ông trung niên nói giọng
miền trong. Nghe tôi trình bày, ông ta hất hàm bảo: “Anh đang ở địa phương,
ra Hà Nội làm gì?”. Tôi há hốc mồm, định hỏi lại thế ông từ miền trong sao
không ở trong ấy mà lại đang chễm chệ ngồi đây là cớ làm sao…Nhưng rồi tôi im
lặng không nói gì. Ông ta kiên quyết không chấp nhận đơn. Tôi ra về lòng đầy
tức giận và thất vọng, tức bởi cái cung cách hạch sách vô lý của ông ta. Trong
khi đó bên cho đi lẫn bên nhận đã đâu vào đấy cả rồi. Về phòng trọ, nằm gối
đầu lên cánh tay không ngủ được, nghĩ cách. Càng nghĩ càng bế tắc. Tiền không
có. Ô dù thì không. Chẳng quen biết ai có thế lực ở cái xứ này. Thôi, hết
nước rồi. Cái mộng ở lại Hà thành phen này dễ tan thành mây khói. Tự nhiên
sực nhớ đến thầy Chú. Lập tức vùng dậy. Có thể thầy giúp được việc này. Thầy
là người đức cao vọng trọng. Thầy lắm học trò. Nhiều học trò của thầy làm
quan to trên Bộ. Hoặc là bạn bè của thầy không thiếu, có ông chức tước cao
chất ngất…Hôm sau, lòng phấp phỏng sang thưa chuyện với thầy. Thầy bảo đã có
chỗ nhận rồi mà không về được kể cũng phí nhỉ…Một lúc sau thầy bảo cái ông
trên Bộ phụ trách khoản này ngay cạnh nhà tớ chứ đâu xa, để tớ nói cho một
tiếng xem “nghỉ” có giúp được không, chắc là được, chả lẽ “nghỉ” lại không
giúp tớ…Nghe mà mở hội trong lòng. Vâng, thầy cố giúp em, đây là cơ hội ngàn
vàng, em chưa vợ con gì, chỉ có một thân một mình thôi, nếu mà được ở lại đây
em cố gắng phấn đấu khỏi mang tiếng thầy…Đại loại vậy. Đúng hẹn, ba ngày sau
tôi sang, thầy bảo tớ với cậu sang bên nhà ông ấy có lời cảm ơn một câu.
Trời, tôi bất ngờ quá, bảo thế thì thầy chờ em xuống mua ít trái cây, chả lẽ
lại đến tay không ư? Thầy bảo không cần, miễn là có lời với người ta cho nó
có trước sau là được rồi. Tôi nghe thầy, cùng thầy sang. Tôi khép nép ngồi
bên thầy, chả biết ăn nói thế nào. Vị quan chức hào hiệp ấy hỏi han tôi đôi
câu rồi động viên công tác hãy cố gắng cố gắng…Ôi chao, cái thời ấy nó thế,
vô tư thế. Hay nói đúng hơn, cái uy của thầy lớn thế, đi vào chỗ quan chức Bộ
cứ như đi vào chỗ không người, chẳng phải phong bao phong bì túi to túi nhỏ
cửa trước cửa sau gì…Sao mà vẫn có người quý giá thế!
Thế là tôi ở lại Hà Nội. Năm năm tháng tháng, thỉnh thoảng
sang thăm thầy, thỉnh thoảng được gặp thầy chỗ nọ chỗ kia, thỉnh thoảng lại
đọc thầy. Lạ thế, khoảng mươi năm nay ngòi bút thầy cứ như thể được …hồi
xuân, viết liên tục, đăng đàn liên lục, hội thảo hội nghị nọ kia liên tục.
Ngòi bút Nguyễn Đình Chú vẫn rất học thuật mà lại rất tươi mới. Văn viết thâm
hậu mà lại linh hoạt, trẻ trung.
Tôi để ý mấy năm trở lại đây, ngoài công việc nghiên cứu
văn học sử và giảng dạy như thường lệ, thầy hay tập trung vào mấy chuyện: thứ
nhất, thầy nhìn lại một số gương mặt trí thức thời trước mà cho tới hiện giờ
vẫn còn bị ít nhiều định kiến hoặc cuộc đời của họ bị nhiều thứ thiệt thòi;
thứ hai, thầy quan tâm tới vấn đề văn hóa đương đại của dân tộc trong mối
quan hệ với văn hóa truyền thống và nhân loại. Ở loại công việc thứ nhất, tôi
thấy thầy viết bài về các học giả Phạm Quỳnh, Trần Đức Thảo, Hoài Thanh,
Nguyễn Đức Vân…Thầy đề xuất việc cần phải đánh giá lại Trương Vĩnh Ký, Nguyễn
Văn Vĩnh. Tôi đặc biệt khâm phục sự trung thực trong nhân cách khoa học ở
thầy. Cách đây gần 10 năm, khi viết về học giả Phạm Quỳnh, thầy có nói công
khai cái ý rằng trước kia, cũng theo cái trào lưu chung, bị cái nhãn quan giai
cấp luận nó chi phối mà thầy đã phê phán cụ Phạm Quỳnh hăng hái quá mức, bây
giờ nghĩ lại thấy có phần day dứt (Xem bài Thượng Chi bàn về tiểu thuyết của
GS Nguyễn Đình Chú). Tôi nghĩ, ở cái tuổi như thầy, với uy tín như thầy, nếu
không nói ra những điều ấy, chắc cũng chẳng mấy ai biết, nhất là từ thế hệ
chúng tôi trở đi. Nhưng bằng sự trung thực, và cả lòng dũng cảm nữa, thầy đã
nhận lỗi về mình một cách đàng hoàng. Chẳng sao! Nhận thức là một quá trình.
Con người có quyền sai. Điều quan trọng là dám nhận và biết sửa. Đó là một
thái độ đáng kính trọng. Không phải vị nào cũng có được cách ứng xử đẹp đẽ
này. Nhìn lại thế hệ thầy và sau thầy một chút, có những người trước đây nói
sai, viết sai, đến giờ không khi nào tự mình nhắc lại và thừa nhận. Có người lại
bất nhất, trước nói thế này, sau nói thế khác, và làm cứ như là mình không
bao giờ sai, cũ; rằng cái sai, cũ thuộc về người khác, mình vô can, mình
thuộc loại người thức thời, đổi mới…GS Nguyễn Đình Chú không thế. Thầy đã
tiến gần tới sự đạt đạo.
Với loại công việc thứ hai, thầy là người suy tư nhiều tới
vấn đề văn hóa. Đặt ra vấn đề sự áp đảo của văn minh văn hóa phương Tây đối
với phương Đông từ những năm 90 của thế kỷ trước (xem bài Sự áp đảo của
phương Tây đối với phương Đông trên phương diện văn hóa tinh thần truyền
thống) cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự của nó. Hoặc khi bàn về Nho
giáo và vấn đề nghiên cứu, học tập Nho giáo ở nước ta trong những năm qua và
hôm nay, GS Nguyễn Đình Chú đã chỉ ra những hạn chế đã mắc phải và đề xuất
phải thay đổi cách tiếp cận: từ chỗ chỉ biết đến giai cấp luận, hình thái xã
hội luận cần chuyển sang văn minh luận, văn hóa luận, nhân tính luận (xem bài
Nho giáo với hôm nay). Đây là một đề xuất thật sắc sảo và hết sức quan trọng
đối với giới nghiên cứu Nho giáo nói chung và các nhà hoạch định chính sách
quốc gia nói riêng. Ở nhiều bài viết khác, với nhiều vấn đề khác, từ các
trường hợp cụ thể cho tới các vấn đề tổng quát, GS Nguyễn Đình Chú vẫn thật
sắc sảo, chí lý chí tình. Lắm lúc nghĩ thầm: Ông giời cho thầy mình đến tuổi
này vẫn sáng láng mẫn tiệp như thế thật là mừng, và thầy xứng đáng được ân
hưởng như vậy. Lại nghĩ, đến lượt mình, chỉ mong sao được một phần như thầy
mình, nghĩa là ngoại 70 một tẹo cũng đã là quý lắm. Mình là loại “Hơn nửa đời
hư”, nếu giời có phạt cũng chẳng lấy làm ân hận…
Thầy Nguyễn Đình Chú ngoài tư cách là một giáo sư Đại học,
đào tạo nhiều thế hệ học trò, trong đó có không ít gương mặt thành danh, thầy
còn là một học giả uyên bác. Suốt hơn 50 năm dấn thân vào con đường nghiên
cứu, thầy để lại nhiều công trình với nhiều mức độ đóng góp khác nhau. Tuy
nhiên thầy là người chí lười thu gom các tiểu luận, công trình lớn nhỏ để
dựng tập. Ở Khoa văn Sư phạm có những người thầy như thế. GS Nguyễn Hoành
Khung cũng lười không kém. Mặc dù trước tác của các thầy khá đầy đặn, nhưng
các thầy cứ … “để gió cuốn đi”. Bảo là lười cũng không oan. Nhưng hình như
còn có điều này: các thầy cũng là người không tha thiết lắm cái chuyện dựng
bia tạc tượng cho mình thì phải… Gần đây, nghe nói có mấy đệ ruột của các
thầy đang bỏ công sức ra sưu tầm, tuyển chọn để làm tuyển tập cho các thầy.
Nghe đâu công trình tuyển tập của GS Nguyễn Đình Chú đã lên tới độ dày hơn
4000 trang chưa hết. Khiếp thế!
Trong Nho giáo có câu: “Hối nhân bất quyện”, nghĩa là dạy
người không biết mệt mỏi nhằm tôn vinh cho những người thầy suốt đời làm nghề
dạy học mẫu mực. Thầy Nguyễn Đình Chú trong tư cách là một nhà giáo thật xứng
đáng với danh ngôn ấy. Cho đến tận bây giờ, thầy vẫn dạy chuyên đề cho các
lớp cao học, nghiên cứu sinh, rồi nhận lời hướng dẫn cho các học viên của
những lớp đó. Riêng trong tư cách là một nhà nghiên cứu văn học, Nguyễn Đình
Chú là một học giả thông kim bác cổ, Hán học thông thạo, Pháp văn làu làu.
Thày và những người thuộc trang lứa với thầy được coi là một thế hệ vàng
trong nền học thuật văn học nước nhà. Những mẫu người theo kiểu như thế ngày
một hiếm hoi.
Có hôm nhìn thấy thầy vẫn ngồi trên cái xe máy Charly
phóng ve vé trên đường ngàn ngạt những ô tô xe máy khác, tôi cứ lắc đầu lè
lưỡi về thầy. Khiếp quá, ngộ nhỡ…Thôi thầy ạ, bây giờ có đến nỗi khổ như
trước nữa đâu mà thầy tiết kiệm thế, đi đâu thầy cứ Taxi mà đi cho nó sướng
cái thân không hả thầy? Thầy lại tủm tỉm cười cười: “Mình thấy còn sức mình
mới đi chứ. Với lại Taxi nó không được chủ động. Đi xe máy cũng có cái thú
của nó…”. Giời ạ. Con xin vái cụ ba vái. Đến chúng con cũng đã đến lúc ngán
đi xe máy rồi cụ ạ. Nhưng lại nghĩ, vâng, nếu mà vẫn cảm thấy đi xe máy có
cái sướng hơn ô tô thật thì cụ cứ việc đi. Chứ đến ngoại 80 rồi thì cũng
chẳng nên phải bỏ đi cái khoái thú riêng nào thầy nhỉ. Những mong thầy vui
sống, vui viết, và vui… xe máy đều đều.
Mấy thầy trong tổ Văn học Việt Nam 2 bên khoa Ngữ văn - ĐH
Sư phạm Hà Nội là chúa hay đùa, thỉnh thoảng tán chuyện lại trêu chòng thầy
Chú: “Người đâu mà cứ…đẹp giai mãi”. Cái câu đùa này đã có dễ đến mấy chục
năm rồi, tuyệt nhiên không để nói về ai, chỉ dành riêng cho thầy Chú. Sướng
thế!...
Hà Nội, Tết Độc lập 2010
VG
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét