ĐỌC TIỂU THUYẾT
LỊCH SỬ “ KẺ SĨ THỜI LOẠN ”CỦA NHÀ VĂN VŨ NGỌC TIẾN
Cuối đông năm
Đinh Dậu (2017), nhà văn Vũ Ngọc Tiến chuyển cho tôi đọc tập bản thảo Tiểu thuyết
lịch sử “ KẺ SĨ THỜI LOẠN ” của anh. Vậy là, trong mấy năm qua, sau “ SÓNG HẬN
SÔNG LÔ” và “ QUỶ VƯƠNG”, đây là cuốn tiểu
thuyết lịch sử thứ ba về triều Lê tôi được anh trao tặng. Được biết, trước đó
anh còn có 3 cuốn tiểu thuyết khác nữa về 3 nhà cải cách Khúc Hạo, Trần Thủ Độ,
Đào Duy Từ đã in và tái bản nhiều lần, được Đài phát thanh thành phố Hồ Chí
Minh tổ chức đọc truyện đêm khuya 3 tháng liền trong năm 2008.
Tôi quen nhà
văn Vũ Ngọc Tiến khoảng gần 10 năm nay, khi chúng tôi cùng tham gia Trung tâm
tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý cho gia đình Liệt sĩ (gọi tắt là Trung tâm
Ma Rin). Ở anh, toát lên một con người có kiến thức, vốn sống sâu rộng cùng với
sự lịch lãm, tinh tế mà lại thẳng thắn, chân tình với mọi người.
Trong các tiểu
thuyết lịch sử của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, với cách viết rất riêng mới của anh,
tôi đều chân nhận rằng, văn phong của anh trong sáng, chân thực, phong phú, thấm
đẫm tình người, chứa đầy tư liệu lịch sử; Đồng thời, đồng hiện lên những mảng
hiện thực đương đại với biết bao ngổn ngang tiêu cực, nghịch lý của xã hội. Với
thái độ trách nhiệm công dân, anh trực diện phán ảnh, không hề né tránh. Bằng mạch
văn nhẹ nhàng, trầm tĩnh xuôi chảy qua các dòng sự kiện lịch sử và đương đại,
anh đã điềm nhiên đưa ra những tư liệu sống động, những luận bàn, đối thoại thẳng
thắn mà khéo léo đủ gợi dẫn.
Tôi không phải
là người nghiên cứu lịch sử; lại cũng không phải là nhà văn hoặc nhà lý luận
phê bình văn học. Tôi chỉ là người lính suốt thời trai trẻ xông pha trận mạc,
nhưng yêu thích văn học, ham đọc sách hoặc khi cao hứng thì viết văn, làm thơ.
Sau khi đọc khá kỹ tập bản thảo tiểu thuyết “ KẺ SĨ THỜI LOẠN ” dày hơn 200
trang khổ A4 với kết cấu 8 chương của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, ở tư cách độc giả,
tôi có đôi điều cảm nhận:
Trước hết,
tôi hoan nghênh nhà văn Vũ Ngọc Tiến đã chọn phương pháp khá mới lạ để viết tiểu
thuyết lịch sử. Theo tác giả, đây là loại hình “Tiểu thuyết giáo trình” dùng tiểu
thuyết để giảng về một phân kỳ lịch sử nên vừa có phần KỂ vừa có phần GIẢNG
thông qua hồi ức hoặc lời thoại của các nhân vật xưa và nay. Cách viết này tuy
chưa xuất hiện nhiều ở nước ta, nhưng thật sự hấp dẫn người đọc, dễ nhớ và dễ cảm
thụ.
Như chúng ta
đều biết và yêu thích, Tam quốc diễn nghĩa và Thủy Hử là hai kiệt tác văn học
Trung Quốc của hai nhà văn vĩ đại La Quán Trung và Thi Nại Am. Nhiều năm qua,
hai kiệt tác văn học đó đã được dựng thành những bộ phim sử thi rất hoành
tráng, có giá trị cao cả về tư tưởng và nghệ thuật. Nó giúp cho các thế hệ người
Trung Quốc hiểu sâu về lịch sử nước mình ở hai giai đoạn vô cùng phức tạp; đồng
thời cho họ những bài học đắt giá về sự hưng phế của các triều đại, cách đối
nhân xử thế ở đời. Thử nghĩ, nếu chỉ bằng phương pháp học lịch sử thông thường,
làm sao dân nước họ có được những hiểu biết như thế?...
Thời nào cũng
vậy, tri thức lịch sử là điều rất cần thiết cho mọi công dân. Tuy nhiên, từ nhiều
năm nay, một thực tế là,sự hiểu biết về lịch sử của nhiều người là nông cạn, thậm
chí có trường hợp rất ngô nghê khi nói về lịch sử. Trong các trường phổ thông
nhiều học sinh ngại môn Lịch sử. Học sinh cho đó là môn phải học thuộc lòng với
quá nhiều kiến thức về sự kiện, số liệu, nhân vật, nguyên nhân, diễn biến, kết
quả... với bao nhiêu giai đoạn, thời kỳ. Vì thế, với môn Lịch sử các em cảm thấy
thiếu hứng thú, học một cách thụ động. Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục lịch sử
cho rằng, Chương trình môn Lịch sử hiện hành ở bậc phổ thông nặng về kiến thức
cụ thể hơn là kỹ năng, phương pháp phân tích, đánh giá nên việc kiểm tra và
đánh giá cũng thiên về “trả bài” hơn thông hiểu, vận dụng, liên hệ thực tế. Điều
đó, vô hình chung làm cho các em hiểu lịch sử đơn giản chỉ là nhớ những gì xảy
ra trong quá khứ, những chuyện đã qua từ lâu, không liên hệ gì đến hiện tại và
càng không có liên quan gì đến tương lai. Thiết nghĩ, đổi mới phương pháp dạy
và học môn lịch sử là một vấn đề cực kỳ quan trong. Trong bối cảnh đó, viết tiểu
thuyết lịch sử - coi đây như một cách dạy lịch sử - như nhà văn Vũ Ngọc Tiến đã
và đang làm là một việc rất có ý nghĩa, đáng trân trọng.
Trở lại với
tiểu thuyết KẺ SĨ THỜI LOẠN , nội dung đề cập trong tiểu thuyết này thực ra là
hai cốt chuyện được cài đan xen kẽ nhau sau từng chương. Anh Vũ Ngọc Tiến có
nói rằng, câu chuyên thời đương đại như một “ chiếu nghỉ” cho độc giả khi leo
lên bậc thang của câu chuyện lịch sử. Với tôi, mỗi câu chuyện có những sắc thái
riêng, ý nghĩa riêng. Và cái “ chiếu nghỉ ” đó thật sự cũng không kém phần hấp
dẫn người đọc - nhất là đối với bạn đọc trẻ.
Nhìn lại lịch
sử nước nhà, số phận bất hạnh đã khiến dân ta chìm đắm trong các cuộc nội chiến
lớn: chiến tranh Lê- Mạc (1527- 1592); Trịnh - Nguyễn phân tranh (1592- 1765),;
chiến tranh Tây Sơn với các chúa Trịnh, chúa Nguyễn (1771- 1802). Theo đó, vào
nửa cuối thế kỷ 18 chiến tranh liên miên giữa các thế lực Đàng Trong, Đàng
Ngoài và Tây Sơn, khiến dân chúng một thời gian dài vô cùng cực khổ, chết chóc,
loạn ly. Và ngay trong từng thế lực vẫn luôn luôn có các phe phái tranh giành ảnh
hưởng lẫn nhau. Bàn cờ quyền lực trong xã hội Đại Việt nửa cuối thế kỷ 18
với những liên minh và đối địch, tạm thời hay lâu bền, dựa trên căn bản
quyền lợi thiết thân được tái hiện một cách phức tạp. Trong thời kỳ lịch sử
đó, ngoài những nhân vật lịch sử tiêu biểu nhất như Nguyễn Huệ - Quang Trung,
Nguyễn Ánh - Gia Long, thì đi liền theo đó phải kể đến sự xuất hiện nhân vật
Nguyễn Hữu Chỉnh (1740- 1787). Và ông cũng chính là đối tượng phản ánh của tác
giả cuốn KẺ SĨ THỜI LOẠN ...
Sự thật lịch
sử là thế nào khi đánh giá về nhân vật lịch sử Nguyễn Hữu Chỉnh trong một thời
kỳ hỗn mang phức tạp của đất nước; làm sao thật công minh, khách quan dựa trên
những chứng cứ tư liệu lịch sử cụ thể?
Nguyễn Hữu Chỉnh
quê ở làng Cổ Đan (nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) là người bộc
lộ trí thông minh từ rất sớm, đến tuổi trưởng thành được học tập rèn luyện trở
nên văn võ song toàn. Mặc dù rất giỏi giang và nuôi chí lớn, nhưng cuộc đời ông
là cả một bi kịch, long đong lận đận. Bi kịch đời ông là sự nỗ lực bứt phá ra
ngoài hoàn cảnh đi tìm minh chủ để thi thố tài năng và cũng đã lập nhiều công lớn.
Song, ông luôn bị ngờ vực, đều không được tin dùng (hoặc chỉ tận dụng tài năng
của ông khi cần thiết, nhưng vẫn đố kỵ, ngờ vực, sẵn sàng trừ khử ), để rồi nửa
đường đứt gánh. Cuối cùng, vào năm 1787, tình thế buộc Nguyễn Hữu Chỉnh phải tự
mình làm minh chủ, tự lập một con đường tự giải phóng năng lực và thực hành
tham vọng chính trị của mình, dẫn quân Cần Vương về Thăng Long tạo ra một bước
ngoặt lịch sử. Nhưng đáng tiếc, do không gặp thời, ông không thỏa nguyện, bị thất
thế và phải ngậm oan, bị hành hình chết thảm. Cái chết của Nguyễn Hữu Chỉnh là
bi kịch chung cho giới kẻ sĩ Bắc Hà giữa thời tao loạn, vận nước suy vi.
Từ xưa đến
nay, khi đánh giá về Nguyễn Hữu Chỉnh, các nhà nghiên cứu lịch sử và phần đông
người đời đều coi ông là nhân vật lịch sử khá phức tạp, mang tính 2 mặt “anh
hùng & gian hùng” - Trong đó mặt “
gian hùng ” và “ cơ hội ” được coi là nổi trội, chính yếu”. Sự thật lich sử là
thế nào?!
Tôi thật sự tâm
đắc khi đọc bài “ CON CẮT BIỂN” của Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Có thể nói, đây là một
bài viết công phu, có cái nhìn khách quan, toàn diện và phân tích kỹ về con người
Nguyễn Hữu Chỉnh trên từng phương diện. Bằng sự viện dẫn đánh giá về Nguyễn Hữu
Chỉnh của sử gia và những người đương thời như: Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng
Cơ, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ, Vũ Văn Nhậm, … Thực ra, tất cả đều là những lời
nói từ một phía, xuất phát từ sự đố kỵ, ghen ghét, nghi kỵ để rồi kết tội Nguyễn
Hữu Chỉnh là bất trung, phản trắc, lật lọng. Nhưng khi xem xét các cứ liệu lịch
sử - cả phát ngôn lẫn hành động của Nguyễn Hữu Chỉnh - ngay từ thời theo Quân
Việp - Hoàng Ngũ Phúc, Quận Huy - Hoàng Đình Bảo và sau đó phò tá Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, rồi phò tá Vua Lê, thì chưa tìm thấy bất cứ chứng cứ nào thể hiện sự
bất trung, phản trắc của ông. Có câu chuyện sau khi giành được Phú Xuân, Nguyễn
Hữu Chỉnh hiến kế với Nguyễn Huệ thừa thắng tấn công đánh Chúa Trịnh ở Đàng
Ngoài, thì Nguyễn Huệ do dự ngại ngần lo sợ sự chống đối của kẻ sĩ Bắc Hà. Trước
tình cảnh đó, Nguyễn Hữu Chỉnh tỏ ra thực thà đến thành vụng về khi nói:
"Nhân tài Bắc hà chỉ có mình tôi mà thôi". Ðó là sự thực, bằng cớ là
vua Lê Chiêu Thống mấy lần phải triệu Chỉnh ra cáng đáng việc nước. Chính sự vụng
về này, chứng minh Nguyễn Hữu Chỉnh chưa hề nghĩ đến chuyện bỏ Tây Sơn. Mãi tới
khi anh em nhà Tây Sơn bí mật lẳng lặng quay về Nam, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại
Thăng Long với ý định mượn tay các sĩ phu Bắc Hà trừ khử, thì tới bước đường
cùng Nguyễn Hữu Chỉnh mới tự lựa chọn cho mình một lối khác. Như vậy là, từ đầu
đến cuối, những người khác có âm mưu và hành động diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Còn lại,
không có dấu hiệu Nguyễn Hữu Chỉnh có hành động “ gian hùng” chống lại các chủ
cũ của mình cũng như đối với anh em nhà Tây Sơn và Vua Lê. Nhìn một cách tổng
thể, Nguyễn Hữu Chỉnh là một viên tướng giỏi, văn võ song toàn, có công lớn
trong việc phò giúp Tây Sơn đánh sập hai tập đoàn phong kiến Chúa Nguyễn ở Đàng
Trong, Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, trước sau ăn ở có nghĩa khí không kém ai, hành
động tàn nhẫn không hơn ai, song gặp toàn nghịch cảnh, suốt đời lận đận. Ðã
không gặp thời, không thỏa chí nguyện, ngậm oan chết thảm mà còn bị người đời
phỉ báng. Khách quan mà nói, lịch sử đối xử với Nguyễn Hữu Chỉnh là oan uổng,
chưa công bằng.
Lịch sử diễn
ra một lần, nhưng viết lại lịch sử, định vị giá trị của lịch sử - trong đó có
những nhân vật là trung tâm lịch sử - thì lại diễn ra nhiều lần và có nhiều trường
hợp có cách thể hiện trái chiều, đối nghịch nhau. Điều đó cũng là bình thường,
dễ hiểu. Lệ thường, sự đánh giá sự kiện và con người lịch sử đều qua lăng kính
và theo tâm thế chủ quan của người cầm bút. Mà nói chung, ở mọi thời đại, người
viết sử đều là viết theo (tuân theo) ý chí của thế lực cầm quyền. Lịch sử là
khách quan, công bằng. Để đạt được sự khách quan, công bằng khi đánh giá một sự
kiện, một nhân vật lịch sử, trong nhiều trường hợp là không dễ chút nào. Có nhiều
người bị oan khiên rất nhiều năm, sau đó mới được chiêu tuyết. Với độ lùi của
thời gian, kết cục của lịch sử và những chứng cứ tư liệu lịch sử xác đáng, người
ta có thể giũ bụi thời gian, gạt bỏ những định kiến hình thành từ nhà cầm quyền
và cả trong giới sử học cũng như của dân chúng trong quá khứ.
Thành công của
nhà văn Vũ Ngọc Tiến khi viết tiểu thuyết lịch sử ĐỜI KẺ Sĩ là đã dựng lên một
bức tranh toàn cảnh có hồn và rất chi tiết về cuộc chiến, về sự tranh giành thế
lực giữa các bên, với nhiều sự kiện lịch sử sống động, đa dạng phong phú và những
nhân vật có tính cách, sở trường, sở đoản riêng. Điều đó làm cho người đọc cảm
thấy thật sự hấp dẫn trên từng trang sách.
Cùng với quá
trình tái hiện lịch sử, với cách viết 2 trong 1, tác giả Vũ Ngọc Tiến viết thêm
cốt truyện ở thì hiện tại về cuộc tình éo le giữa trí thức Duy Thiện và nghệ sĩ
Hoàng Lan. Họ đều xuất thân thân từ gia đình trí thức danh giá, đã có nhiều
công lao đối với cách mạng. Toàn bộ cốt truyện ở thì hiện tại xoay quanh cuộc
giải thoát cho Duy Thiện khỏi Viện tâm thần tỉnh H do Hoàng Lan và những người
bạn thực hiện. Cặp đôi Duy Thiện - Hoàng Lan gắn bó với bao kỷ niệm từ thuở ấu
thơ - một tình yêu học trò thơ mộng. Như một cơ duyên, năm 1966 học hết cấp 3
hai người cùng được phân công đi du học ở Nga. Trong hoàn cảnh mới, tình yêu của
họ như được chắp cánh với những khát vọng và những dự định đẹp đẽ cho tương
lai.
Bố Duy Thiện
là học giả Nguyễn Hữu Đăng - hậu duệ của Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh - nhà
trí thức danh tiếng có công tham gia sáng lập câu lạc bộ Khai Trí Tiến Đức hồi
đầu thế kỷ 20 thời thuộc Pháp. Ông đã ủng hộ Chính phủ gần như toàn bộ tiền bạc
của gia đình trong tuần lễ vàng năm 1946 và tình nguyện đưa cả gia đình lên Việt
Bắc kháng chiến chống giặc.Trong chiến dịch thu đông năm 1947, giặc Pháp đã
điên cuồng bắn chết cả hai ông bà và 5 đứa con lớn. Duy Thiện là đứa con út mới
20 tháng tuổi may mắn còn sống sót. Đến tuổi trưởng thành, Duy Thiện là một con
người thông minh, vốn kiến thức phong phú sâu rộng, tính cách thẳng thắn, bộc
trực. Sau khi tốt nghiệp Tiến sỹ ngành Di truyền học ở Nga, về nước anh “ bị ”
phân công làm việc trái nghề tại Trung tâm Khoa học Kỹ thuật nông lâm sản thuộc
Ủy ban Khoa học Kỹ thuật tỉnh H và là người thực thi công việc dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của những con người dốt nát, bất tài, thực dụng.
Bước vào thời
đất nước mở cửa, tỉnh H ồ ạt tiếp nhận đầu tư nước ngoài, các khu công nghiệp mọc
lên, thêm chủ trương xây dựng mở rộng thị xã nâng cấp lên thành phố. Đi liền
theo đó là sự cấu kết trục lợi tham nhũng của những người chủ trì trong bộ máy
quyền lực, hình thành “ nhóm lợi ích ” - thực chất đó là băng nhóm maphia - thao
túng cả chính trị và kinh tế ở địa phương với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt,
nham hiểm.
Với sự hiểu
biết và bản lĩnh của mình, Duy Thiện đã làm gửi đơn khắp nơi tố cáo tình trạng
tham nhũng, ô nhiễm môi trường của tỉnh H. Hơn nữa, anh còn giúp nông dân làm
văn bản đấu lý chính quyền trong việc cưỡng chế giải phóng mặt bằng. Bởi thế,
các thế lực “ lợi ích nhóm” coi Duy Thiện là một “ cái gai ”, một phần tử nguy
hiểm cần phải dẹp bỏ. Họ đã vu khống anh bị bệnh điên và tống anh vào Bệnh viện
Tâm thần. Từ người khỏe mạnh bình thường nhưng được cấp có thẩm quyền “ chỉ thị
” nhốt cách ly và “điều trị bằng các toa thuốc đặc hiệu”, thì Duy Thiện đích thị
trở thành một người tâm thần nặng. Thực chất, Duy Thiện cũng là một mẫu bi kịch
của một kẻ sĩ thời nay.
Hoàng Lan là
con gái của học giả Hoàng Thiếu Bảo - một trí thức yêu nước, là Đại biểu Quốc hội
và là Uỷ viên Mặt trận Tổ quốc thành phố. Từ thuở thiếu thời Hoàng Lan đã xinh
đẹp, càng lớn càng xinh đẹp, một vẻ đẹp kiêu sa như các tiểu thư quyền quý.
Nhưng một tai nạn chính trị của gia đình đã ập đến, nó là biến cố như là sự đun
đẩy của thời cuộc và số phận. Năm 1967, vị học giả danh tiếng Hoàng Thiếu Bảo bị
oan khiên, bị bắt giam vì được cho là dính dáng đến một vụ án chính trị của thời
đó.Thời gian học giả Hoàng Thiếu Bảo bị bắt giam và chết trong tù thì gia đình
ông rơi vào sự khủng hoảng, hệ lụy trầm trọng, cay đắng xót xa. Năm 1971, sau
khi tốt nghiệp Nhạc viện Tchaicovsky ở Nga, Hoàng Lan sang định cư ở Pháp rồi
sau ở Mỹ và số phận đã xui khiến bà gặp được David Brown - chàng trai người Mỹ
giàu có, tốt bụng, mê nhạc cổ điển và hết lòng thương yêu vợ. David Brown chết
trong một vụ tai nạn máy bay khi đi làm từ thiện ở Châu Phi. Nhiều năm sau đó,
Hoàng Lan được thừa kế khối tài sản khá lớn từ gia đình chồng, và bà vẫn kiên
trì thực hiện tâm nguyện của chồng, trích nửa phần tài sản thừa kế làm từ thiện
cho các nước nghèo ở châu Phi, Mỹ La Tinh. Lần này về nước bà đã tìm được Duy
Thiện, hy vọng nối lại tình xưa. Bà cũng có nguyện vọng chuyển tiền về nước đầu
tư một một dự án nhân đạo cho bệnh nhân dân nghèo và vài dự án kinh tế cho người
thân... Sau biết bao biến cố trong cuộc đời, với khát vọng cháy bỏng, nay nhà
trí thức Duy Thiện và nghệ sĩ- đại gia Hoàng Lan được may mắn tái ngộ trong ngập
tràn hạnh phúc. Đấy là một kết cục có hậu.
Trên “ cái
chiếu nghỉ ”- tức là nói về câu chuyện của thời đương đại - trong tiểu thuyết KẺ
SĨ THỜI LOẠN ngoài nhân vật trung tâm là Duy Thiện, Hoàng Lan, nhà văn Vũ Ngọc
Tiến đã đưa ra nhiều mẫu nhân vật, nhiều sự kiện, nhiều chi tiết, nổi lên nhất
là về sự tha hóa, biến chất của những cán bộ có chức có quyền với những âm mưu
thủ đoạn tham nhũng kinh tế lẫn chính trị ở tỉnh H, gây cho nhân dân biết bao
thiệt hại. Đó như sự cập nhật thông tin với những trang văn mang hơi hướng phóng
sự điều tra các vụ án.
Bao giờ và ở
đâu cũng vậy, đặc trưng của xã hội là sự đan xen giữa cái tốt đẹp và cái xấu
xa. Vấn đề là sự khác nhau về tính chất, quy mô và phạm vi ảnh hưởng. Khi cái tốt
thắng thế thì xã hội thịnh vượng. Ngược lại, khi cái xấu lên ngôi, thì xã hội
suy vi. Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh giữa một bên là những người trung kiên
vì lợi ích của nhân dân, của cộng đồng với phía bên kia là đại diện cho lợi ích
nhóm, diễn ra quyết liệt, lâu dài, một mất một còn, mà nhiều khi chưa phân thắng
bại.
Đôi điều cảm
nhận của tôi về tiểu thuyết KẺ SĨ THỜI LOẠN là vậy. Những đánh giá về văn
chương, học thuật xin nhường lời cho các nhà phê bình, lý luận văn học.
Chân thành
cám ơn nhà văn Vũ Ngọc Tiến đã gửi bản thảo cho tôi đọc trước khi ra mắt một tiểu
thuyết hay, có nhiều ý nghĩa!
Mỹ Đình,
Tháng Chạp năm Đinh Dậu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét