Dượng Bá đã ra đi
Mấy ngày áp Tết Giáp Ngọ, từ Hà Nội tôi gọi điện vào thành
phố Hồ Chí Minh thăm hỏi chúc Tết ông, nhưng máy không liên lạc được. Vẫn biết,
nhiều năm nay ông bị bệnh hen suyễn, nhưng tôi không nghĩ là ông bị mệt nặng.
Cách đây khoảng 20 ngày, ông còn gọi điện trao đổi với tôi khá nhiều chuyện.
Tiếng nói của ông còn vang ấm, đĩnh đạc. Đặc biệt là, ông còn rất tinh tường,
minh mẫn khi đàm đạo thế thái nhân tình, khi nói về quê hương, họ mạc. Tôi kể
ông nghe chuyện quê nhà, về lầu bia và tháp chuông là hai công trình mới được
cung tiến xây dựng ở Nhà thờ Đại tôn. Nghe xong, ông mừng lắm. Ông nói sức khỏe
của ông có khá hơn hồi tôi vào thăm, ngày 8/6/2013.
Mồng Một Tết, con trai út của ông là Đại tá công an
Nguyễn Đình Thi gọi điện chúc Tết tôi. Tôi hỏi lại mới biết là mấy ngày qua ông
bị lên cơn hen, khó thở, không nghe điện thoại được nữa. Khoảng hơn 9 giờ
sáng Mồng Hai Tết, đang trên đường đi chúc Tết mấy gia đình thân thiết ở Hà
Nội, thì điện thoại di động reo, nhìn vào màn hình thấy hiện lên chữ Thi
Bá, tôi thấp thỏm giật mình. Nguyễn Đình Thi nghẹn ngào báo hung tin: “
Anh ơi! Bố em đi rồi. Đi lúc 8 giờ 20 phút sáng nay. Tại Bệnh viện Chợ Rẫy”.
Dẫu đã lường trước, nhưng khi nghe Thi nói, tôi không khỏi bàng hoàng. Trào lên
trong lòng tôi niềm thương tiếc ông.
Đại tá Nguyễn Đình Bá sinh
năm 1930, tại xã Nghi Quang, nhưng hồi chống Pháp đi
bộ đội lấy vợ và ở rể tại làng Đại Xá, xã Nghi Hợp quê tôi. Ba xã : Nghi Quang,
Nghi Hợp và Nghi Xá vốn là một xã Xá Lĩnh thuộc huyện Nghi Lộc (Nghệ An)
tách ra từ năm 1954. Gia đình ông ở lại trên đất làng tôi mấy chục năm trời, từ
cuối chống Pháp đến hết chống Mỹ. Bốn người con của ông bà đều sinh ra ở làng
Đại Xá. Bởi thế, nói là quê ngoại nhưng ba chú: Nguyễn Đình Long, Nguyễn Đình
Chung, Nguyễn ĐìnhThi và cô Nguyễn Thị Dung đều coi đây đích thị là quê hương,
là nơi chôn rau cắt rốn, vườn ươm đầu đời với biết bao kỷ niệm.
Tôi bà con hai đầu với ông. Ông và tôi
đều là hậu duệ Đại chi 14, Đại tôn
Nguyễn Đình - Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí . Cụ tổ chúng tôi là Nghiêm dũng vệ tiền
sở quản lĩnh Nguyễn Nhân Thực, con trai
thứ 14 của Thủy tổ Nguyến Xí. Tính từ Thủy tổ, ông
là cháu đời thứ 17, tôi là cháu đời
thứ 18. Đúng ra tôi phải gọi ông bằng bác. Nhưng mặt khác, tôi lại gọi ông bằng
dượng. Vì ông là chồng bà Lê Thị Yêm, bà cô trong họ. Ở quê tôi, chồng cô là
dượng.
Cũng như những
người chắt ruột của cụ (cố) Bát Lê và người trong họ Lê Văn, bạn bè cùng trang lứa làng Đại Xá chúng tôi cũng đều gọi ông bằng dượng một cách kính quí. Với tôi, hầu như ông còn dành cho sự thân thiết hơn. Trong mắt tôi, ông là người tầm thước, chắc
nịch, khỏe mạnh, da dẻ trắng hồng, gương mặt đẹp, ánh mắt sáng, giọng nói rõ
ràng, đĩnh đạc, nụ cười hồn hậu. Ông là
người hiểu biết, thông minh, nhân nghĩa,
tính cách bộc trực, thẳng thắn, chân
thành, thái độ yêu ghét rõ ràng. Từ
thuở ấy đến tận bây giờ, cảm nghĩ của tôi về ông là nguyên vẹn.
Những năm đầu 60 của thế kỷ trước, ông là sĩ quan cấp úy, đóng quân ở
thành phố Vinh. Cứ mỗi lần về quê, ông thường xách súng thể thao đi bắn cò, bắn
chim ở các cánh đồng làng và quanh hồ Đập Xã,
Đập Họ. Là đứa trẻ hiếu kỳ, lanh lẹn, đang học cấp I
rồi cấp II, tôi thường được ông rủ đi bắn chim cùng. Ông
hướng dẫn tôi việc tiếp cận mục tiêu và cách ngắm bắn. Thông thường
thì tôi chỉ đi theo để nhặt và xách chim. Thi thoảng ông cho bắn thử được vài
con chim, tôi thích lắm. Có lần ông lái xe mô tô ba bánh về làng, bọn trẻ chúng
tôi trố mắt trầm trồ, thán
phục.
Có thể nói,
khi đến tuổi trưởng thành, vào bộ đội,
đi chiến đấu và phấn
đấu suốt mấy chục năm đằng đẵng trong cuộc đời quân ngũ, tôi được nhiều người
chỉ bảo, có nhiều mẫu người làm gương. Trong đó, ông
Nguyễn Đình Bá là người tôi kính
trọng ngay từ thuở thiếu
thời.
Khi tôi đang chiến đấu ở chiến trường Miền Nam, thì ông
Nguyễn Đình Bá là cán bộ tham mưu rồi cán bộ chỉ huy ở Bộ Chi huy Công an vũ
trang tỉnh Nghệ An. Sau này, tôi được biết, năm 1969, trên cương vị là Chỉ huy
trưởng Chiến dịch K5 ông đã chỉ huy lãnh đạo các đơn vị Công an vũ trang tỉnh
Nghệ An chiến đấu giành thắng lợi to lớn trên đất bạn Lào.
Chuyện kể rằng, năm 1968, tuyến biên giới miền tây
Nghệ An tiếp giáp với tỉnh Xiêng Khoảng và huyện Mường Mày tỉnh Bolykhămxay của
Lào là địa bàn liên tục nóng bỏng. Quân Vàng Pao và phái hữu chiếm đóng 3 vị
trí Mường Chuồn, Phà Cạt và Phà Hom ở phía Nam đường 7. Từ các vị trí đó, quân
địch tăng cường các hoạt động biệt kích, xâm nhập biên giới ta, kích động, lôi
kéo, ly gián đồng bào chống phá cách mạng. Trước tình hình trên, Ban Bí thư TW
Đảng và Hội đồng Chính phủ đồng ý với đề nghị của Tỉnh ủy Nghệ An và Bộ Tư lệnh
Công an Vũ trang quyết định mở chiến dịch tiêu diệt phỉ Vàng Pao, với tên gọi
là “Chiến dịch K5”. Ông Nguyến Đình Bá được cấp trên bổ nhiệm làm Chỉ huy
trưởng Chiến dịch.
Ngày 18/1/1969, quân ta bất ngờ tấn công Phà Hom, tiêu
diệt 59 tên địch, thu 1 khẩu ĐKZ, 1cối 60 ly, 30 khẩu súng các loại. Tiếp đến,
ngày 10/2/1969, quân ta tập kích đồn Phà Cạt, tiêu diệt 5 tên phỉ, 18 tên ra
hàng, ta thu 15 khẩu súng. Trong toàn bộ Chiến dịch K5, ông đã chi huy đơn vị
chiến đấu hàng chục trận, tiêu diệt 327 tên địch, bắt sống 62 tên, thu nhiều vũ
khí, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh và cơ sở vật chất kỹ thuật của địch.
Thắng lợi to lớn của Chiến dịch K5 đã mở ra cục diện mới. Qua đây, góp phần
giáo dục truyền thống yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản cho bộ đội, góp phần
vun đắp tình đoàn kết chiến đấu Việt - Lào. Trong chiến công chung, ông Nguyễn
Đình Bá trên cương vị chỉ huy là người có công lớn, chưa nói là công đầu. Sau
này, là chỗ quen thân, có lần tôi nói với anh Võ Trọng Việt, UVTWĐ, Trung
tướng, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng rằng: Bằng thành tích chiến đấu trong Chiến
dịch K5, ông Nguyễn Đình Bá xứng đáng được xét tuyên dương Anh hùng LLVTND
trong kháng chiến chống Mỹ.
Sau ngày thống nhất đất nước, ông Nguyễn Đình Bá được cấp
trên điều động vào giữ chức Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Kiên
Giang. Thời kỳ này, bọn phản động Pôn Pốt- IengSary liên tục xua quân đánh
chiếm lãnh thổ, tàn sát nhân dân ta ở dọc vùng biên. Kiên Giang là một trọng
điểm đánh phá dã man của bọn diệt chủng. Trên cương vị là Tỉnh ủy viên, Chỉ huy
trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh, ông đã cùng tập thể cấp ủy và Bộ Chỉ huy, chỉ
huy đơn vị chiến đấu kiên cường, lập nhiều chiến công trên tuyến biên giới, ven
biển và hải đảo vùng tây nam Tổ quốc.
Ông Nguyễn Đình Bá để lại dấu ấn tốt đẹp trên mảnh đất
Kiên Giang anh hùng. Tôi được biết, ông là tác giả đề án, là người đầu tiên đề
xuất lên cấp trên thành lập huyện đảo Kiên Hải thuộc tỉnh Kiên Giang. Có thể
khẳng định, đây là một đề xuất tầm cỡ chiến lược, có ý nghĩa nền tảng, cơ bản,
cấp thiết và lâu dài trên mọi phương diện: quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã
hội. Bộ đội và bà con Kiên Giang luôn dành cho ông tình cảm quí mến.
Biết tôi là người bà con với ông Nguyễn Đình Bá, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng mỗi lần gặp tôi đều hỏi thăm về ông. Qua nhiều lần
chuyện trò với tôi, bao giờ anh Ba Dũng cũng đều biểu thị sự kính trọng ông
Nguyễn Đình Bá. Hỏi ra tôi mới biết, thời kỳ ông Bá hoạt động ở Kiên Giang, thì
anh Ba Dũng là Trưởng ban cán bộ Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, rồi tăng cường cho cơ
sở làm Chủ tịch huyện sau đó là Bí thư huyện ủy. Trong nhiều lần trò chuyện với
tôi, ông Nguyễn Đình Bá luôn khen anh Ba Dũng là người thông minh, sắc sảo,
quyết đoán, có trí nhớ rất tốt và sống tình nghĩa. Suốt nhiều năm qua, rất
nhiều lần anh Ba Dũng đến thăm người thủ trưởng cũ của mình. Khi bận công
chuyện không đến được thì anh Ba Dũng gửi quà - nhất là khi ông Bá bị ốm đau và
trong dịp Tết Nguyên đán. Trưa nay ( 4/2/2014) có người bạn thân của tôi từ
trong Nhà tang lễ số 5 Phạm Ngũ Lão báo ra, anh Ba Dũng vì bận công tác đã cử
anh Tư Thắng là em ruột thay mặt gia đình đến viếng ; đồng thời, anh Ba Dũng
còn giao cho Quân khu 7 cử một đoàn đến viếng.
Đoạn cuối đời binh nghiệp, ông Nguyễn Đình Bá được bổ nhiệm
giữ chức Tham mưu phó Bộ đội Biên phòng. Cán bộ, chiến sỹ các đơn vị Biên phòng
ở phía Nam đều dành tình cảm và sự kính trọng đối với ông - một cán bộ chỉ huy
nhiệt thành, giàu kinh nghiệm, có năng lực, đức độ và phong cách tốt.
Hôm giỗ 49 ngày Thượng tướng Trần Văn Quang, tôi gặp anh
Nguyễn Mạnh Thoa, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng - cũng là
người thân quen cũ. Anh Thoa nói với tôi là: “ Đẩu ạ! Bữa vào thành phố Hồ Chí
Minh, mình có đến thăm ông Nguyễn Đình Bá. Ông ấy ốm nặng lắm rồi. Bị hen
suyễn, khó thở quá. Không biết còn được bao lâu nữa. Thấy thế, mình thương vô
cùng!”.
Sinh thời, ông Nguyến Đình Bá vốn là người nhân đức, chu
đáo, trọng tình. Tôi không thể quên, năm 2008, khi biết tin cha tôi từ trần ở
quê nhà, ông đã mấy lần kịp gọi điện ra chia buồn. Tiếp đến, năm 2009, dẫu
không được khỏe, vậy mà ngày Lễ tang bố vợ tôi ở Thành phố Hồ Chí Minh, ông vẫn
vào viếng mấy lượt trên mấy tư cách.
Vẫn biết rằng, sinh - lão - bệnh - tử là qui luật của muôn người. Với ông vừa
bước sang tuổi 85 và trong nhiều năm qua
phải thường xuyên chống chọi với bệnh tật, nay ra đi cũng là điều dễ hiểu. Vậy
mà trong tôi vẫn cảm thấy trống trếnh, tiếc thương ông vô cùng. Căn nhà số 4
phố Lam Sơn, quận Gò Vấp trong nhiều năm qua là chốn tôi thường lui tới trong
mỗi dịp vào Thành phố Hồ Chí Minh. Từ nay, mỗi lần vào Nam, tôi không còn dịp được nghe ông
đàm đạo thế thái nhân tình một cách trìu mến, thân thương.
Vì đường sá xa ngái, tôi không vào chịu tang ông được, đành phải nhờ người đại diện. Dẫu không có mặt, nhưng tôi tin chắc rằng, tại Nhà tang lễ số 5 Phạm Ngũ Lão và Nghĩa trang Thành phố
Hồ Chí Minh, lễ tang ông được tổ chức rất trọng thể trong tình cảm kính quí của
mọi người. Tiếc thương ông, sẽ có đông đủ cán bộ, bộ đội và đồng bào thuộc các
cơ quan, đơn vị, địa phương cùng bà con họ hàng nội ngoại, đồng đội và bạn hữu
gần xa đến viếng và đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Lễ tang
ông là tương xứng với công lao và tình nghĩa của ông để lại cho đời - một cuộc
đời phong phú, sôi động. Âu đó cũng là một niềm tự hào của dòng họ cũng như quê
hương chúng tôi.
Mỹ Đình, trưa Mồng Năm Tết Giáp Ngọ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét