Ba năm trước khi miền Hà Nội được vua Lê Thái Tổ
ban tên đẹp “Đông Kinh”, danh tướng Lam Sơn khởi nghĩa, công thần triều
Lê sơ: Nguyễn Xí, thật ra, đã chính thức là “người Đông Kinh” rồi. Ấy
là khi ông đem cả cuộc sống của mình lần đầu tiên đặt cược vào và gắn
bó với sứ mạng giải phóng đất và người nơi đây, vừa khỏi ách chiếm đóng
của giặc Minh, vừa khỏi mang cái tên Đông Quan do chúng áp đặt, bằng
một trận đánh tử sinh, quyết liệt.
Bấy giờ là tháng ba năm Đinh Mùi (1427). Chiến dịch
bao vây, tiến công và giải phóng Đông Quan của nghĩa quân Lam Sơn đã
bước sang giai đoạn thứ ba, với những diễn biến, giằng co giữa ta và
địch hết sức phức tạp. Ngày 4/4/1427, chủ tướng của giặc Minh là Vương
Thông, thân dẫn một đạo binh tinh nhuệ, từ trong toà thành Đông Quan
đang bị quân ta bao vây, nống ra tập kích vào doanh trại Tây Phù Liệt
(Ngũ Hiệp - Thanh Trì) của nghĩa quân Lam Sơn trên vành đai bao vây
phía nam. Tướng Nguyễn Xí cùng tướng Đinh Lễ, được lệnh dẫn hơn 500
quân Thiết Đột, kéo nhanh đến tiếp ứng. Vương Thông đang chưa đánh nổi
Tây Phù Liệt, thấy bên ta có viện binh, vội thu quân chạy lộn về thành.
Đang đà đánh hăng, Nguyễn Xí và Đinh Lễ lập tức thúc voi trận, dẫn đầu
nghĩa quân, đuổi theo. Đến địa phận Mi Động (nay là phường Mai Động,
quận Hai Bà Trưng, khoảng chỗ bây giờ vẫn còn địa danh: Đống Cầu Voi),
kẻ địch thấy nhóm quân truy sát của ta quả là chỉ có thưa ít người, bèn
quay lại, dùng số đông áp đảo, vây đánh. Trận chiến không cân sức diễn
ra ngay trên cánh đồng lầy. Voi trận xoay sở giữa bùn nước rất khó
khăn, lại thêm quân địch bắn tên, phóng giáo như mưa, cả Nguyễn Xí lẫn
Đinh Lễ đều bị rơi khỏi bành voi. Giặc ùa ngay tới, bắt sống.
Sau đó, tin dữ báo về quân doanh Bồ Đề (Gia Lâm)
của chủ tướng nghĩa quân Lam Sơn, Bình Định vương Lê Lợi: tướng Đinh Lễ
đã bị giặc Minh sát hại. Còn tướng Nguyễn Xí thì không rõ số phận ra
sao... Liền đấy, mấy đêm ròng, trời đổ mưa tầm tã. Giữa một đêm mưa to
gió lớn như thế, bỗng lại có tin: tướng Nguyễn Xí đã trở về đến quân
doanh. Thì ra, bị giặc giam trong ngục kín, Nguyễn Xí đã thừa lúc gió
mưa tối trời trốn thoát. Bình Định vương Lê Lợi cả mừng, vừa vỗ án, vừa
thốt lên những lời tự đáy lòng: “Sống lại! Thật là sống lại!”
Từ buổi “sống lại” ấy, vị tướng đã một lần sống
chết gắn bó với thành đô Đông Kinh ấy, còn tiếp tục lập công đánh giặc
- đặc biệt là ở trận Xương Giang (Bắc Giang), sát cánh cùng các tướng
Lê Sát, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chú với lực lượng 3.000 quân Thiết Đột cùng
4 thớt voi dưới cờ, kết thúc vẻ vang chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang
vào cuối năm 1427 - quét sạch giặc Minh xâm lược khỏi bờ cõi.
Mùa xuân Mậu Thân (1428) đại thắng, Lê Lợi lên ngôi
Thuận Thiên hoàng đế. Theo vua Thái Tổ nhà Lê tiến nhập kinh đô giải
phóng, tướng Nguyễn Xí một lúc được nhận: “quốc tính họ Lê, danh hiệu
“Khai quốc công thần”, đồng thời: chính thức sống và làm quan ở giữa đô
thành Đông Kinh, với chức vị Long hổ thượng tướng quân.
Năm năm sau, Lê Thái Tổ băng hà. Cùng với quan Đại
tư đồ Lê Sát - đứng đầu nhóm đại thần nhận ủy thác phò tá thái tử Lê
Nguyên Long khi ấy 11 tuổi lên ngôi - Nguyễn Xí trở thành phụ nhiếp
chính triều đình, và từ năm 1437 làm quan Tham tri chính sự của vua trẻ
Thái Tông nhà Lê ở Đông Kinh. Trong cuộc khủng hoảng triều chính những
năm cuối thời Lê Thái Tông, các đại thần tranh giành, hãm hại lẫn nhau,
Nguyễn Xí may mắn được yên lành, nên khi vua Thái Tông mất bất đắc kỳ
tử năm 1442 ở “Vụ án Lệ Chi Viên”, để lại ngai vàng cho hoàng thái tử
Lê Bang Cơ mới chưa đầy 2 tuổi, thì người được nhận di chiếu, ủy thác
việc phò ấu chúa kế vị ngôi vua - trở thành hoàng đế Lê Nhân Tông -
chính là Nguyễn Xí, cùng với Thiếu bảo, Tham tri chính sự Trịnh Khả,
Nhập nội Đại đô đốc Đinh Liệt...
Nhưng đến những rối loạn cung đình, tiếp tục ở thời Lê Nhân Tông, thì
Nguyễn Xí không tránh được liên lụy nữa. Sách Khâm định Việt sử thông
giám cương mục chép việc năm 1445: “Nhà vua còn nhỏ tuổi, hoàng thái
hậu coi giữ triều chính, cất nhắc những người thân thích họ hàng lên
làm việc. Vì thấy Lê (Nguyễn) Xí không ăn cánh với mình, nên ghét bỏ
ông. Bấy giờ có việc đi đánh Chiêm Thành. Xí đã vâng lĩnh mệnh lệnh,
nhưng chưa đi, bị kẻ quyền thần tố cáo, buộc vào tội chết”. Rất may là
ngay khi ấy: “Triều đình cho rằng Xí là bậc kỳ cựu, có công lao, nên
chiếu cố theo bát nghị trong luật lệ”. Vì thế, Nguyễn Xí đã chỉ bị cách
chức Nhập nội Đô đốc (hàm chánh nhị phẩm) đuổi về quê quán Thượng Xá -
Chân Phúc (nay là Nghi Hợp - Nghi Lộc - Nghệ An), tạm mất quyền làm
“người Đông Kinh” trong 3 năm.
Đến 1448, tình hình triều chính dần dần ổn định hơn,
mà các bậc công, cựu đại thần thì cũng ngày càng thưa vắng, cho nên,
giữa cung đình Đông Kinh, lại thấy Nguyễn Xí xuất hiện. Và còn với cả
tư thế đĩnh đạc hơn trước: được dự vào hàng “Tam Thiếu”, phụ trách
chính quyền cấp cao, với chức vụ: Thiếu bảo, Tri quân dân sự (hàm tòng
nhất phẩm).
Trải tiếp mười năm phục vụ triều vua Lê Nhân Tông ở
kinh đô, Nguyễn Xí đã được vinh thăng tới chức Thái bảo, dự vào hàng
“Tam Thái” (hàm chánh nhất phẩm), thì bất ngờ xảy ra vụ “đảo chính cung
đình” trọng đại: Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết em trai 19 tuổi -
chính là hoàng đế Lê Nhân Tông - để cướp ngôi.
Sự biến xảy ra vào một đêm tháng mười năm Kỷ Mão
(1459). Từ đấy cho đến tháng sáu năm Canh Thìn (1460) là 8 tháng tang
tóc và bi thương của triều đình Đông Kinh. Ngụy vương và loạn thần thì
đắc chí, còn các trung thần nghĩa sĩ thì náu mình, ẩn nhẫn, lo và chờ
dịp khôi phục quốc thống. Thái bảo Nguyễn Xí ở trong số đó. Ông xin nghỉ việc
quan, lấy cớ già lão đau mắt đến mù, ở yên trong dinh. Nhưng bọn phản
thần không lấy thế làm yên, ra sức rình mò, kiểm soát, khiến bậc tôi
trung phải rất vất vả đối phó.
Sự tích dòng họ Nguyễn ở Nghi Hợp (Nghi
Lộc - Nghệ An) kể rằng: Có lần bọn phản tặc đã dùng đến cách vô cùng
độc ác để thử xem có phải Nguyễn Xí mù thật hay không. Chúng chờ lúc vị
lão thần sắp bước chân qua bậc cửa, thì lén đem đặt đứa con nhỏ - chưa
đầy một tuổi - của ông ngay dưới thềm. Nguyễn Xí biết rõ, nhưng đành
cắn răng dẫm chết con, để chúng tin chắc là mình thật sự bị mù!
Nhờ giỏi ngụy trang như thế, mà Nguyễn Xí trở thành
được người đứng đầu nhóm trung thần nghĩa sĩ, cẩn trọng bí mật soạn sửa
cuộc “phản đảo chính” diệt trừ kẻ tiếm ngôi Lê Nghi Dân và bè lũ vây
cánh, đứng đầu là các tên Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng... Và thời cơ
đã đến: “Ngày 6 tháng sáu (năm 1460) - Khâm định Việt sử thông giám
cương mục chép: - các đại thần là Thái bảo Lê (Nguyễn) Xí và Lê (Đinh)
Liệt, Nhập nội Kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự Lê Lăng, Nhập
nội Đại hành khiển Lê Vĩnh Trường, Xa kỵ vệ đồng Tổng tri Lê Niệm, Ngự tiền
hậu quân Tổng tri Lê Nhân Thuận, bàn định với nhau rằng: “Lạng Sơn
vương Nghi Dân câu kết với tên Đồn, tên Ban, dám làm việc giết vua cướp
ngôi, tức là hạng ác nghịch nhất nước. Chúng ta, mang danh nghĩa là
những bầy tôi có công lao với kẻ giết vua cướp ngôi, thì còn mặt mũi
nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng được nữa”. Sau khi ở trong
triều lui ra, các đại thần đều ngồi cả tại nhà Nghị sự. Bọn Lê (Nguyễn)
Xí đứng đầu, xướng xuất việc nghĩa, trước hết giết tên Đồn, tên Ban ở
ngay trước nhà Nghị sự, sau đóng các cửa thành lại, rồi sai bọn Nhân
Thuận thống lĩnh cấm binh, bắt đảng phản nghịch là lũ Trần Lăng hơn một
trăm người, đều giết hết. Các đại thần định nghị: truất Nghi Dân làm Lệ
Đắc hầu, bắt phải thắt cổ tự tử”.
Sau đó thì đến việc lập lại trật tự triều chính.
Vẫn có Nguyễn Xí là người đứng đầu, các đại thần đã tìm được hoàng tử
Lê Tư Thành trong hoàng tộc nhà Lê và quyết định đưa lên ngôi. Ngày thứ
ba - tính từ hôm nổ ra cuộc diệt trừ nghịch đảng - mồng 8 tháng sáu
(1460), Lê Tư Thành được làm lễ đăng quang ở điện Tường Quang trong
hoàng thành Đông Kinh, chính thức ban bố niên hiệu: Quang Thuận - niên
hiệu sẽ còn được dùng trong 10 năm đầu của đại cuộc trị vì 38 năm, với
nhiều thành công, của vị hoàng đế tài danh: Lê Thánh Tông.
Dễ hiểu vì sao, sau đấy và từ đấy, Nguyễn Xí được
hoàng đế Lê Thánh Tông hết sức nể vì, tưởng thưởng. Trong tháng sáu năm
1460, từ vị trí là Thái bảo, Nguyễn Xí đã được lên hàng Thái phó đứng
thứ hai trong “Tam Thái”, kèm hai chữ tin cẩn: “Nhập nội” và giữ chức
Bình chương quân quốc trọng sự (tức Tể tướng), với tước phong Á quận
hầu. Đến tháng Mười năm ấy chính thức luận công khen thưởng, tước hiệu
của Nguyễn Xí đã được vinh thăng thành Quỳ Quận công (tức: Quận công
phủ Quỳ Châu). Ngự chế của nhà vua ban cho Nguyễn Xí, dệt gấm thêu hoa
chẳng những công lao mà còn cả tính cách người lập công: “Xướng đại
nghĩa để trừ kẻ hung tàn, ngươi đã có công như công yên được nhà Hán;
lấy ngôi thượng công mà ban phong thưởng ngươi đáng được cái vinh dự
cắt đất phân phong... Giữ mình có đạo, hồn nhiên như viên ngọc không lộ
sáng; nghiêm sắc mặt ở triều, lẫm liệt như thanh kiếm mới tuốt... Lúc
nước có biến phi thường, chỉ mình ngươi lo cứu vãn. Ngươi thực là bề
tôi trung ái của ta...”.
Được thừa nhận là “bề tôi trung ái”, không chỉ của
Lê Thánh Tông, mà còn trải liền bốn đời hoàng đế triều đại Lê sơ: từ
Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông đến Thánh Tông, trong vòng hơn 30 năm làm
người Đông Kinh, như Nguyễn Xí, quả là không dễ dàng. Những danh thần
cũng từng là “bề tôi trung ái” và “bằng vai phải lứa” với Nguyễn Xí,
thì chẳng hạn như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chú... ngay
từ đời Thái Tổ đã phải “ngậm cười nơi chín suối”. Các Đại tư đồ, Đại đô
đốc như Lê Sát, Lê Ngân cũng đã mất mạng trong đời Thái Tông. Đến như
thiên tài Nguyễn Trãi mà cũng bị nạn “tru di tam tộc” trong buổi giao
thời Thái Tông - Nhân Tông. Và chỉ mới đây thôi, không khéo trong việc
mưu đồ trừ diệt phe cánh Lê Nghi Dân, nhóm các đại thần Đỗ Bí, Lê Ê, Lê
Ngang, Lê Thụ, cũng đã bị sát hại!
Càng không còn mấy ai nữa, từng cùng thời với
Nguyễn Xí, từ thuở “nằm gai nếm mật”, “vào sinh ra tử” trong suốt 10
năm đương đầu với lũ quan quân nhà Minh “nướng dân đen trên ngọn lửa
hung tàn, vùi con đỏ xuống hầm tai vạ” hết lâm cảnh: “Linh Sơn lương
cạn mấy tuần, Khôi Huyện quân không một lữ”, lại xông pha: “Trận Bồ
Đằng sấm vang chớp giật, miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”, đặc biệt là
những dũng tướng đã cùng Nguyễn Xí đánh trận: “Ninh Kiều máu chảy thành
sông, Tốt Động thây phơi đầy nội”...
Vì thế ở vào tuổi 68, vinh hoa phú quý đã đến tột
đỉnh ở giữa đô thành Đông Kinh, với chức vụ Hữu tướng quốc. Khi lâm
bệnh nặng vào năm Giáp Thân (1464), Nguyễn Xí chắc cũng đã tự biết
thanh thản phận mình, nhất là lại còn được cả lời hạ cố dỗ dành chí tâm
chí tình của hoàng đế Thánh Tông: “Công ngươi trẫm chưa chút báo, bệnh
ngươi sao lại liên miên? Ngươi nghĩ đến nước, thì hãy cơm cháo cố mà
điều dưỡng. Ngươi lo đến trẫm, thì hãy thuốc men, dù tê đắng cũng gắng
mà uống...”
Vì thế tháng mười mùa Đông năm Ất Dậu (1465) thọ 69
tuổi, Nguyễn Xí thung dung nhắm mắt lìa đời, giữa cảnh: “Nhà vua (Lê
Thánh Tông) thương xót mãi, truy tặng chức Thái sư, đặt cho tên thụy
(tên đẹp) là Nghĩa Vũ sau được gia phong tước Cương Quốc công”.
Theo Lê Văn Lan / Danh nhân Hà Nội
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét