Kỷ niệm 615 năm
sinh Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí (1397-2012)
Người hai lần khai quốc
GIAO HƯỞNG
Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam cho
thấy, bao lần Tổ quốc bị họa xâm lăng là bấy lần sông núi hồn thiêng sinh ra
những Võ tướng Văn tài, sát cánh cùng toàn dân đánh đuổi quân cướp nước ra khỏi
bờ cõi. Trong đội ngũ hiền tài được lịch sử dân tộc tôn vinh lên hàng danh
tướng danh thần, Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí là người "hai lần khai quốc”. Từ cống
hiến to lớn đối với nhân dân với đất nước, các thế hệ đời sau tôn vinh ông là
"Thiên cổ vĩ nhân, vạn cổ cương thường" (Vĩ nhân muôn đời, phép tắc
muôn đời).
Thiên cổ vĩ nhân
Dịp Lễ Vu lan năm nay tôi về Đền thờ dâng
hương kính viếng Thái sư tại quê làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc (nay là xã
Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Đền thờ Ngài tọa lạc cách Thị xã biển
Cửa Lò 4 km, năm 1993 Đền thờ là Di tích LSVH quốc gia, một công trình kiến
trúc lịch sử-văn hóa nổi tiếng, hằng năm thu hút hằng vạn lượt du khách trong
ngoài nước đến với Nghệ An. Ngay từ ngoài cổng khu Đền thờ rực rỡ đôi câu đối
nền đỏ chữ vàng, viết bằng quốc ngữ chân phương, người Việt ai cũng đọc được:
Muôn thưở sáng ngời công khai quốc
Từ cổng vào tới hậu cung ước chừng 500m,
quãng thời gian bách bộ đủ để du khách nghiền ngẫm đôi câu đối và tạc vào tâm
tưởng. Tộc phả họ Nguyễn Đình-một trong những dòng họ lớn của xứ Nghệ, đã giúp
tôi biết thêm nhiều điều về vị Thái sư Cương quốc công. Ngài SN 1397 tại làng
Thượng Xá, mất ngày 30.10 âl năm 1465 tại tư dinh ở Hoàng thành Thăng Long. Năm
Đinh Hợi (1467) dịp kỵ đại tường mãn tang Ngài, Vua Lê Thánh Tông ban tặng 1000
quan tiền, sai đại thần mang về lập dựng Đền thờ theo chế độ "quốc
tế" (do Nhà nước tế lễ). Cũng dịp này Vua sai Trạng nguyên Nguyễn Trực
(1417-1474) Tế tửu Quốc Tử Giám, phụng soạn văn bia khắc đá đặt thờ. Văn bia đề
ngày 06.10 năm Quang Thuận thứ 8 (24 ngày trước Lễ kỵ đại tường) có câu: Từ
xưa tới nay, người làm bề tôi mà lúc sống được phong, khi chết được tặng, văn
ngợi ca vinh quang không dứt, thật không ai sánh nổi với ông.
Cống hiến to lớn của Ngài trong chặng đầu 10 năm đánh đuổi giặc
Ngô giải phóng đất nước (1418-1428), và tiếp 36 năm công cuộc phục hưng đất
nước (1429-1465) dưới 4 đời Vua Lê (Lê Thái Tổ 1428-1433, Lê Thái Tông
1434-1442, Lê Nhân Tông 1443-1459, Lê Thánh Tông 1460-1497) mà Ngài luôn giữ vai trò trụ cột, từ trước tới nay sử sách "ngợi ca vinh quang không dứt";
Bài viết nhỏ này chúng tôi xin công bố 2 tài liệu lịch sử đặc biệt, đó là bản
Di huấn Ngài lập năm 1462 tức 3 năm trước khi quy tiên, và bài chế của Vua Lê
Thánh Tông viết năm 1460 khi ông vừa lên ngôi, nói về công lao to lớn của Ngài
đối với dân với nước. Hai tài liệu này đặc biệt ở chỗ cả hai tác giả là hai
nhân vật lịch sử, được công bố ngay sau khi tự viết ra.
Cũng
dễ hiểu. Là CON NGƯỜI CỦA LỊCH SỬ, tác giả bản Di huấn đồng thời là chứng nhân,
là tác nhân của hằng loạt sự kiện lịch sử, vậy nên Di huấn của Ngài phản ánh
sâu đậm tư tưởng chủ đạo về các quan hệ xã hội chủ yếu của lịch sử phong kiến
Việt Nam vừa mới hình thành ở giai đoạn này. Trong khi tìm hiểu nội dung bản Di
huấn mang đậm dấu ấn lịch sử này, chúng tôi đặc biệt quan tâm ý kiến của 2
người cùng thời nói về tác giả của bản Di huấn, đó là lời của minh vương Lê
Thánh Tông trong bài Chế ca ngợi công lao của Ngài khi Ngài đang sống, và bài
văn bia do Tiến sỹ Nguyễn Trực soạn sau 2 năm Ngài qua đời.
Lê
Thánh Tông lên ngôi lúc 19 tuổi, trong thời gian trị vì, ông nhiều lần tri ân
công lao to lớn của Ngài, bài Chế trích dẫn sau đây được ông viết năm 1460 ngay
sau khi vừa lên ngôi: "…Khí độ trầm
hùng, tính người cương đại. Giúp Cao hoàng khi mở nước, trăm trận gian nan. Phò
tiên khảo lúc thủ thành, hết lòng giúp rập. Ra vào hết chức phận tướng Văn
tướng Võ, trước sau giữ trọn tiết làm tôi làm con. Giữ mình có đạo, hồn nhiên
như ngọc chẳng khoe tươi. Nghiêm mặt ở triều, lẫm liệt như thanh gươm mới tuốt.
Các quan đều tưởng mộ phong thái, bốn biển đều ngưỡng vọng uy danh. Tiên đế mất
trong lúc Nam tuần, người ân cần nhận lời di chiếu. Ta lên ngôi như mặt trời
mới mọc, người hết lòng bày tỏ mưu mô. Tôn miếu xã tắc được vững vàng, Trung
Châu Man Di đều thuần phục.
Mới rồi: Vì trong nước yên tĩnh lâu ngày, nên việc võ
dần sinh trễ nải. Giặc cướp Phạm vào trong cung, biến cố sinh từ kẽ nách. Lúc
nước có biến phi thường, chỉ ngươi mưu lo cứu vãn. Cha con ngươi một nhà, cùng
một lòng diệt phường gian ác. Nghĩa vua tôi nghìn thưở, đỡ mặt trời mà đặt lên
cao. Công kém gì đình thần nhà Hán, việc hơn cả các quan nhà Đường. Ba mối
rường đã đứt lại được nối, vầng nhật nguyệt đã tối lại sáng ra. Công lao như
thế đâu dám coi thường, Vì vậy đưa ngươi lên ngôi sư phó, tấn phong tước Á quận
công. Lại cho người được khai phủ kiêm giữ chức trọng Bình Chương, để mọi việc
sáng tỏ, để giúp đỡ mình ta.
Than ôi! Bình nội nạn, chính ngôi Vua, trong đời công
lao hơn cả. Thay việc trời, giúp Hoàng đế, nên hết lòng với nước nhà. Ngươi
thực bề tôi trung ái, không cần phiền toái nhiều lời".
(Liệt
truyện Nguyễn Xí, sách Đại Việt thông sử
của Lê Quý Đôn, bản dịch của Nguyễn Thế Long, NXB KHXH Hà Nội 1978)
Bài Chế có
câu Ra vào hết chức phận tướng Văn tướng
Võ. Về phận tướng Võ của Ngài, sử sách xưa nay lẫy lừng tên tuổi, lẫy lừng
chiến công của tướng Nguyễn Xí gắn với khởi nghĩa Lam Sơn, gắn với lịch sử 10
năm liệt oanh chống xâm lược Minh đầu thế kỷ 15. Về phận tướng Văn, nếu các hậu
thế có dịp đi sâu tìm hiểu bản Di huấn của Ngài lập ngày 12.5.1462, niên hiệu
Quang Thuận thứ 3, tức ba năm trước khi Ngài vào cõi "thế giới người hiền",
sẽ càng tâm phục khẩu phục lời đánh giá tinh tường của đấng minh vương Lê Thánh
Tông. Thiển nghĩ, mục đích Ngài lập bản Di huấn là chỉ để căn dặn con cháu
trong gia đình dòng tộc mà thôi, do đó nhiều người ngoại tộc chưa có dịp tiếp
cận bản Di huấn đặc biệt này, nên chúng tôi mạnh dạn chép ra để mọi người cùng
nghiền ngẫm.
Vạn
cổ cương thường
Như ta biết,
ngày xưa các bậc chức sắc trước khi về với Tổ tiên thường để lại Di chúc, trong
Di chúc dành một phần nói về đạo lý
tình người để khuyên dạy con cháu, phần này gọi là Di huấn. Về hình thức thể
loại, Di huấn và Chế thường là chỉ để nói cái riêng, nhưng ở nội dung của hai
tài liệu nêu trên thì trong riêng có chung, trong chung mà rất riêng, do đó với
giá trị nội dung đặc biệt ấy, các hậu thế cũng đủ chiêm ngưỡng được mảng màu
chủ đạo trong bức chân dung trang trọng, tôn nghiêm của vị Cương quốc công,
chân dung Ngài luôn được đặt trang trọng giữa cái khung lịch sử chói sáng, đó
là sự thịnh vượng của quốc gia Đại Việt thế kỷ thứ 15
" …TA là người xã Thượng Xá, huyện Chân
Phúc, phủ Đức Quang, đạo Hoan Châu, vốn họ Nguyễn, tên Xí, mấy đời sống ở vùng
biển với nghề nấu muối. Thưở nhỏ, gặp lúc nhà Nhuận Hồ mạt vận, cha mất sớm,
phải theo anh tên là Biện dời nhà ra ở với Đức Thái Tổ Cao hoàng đế tại Lam
Sơn. Năm đó TA vừa lên 9 tuổi, được Vua sai dạy một đàn chó biết tiến ngừng (theo
hiệu lệnh). Vua thấy thế thì khen và càng
thêm yêu mến. Ngày mồng 4 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), thấy giặc Minh ngày càng tỏ ra điên rồ, Vua đã cho giết voi uống máu ăn thề
và lệnh cho các bậc hào kiệt dấy nghĩa binh ở đất Lam Sơn. Năm đó TA vừa hai
mươi hai tuổi, được Vua trao cho binh phù và cùng anh là Biện dốc hết sức ra
mong dẹp yên lũ giặc. Trong khoảng 10 năm trời, TA đã cùng các vị tướng khác,
nếm trải trăm trận gian khổ, cuối cùng giặc Minh đã bị diệt. Núi sông đất nước
được thu về trọn vẹn.
Năm Mậu Thân (1428) Vua lên ngôi, mở đại
hội tướng lĩnh, xếp thứ hạng, định phong thưởng. Xét TA có công lớn, phong cho
danh hiệu KHAI QUỐC CÔNG THẦN Á QUẬN CÔNG, và anh TA là Biện hy sinh trong khi đánh giặc, cũng được Vua gia tặng
THÁI PHÓ NGHIÊM QUẬN CÔNG, thụy HUỆ
VÕ PHỦ QUÂN. Niên hiệu Thuận Thiên thứ 6,
Vua để Di chiếu sai phụ giúp việc nối ngôi của Vua Thái Tông Văn hoàng đế. TA
ngày đêm lo lắng công cuộc hưng thịnh thái bình. Tiếp đến đời Vua Nhân Tông,
niên hiệu Diên Ninh thứ 6, có Lê Đức Hầu là Lê Nghi Dân, dấu kín lòng tà, ban
đêm cùng Đồn (Phạm Đồn), Ban
(Phan Ban) trèo tường vào cung điện giết
Vua, cướp ngôi, xưng hiệu là Thiên Hưng. Lúc đó TA với cương vị đứng đầu, đã
cùng các đại thần văn võ, xướng đại nghĩa, giết Đồn, Ban, quét sạch cung cấm,
rước Hoàng thượng từ Phan Đế về lên ngôi đại báu, nối tiếp truyền thống lớn
lao.
Vua trân trọng
tưởng nhớ TA là người có công lớn mở mang cứu vớt, khí tiết trung thành, bèn
phong lên là KHAI QUỐC SUY
TRUNG DƯƠNG VÕ MINH NGHĨA, PHỤ QUỐC TÁ LÝ, TĨNH NẠN TRUNG HƯNG CÔNG THẦN, THÁI
NGUYÊN TRẤN, PHIẾU KỸ THƯỢNG TƯỚNG QUÂN, ĐẶC TIẾN KHAI PHỦ NGHI ĐỒNG, TAM TY
NHẬP NỘI KIỂM HIỆU, TẢ PHỤ HỮU TƯỚNG QUỐC, THÁI PHÓ BÌNH CHƯƠNG QUÂN QUỐC TRỌNG
SỰ, LỆNH QUÂN THIẾT ĐỘT TRUNG KIÊN DỰC TƯỚNG THIẾT ĐỘT, TẢ KIÊN DỰC THÁNH
THƯỢNG TRỤ QUỐC, TỨ KIM NGƯ, ĐẠI KIM PHÙ, CANG QUỐC CÔNG, TỨ TÍNH LÊ (đổi theo
họ Lê của Vua), Vua còn tặng hiến khảo (cha)
của TA tước THÁI BẢO ĐÌNH QUẬN CÔNG thụy PHÚC THẮNG PHỤ QUÂN, hiến tỷ (mẹ) của TA là QUẬN PHU NHÂN. Các
thê thiếp của TA đều được hưởng phúc ấm và sự che chở.
TA sinh được 16 con trai và 8 con gái. Con
trai lấy vợ Công chúa, con gái lấy chồng Hoàng tôn (con cháu của Vua). Ai cũng được hưởng vinh quang tột mức phẩm
chế (chế độ phẩm hàm). Vua còn sắc
ban lộc điền công thần. Riêng TA cũng còn tạu thêm ruộng đất đầm ao tại các
phủ, huyện, xã, trong đó có phần đặt làm ruộng tế, có phần chia cho các người
lưu giữ làm sản nghiệp lâu dài.
Nay các người trông thấy nhà đẹp ruộng tốt,
giàu có, thì phải nghĩ đến nỗi vất vả chặt gai phát bụi của TA. Trông thấy cảnh
ca nhi múa hát vui vẻ, thì phải nghĩ đến thời
TA phải gian khổ, nằm tuyết gối đòng. TA thấy đời Đường (Trung
Quốc), Lý Tĩnh là bậc danh tướng nhưng có
hai con là Kính và Nghiệp phạm tội làm phản. Các người cần lấy đó làm gương để
tránh. Đời Tống (Trung Quốc) có Tào
Bân cũng là danh tướng nhưng có hai con là Xán và Vĩ lại bước lên đàn tướng
lĩnh. Các người nên sánh với họ. Các người con cháu phải cẩn thận giữ gìn gia
pháp, lấy đạo hiếu để lập công. Ấy là con hiền cháu thảo của TA. Hoặc giả (trái
lại), nếu ai gây đầu mối tranh giành nhau
thì các ngươi phải làm biểu tâu lên triều đình về tội bất hiếu. Các ngươi hãy
cùng nhau ghi nhớ lời dạy này của TA, không được quên !..."
(Trích Di
huấn của Cương quốc công Nguyễn Xí khắc trên bia đá, do ông Nguyễn Đình Điệp
dịch, GS NGND Nguyễn Đình Chú hiệu đính, in trong Cương quốc công Nguyễn Xí, Tộc
phả-Di huấn-Phụ lục, Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Đình xã Nghi Hợp, huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ấn hành năm 1993).
Hầu hết Di
huấn tập trung nói về đạo lý, về Hiếu, Nghĩa, Đức, Nhân…những giá trị cốt lõi
làm người, qua đó khuyên dạy con cháu trui rèn, phấn đấu, tôn đắp gia tộc, gia
phong, xứng đáng là công dân tốt trong cộng đồng xã hội. Từ chuẩn tắc dù không
quy định thành văn, song nội dung Di huấn luôn đóng vai trò "Hiến
pháp" của gia đình gia tộc, là "khuôn vàng thước ngọc" để con
cháu làm theo. Ở phần giới thiệu Di huấn in trong cuốn Cương quốc công Nguyễn Xí-Tộc phả-Di huấn-Phụ lục, ghi: "Sau
khi viết ra đã được dâng lên Vua Lê Thánh Tông xin xét duyệt, đóng dấu…".
Về giác độ pháp lý, Di huấn mà được nhà Vua đích thân xem duyệt, phê chuẩn,
đóng dấu (quốc ấn), thì đó là văn bản mang giá trị quốc gia. Được mang trong
mình giá trị quốc gia, nghiễm nhiên là không dừng lại trong phạm vi lời dặn của
tiền nhân gửi lại cho con cháu nội tộc nữa. Nói cách khác, bản Di huấn của Ngài
sau khi được Vua xét duyệt, đóng dấu,
đã trở thành sản phẩm tinh thần mang giá trị quốc gia, nội dung của Di huấn đã vượt
ra ngoài khuôn khổ gia đình, dòng tộc. Có thể nói, sau khi được Vua xét duyệt, đóng dấu, giá trị của bản Di
huấn đã phải gánh thêm một sứ mạng lớn lao, đó là: Những lời tâm huyết của vị
đại thần "hai lần khai quốc" không những chỉ là tài sản của gia đình,
dòng tộc; mà trở thành tài sản vô giá của quốc gia, được triều đình phổ biến
rộng rãi trong muôn dân.
Từ bấy đến
nay đã 550 năm, độ dày thời gian quá đủ để bào mòn bia đá, riêng nội dung bản
Di huấn của Cương quốc công vẫn sáng ngời giá trị kim chỉ nam, mãi là niềm tự
hào của ước khoảng 2,5 triệu con cháu hậu duệ của Ngài đang sinh sống làm ăn
khắp trong, ngoài nước. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi không khỏi ngạc
nhiên vì những khác lạ giữa bản Di huấn của Ngài với những bản Di huấn khác mà
chúng tôi được tiếp cận. Đối chiếu các sự kiện, các biến cố, các quan hệ xã hội
ghi trong Di huấn, với các tài liệu lịch sử (chính sử) thời Lê sơ, ta thấy Di
huấn của Ngài phản ánh chính xác các sự kiện, các biến cố lịch sử ở nửa đầu TK
15. Bởi Cương quốc công là người trực tiếp trong hầu hết các vụ việc, là nhân
vật lịch sử xoay chuyển thế cuộc, và sau khi trời yên biển lặng đã được lập
lại, Ngài lặng lặng lui về hậu triều, ung dung tĩnh tại chép lại một cách trung
thực, khách quan những điều mình chứng kiến, với sự minh triết nhìn nhận đánh
giá của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng.
Sau
đây là bài văn bia do Tiến sỹ Nguyễn Trực soạn sau 2 năm Ngài qua đời:
"…Ông là người cứng rắn mà sáng suốt,
dũng cảm mà nghĩa khí. Gặp lúc hữu sự, có thể dứt tình thân để đặt lợi ích của
thiên hạ lên trên (nhắc lại sự kiện ông giả mù, đành lòng dậm chết người
con trai út thứ 16 tên là Duy Tân bấy giờ mới mấy tháng tuổi, để cho bọn phản
nghịch tin rằng mình "mù thật")…Lúc
lâm bệnh nặng, ông được Vua sai sứ thần đem biếu tiền thuốc một ngàn quan và
liên tiếp gửi lời dụ thăm hỏi. Ông mất giờ Thân ngày 30.10 niên hiệu Quang
Thuận (1465), hưởng thọ 69 tuổi có
lẻ.
Nghe tin ông
mất, Vua tiếc than, bỏ triều 3 ngày không ngự, ban nhiều tặng vật, cấp mọi thứ
nghi trang tế lễ, một trăm quan tiền, và sai quan Hữu ty lo liệu mọi việc. Vua
còn tặng ông danh hiệu
THÁI SƯ CƯƠNG QUỐC CÔNG ĐẶC ÂN KHAI QUỐC. Từ
xưa tới nay, người làm bề tôi mà lúc sống được phong, khi chết được tặng, văn
ngợi ca vinh quang không dứt, thật không ai sánh nổi với ông. Một ngày trước
khi phát dẫn, các quan đại thần đều hội nhau làm lễ và đến ngày 13.12 năm Bính
Tuất (1466) thì an táng ông tại quê
nhà huyện Chân Phúc, vốn là đất "thiên trụ" trước đó cũng đã chôn
thân phụ của ông…" (đất
"thiên trụ": người xưa quan niệm là đất có thế vững chãi để phát
đạt).
Theo Tiểu dẫn của Hộ đồng họ tộc Nguyễn Đình: Sau khi
viết xong Di huấn, Ngài dâng lên Vua Lê Thánh Tông và được Vua xét duyệt, đóng
dấu. Hơn 300 năm sau các hậu duệ mới tiến hành khắc lời Di huấn của Ngài vào
tấm bia đá đặt tại Đền thờ. Nhưng trong tấm bia này các hậu duệ lại bớt phần
ghi về quá trình chiến đấu của Ngài trong phong trào Lam Sơn, mặt khác lại thêm
vào một số điều xẩy ra trong phong trào khởi nghĩa Tây Sơn cuối TK 18 là chuyện
Ngài không can dự. Vì sao các hậu duệ lại làm như vậy? Phải chăng là phòng khi
trời thấp vẫn không phải đi còm, nên họ cố ý thêm "râu ông nọ" cho
đẹp "cằm bà kia" nhằm mục đích "che đầu quân tử" và
"mát mặt anh hùng". Sang đầu TK 20 khi tiến hành dịch văn bia ra quốc
ngữ, Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Đình đã lược bỏ phần ghi thêm vô lý ấy, việc
làm sáng suốt này nhằm giữ gìn giá trị đích thực bản Di huấn lịch sử của Ngài.
Qua Di huấn,
các thế hệ con cháu không những biết về sự hy sinh cống hiến của hai anh em
Nguyễn Biện, Nguyễn Xí trong công cuộc giải phóng dân tộc ở đầu TK 15; cùng
những việc "thâm cung" từng xẩy ra ở giai đoạn đầu triều Hậu Lê, mà
còn biết được tình hình đại cục, đó là: Ngay sau thắng lợi của kháng chiến 10
năm chống quân xâm lược Minh, ở Đông Nam Á đã xuất hiện một Nhà nước quân chủ
tập quyền hùng mạnh mang quốc hiệu Đại Việt. Có một triều Lê sơ đã nhanh chóng
bắt tay vào công cuộc duy tân, xây dựng một Nhà nước phong kiến có hệ thống tổ
chức mới. Hệ thống tổ chức Nhà nước ấy định ra các thang bậc giá trị, mà trong
đó "phàm phần tử thờ Vua thì phải hết lòng trung" là tiêu chuẩn giá
trị hàng đầu. Dù trong Di huấn của Ngài không nói thẳng ra nhưng các hậu sinh
vẫn hiểu những phần tử thờ Vua trước hết là các Võ tướng, Văn tướng từng sát
cánh với Lê Lợi "giết voi uống máu ăn thề", từng 10 năm "nếm
trải trăm trận gian khổ". Sau ngày khải hoàn, những người "khai quốc
công thần" được Lê Thái Tổ ưu ái đổi sang họ Vua, đó là các đại thần Lê Xí
(Nguyễn Xí), Lê Liệt (Đinh Liệt), Lê Trãi (Nguyễn Trãi), Lê Chích (Nguyễn
Chích)..vv....Và họ đều là "thần dân" trong mối quan hệ lệ thuộc với
Hoàng đế-Hoàng thượng (tạm gọi là quan hệ Hoàng quyền-thần thuộc), một loại
quan hệ lần đầu tiên xuất hiện trong đời sống xã hội Việt Nam.
Nằm trong mối
quan hệ "môi răng" ấy, Ngài biết được nhiều chuyện xẩy ra trong
"thâm cung", toàn là những chuyện mà đối với hầu hết các đại thần thì
"sống để bụng chết mang đi", riêng Ngài quê xứ Nghệ lại mượn Di huấn
để "toạc móng heo" trước toàn dân thiên hạ. Dường như Ngài cũng biết,
giữa một Nhà nước triều Lê sơ nhiều năm thịnh vượng, song Nhà nước phong kiến
ấy vẫn là nơi tập quyền, Vua là cha của thiên hạ, là con Trời (Thiên tử), bộ
máy từ triều đình đến làng xã vẫn là nơi dung dưỡng ý thức, quan hệ Vua-tôi, là
thành trì của một lớp người thích sủng thần và nhiều hơn là "một thế
giới" kẻ nịnh thần, tất cả khu trú trong cái guồng máy "chăn
dân"-coi dân như súc vật ấy.
Năm thế kỷ
rưỡi sau chúng ta thử đặt mình trong quan hệ Hoàng quyền-thần thuộc và chọn một
góc nhìn, càng trân trọng sự thật khách quan "mọc" ra từ sự cứng rắn mà sáng suốt, dũng cảm mà nghĩa khí
của Ngài-một đại thụ tùng,bách sừng sững rợp bóng TK 15. Các Triều đại phong
kiến Việt Nam có nhiều tùng, bách, song tùng, bách tới mức trong chuyện
"riêng tư" gửi lại con cháu mà ròng ròng chuyện đại sự quốc gia, từ
việc "cùng các đại thần văn võ xướng
đại nghĩa, giết Đồn Ban, quét sạch cung cấm", đến việc rước Hoàng thượng từ Phan Đế về lên ngôi
đại báu, nối tiếp truyền thống lớn lao…thì chỉ thấy ở Thái sư Cương quốc
công mà thôi !
Từ vị trí
rường cột dưới 4 đời Vua, sau khi biển lặng sóng yên, Ngài chép ra sự thật cho
dù sự thật ấy rất đau lòng. Đem những sự kiện Ngài chép trong Di huấn, đặt lên
những sự kiện do người sau chép thành chính sử, ta có được sự kiện trùng khít
chính xác từng xẩy ra nơi cung cấm. Với Ngài, để con cháu và muôn dân biết bản
chất sự kiện do chính tay Ngài chép ra là cần thiết, cũng bởi mỗi khi sự thật
đến được với muôn dân, thì chính lòng tin của muôn dân không cho phép những kẻ
hại dân xuyên tạc, thậm chí đi ngược dòng lịch sử ! Rất tiếc ở thời ấy, và
trong quan hệ Vua-tôi ràng buộc ấy, có được mấy người biết chọn đúng chỗ để gửi
lòng tin của mình vào ý chí muôn dân-thành trì gìn giữ, bảo vệ, phát huy những
giá trị lịch sử đích thực !
Cảo thơm lần
dở, qua Di huấn của Ngài chúng ta càng tâm phục, khẩu phục sự tường minh của
Tâm lớn Trí cao, mong muốn làm tròn chức
phận tướng Văn. Ngài không né tránh những chuyện "kinh thiên động
địa" nơi thâm cung của triều Lê sơ, do đó Di huấn của Ngài đóng vai trò là
văn bản chính thống mở toang bức màn "bí sử". Cảm phục cái "chất
Nghệ" dũng quyết thường trực trong máu thịt của Ngài, bởi ngoài Vua ra
không ai có thể yêu cầu một người đang ở ngôi
sư phó, tước Á quận công, phải nói toạc móng heo những chuyện "thâm
cung" mà thông lệ trở thành "bí sử". Chỉ có thể cắt nghĩa điều
đó từ góc nhìn văn hóa về một CON NGƯỜI từng hết mình "đỡ mặt trời mà đặt lên cao", từ đó mở ra một giai đoạn
phát triển rực rỡ của quốc gia Đại Việt.
Như đã nói,
Di huấn của Ngài không chỉ xoay quanh đạo làm người, mà còn đề cập nhiều chuyện
đại sự quốc gia như việc "bè đảng
riêng tây", đến việc "Lê
Nghi Dân dấu kín lòng tà, ban đêm cùng Đồn (Phạm Đồn), Ban (Phan Ban) trèo tường vào
cung điện giết Vua, cướp ngôi, xưng hiệu…" mà Ngài với trọng trách
rường cột đã trực tiếp đảo ngược tình thế. Vậy nên Lê Thánh Tông vừa mới lên
ngôi đã ví công lao của Ngài khác nào "đỡ
mặt trời mà đặt lên cao". Mưu lược ấy thành công ấy chỉ có ở bậc Văn
Võ song toàn.
Xuất phát từ
mục đích nước cường dân thịnh, từ nhu cầu tất yếu của quốc gia Đại Việt tiếp
tục phát triển, lịch sử dân tộc mãi chói ngời việc Ngài đã chọn đúng "mặt
trời" và đặt "mặt trời" đúng chỗ để quốc gia Đại Việt phát triển
cực thịnh. Với cái Tầm cái Tâm sáng tựa Sao Khuê, sau khi chọn đưa minh vương "lên ngôi đại báu", Ngài cúc
cung tận tụy sát cánh cùng minh vương mở ra một giai đoạn cực thịnh rạng rỡ của
quốc gia Đại Việt-thời kỳ mà các sử thần thời Lê sơ gọi là "Thánh Tông
trung hưng", một thời kỳ không mấy gặp trong lịch sử ngàn năm phong kiến.
Công lao trời biển của Ngài chói ngời cùng sử vàng dân tộc.
Ngài "sinh được 16 con trai và 8 con gái, tại
thời điểm lập Di huấn Ngài còn 23 người con. Người con trai thứ 16 tên là Duy
Tân sớm từ giã cõi trần vì Ngài "dứt
tình thân để đặt lợi ích của thiên hạ lên trên", buộc lòng dẫm chết
người con mới mấy tháng tuổi. 15 người con trai của Ngài đều theo đường binh
nghiệp gồm: 1/ Sư Hồi (húy Nguyễn Đình Khôi). 2/ Nguyễn Sương (Phò mã). 3/ Nhật
Huyền. 4/ Bá Kiệt. 5/ Kế Sài. 6/ Phùng Thời. 7/ Thúc Ngu. 8/ Tôn Cao (còn gọi
là Tôn Ti). 9/ Cảnh Thanh. 10/ Trọng Đạt. 11/ Phúc Xà. 12/ Hữu Lượng. 13/ Đồng
Dân. 14/ Nhân Thực. 15/Văn Chinh. Trong đó 7 người giữ chức vụ quan trọng của
Triều đình ở Thăng Long, 8 người điều khiển 8 đạo quân trấn giữ các vùng trọng
yếu trên khắp đất nước. Trong thời gian được giao trấn giữ vùng biển Đại Việt,
con trưởng Thái úy Sư Hồi cùng vợ chồng người em trai thứ 5 Thái Bảo thượng trụ
quốc Kế Sài (vợ là Phạm Thị Ngọc Ất) chiêu dân lập ấp, mở mang khai phá thêm
vùng Thượng Xá, Vạn Lộc nay là Thị xã Cửa Lò. 8 người con gái của Ngài gồm: 1/
Ngọc Hỷ. 2/ Ngọc Lễ. 3/ Ngọc Minh. 4/ Ngọc Thái. 5/ Ngọc Biên. 6/ Ngọc Liễn (có
bản chép là Ngọc Liên). 7/ Ngọc Kinh (có bản chép là Ngọc Quỳnh). 8/ Ngọc Bình.
***
Khai
mở trên 600 năm, dòng họ Nguyễn Đình xứ Nghệ là một trong những dòng họ lớn,
mấy năm nay GS NGND Nguyễn Đình Chú là trụ cột của nhóm hậu duệ, được Hội đồng
gia tộc cử ra thực hiện công trình Đại gia phả họ Nguyễn Đình. Tình cờ tôi gặp
GS tại cuộc Hội thảo khoa học tổ chức ở TP Vinh để tìm hiểu thêm "dòng
đời"-dòng họ Nguyễn Đình lớn mạnh, rậm rạp ngút ngát như đại ngàn cổ sinh.
Bữa đó tôi mạnh dạn thông tin với GS về gốc gác một hậu duệ của Ngài, một Danh
tướng duy nhất được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh truy phong, đó là Liệt sỹ
Phùng Chí Kiên (1901-1941), tên thật Nguyễn Vỹ, hậu duệ đời thứ 6 của Cụ Nguyễn
Đình Liễn. Cụ Liễn nguyên quán huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh, khoảng đầu TK 19 Cụ
ra lấy vợ quê xã Diễn Yên huyện Diễn Châu ở rể định cư tại đây, đến nay Chi họ
Nguyễn Đình tại Diễn Yên chưa nối kết được với gia tộc họ Nguyễn Đình gốc Nghi
Hợp để sung vào Đại gia phả.
Theo
GS NGND Nguyễn Đình Chú, Đại gia phả họ Nguyễn Đình là công trình đồ sộ, 3 năm
qua nhóm biên soạn tập trung cao độ, song cũng phải cuối năm nay hoặc đầu năm
sau mới có thể tạm bằng lòng ấn hành.Tôi hình dung làng Thượng Xá là nơi khởi
nguồn. Trên đường tới tương lai, dòng chảy ấy sinh sôi 15 Chi con đẻ trực hệ,
và 3 Chi "dưỡng tử" (con nuôi) thuộc 3 họ Uông, Đặng, Chế là con cháu
người Minh, người Chiêm, nguyên là binh lính của các đội quân xâm lược, về sau
họ trở thành hàng binh của Ngài, được Ngài đưa về quê nuôi dưỡng.
Là
trụ cột triều đình Ngài phải ở lại Thăng Long, việc cai quản giáo dưỡng số hàng
binh này Ngài giao cho các con Sư Hồi,
Kế Sài (là 2 thuộc tướng trấn giữ từ xứ Nghệ tới biên cương phía nam Đại Việt).
Đội ơn trời biển của Ngài mở cho đường sống, sau khi Ngài mất 3 Chi "dưỡng
tử" đã cùng 15 Chi anh luôn keo sơn gắn bó, bình đẳng cùng nhau hương khói
phụng thờ Ngài. Giờ đây con cháu hậu duệ của 3 Chi "dưỡng tử" vẫn tin
rằng, với uy linh của Ngài, ở cõi vĩnh hằng Ngài vẫn luôn rộng lòng cưu mang họ
như cách nay gần 600 năm đã từng cưu mang tổ tiên của họ /..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét