Menu ngang

Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2015

                          NGUYỄN DU - THIÊN TÀI : 
                  VẤN ĐỀ ĐÃ QUEN MÀ CÒN LẠ

 ( Nhân dịp đón nhận danh hiệu Danh nhân văn hóa Nguyễn Du được         Unesco tôn xưng và kỷ niệm 2015)
                                      
                                                          Giáo sư Nguyễn Đình Chú

      Đánh giá tài năng của con người trong cuộc sống thì không gì cao bằng hai chữ thiên tài. Với văn chương, cũng đã có các thuật ngữ như: văn hào, thi hào, đại văn hào, đại thi hào. Nhưng vẫn ít nhiều sau hai chữ thiên tài.
       Ở Việt Nam ta, trong bảng giá văn chương, đó đây, thuật ngữ thiên tài đã được dành cho Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương… Nhưng nhiều hơn một ít vẫn là với Nguyễn Du. Cho nên nói đã quen là bởi thế.
       Mà còn lạ là bởi nói thiên tài nhưng hầu như chưa giới thuyết thiên tài là gì trong khi thiên tài là một hiện tượng không kém phần bí ẩn. Nói Nguyễn Du thiên tài nhưng biểu hiện cụ thể ở những phương diện nào thì chưa rõ mặc dù đã nói được không biết bao nhiêu điều về cái hay cái đẹp của Nguyễn Du, đặc biệt là với Truyện Kiều. Trong khoa học, phải chăng có thể nói thành tựu như thế thì chưa vượt hẳn trạng thái implicite ( chưa tường minh) để tiến tới trạng thái explicite ( tường minh), chưa thoát hẳn trạng thái miêu tả, liệt kê để đến trạng thái phát hiện bản chất , phát hiện qui luật.
       Bài viết này chưa chăc đã đưa đến kết quả gì. Nhưng động cơ là muốn vươn tới sự tường minh để vấn đề đã quen được quen hơn, còn lạ sẽ bớt lạ bằng các thao tác  sau đây:
1-   Chọn một cách giới thuyết tối ưu dù là tương đối về khái niệm thiên tài nhằm tạo khái niệm công cụ chủ lực cho việc giải mã vấn đề ở Nguyễn Du.
2-   Với khái niệm công cụ chủ lực đó, một mặt dựa vào thành tựu phong phú của tiền nhân đối với Nguyễn Du; mặt khác tìm cách dọn dường để đến được thiên tài Nguyễn Du và từ đó mong chỉ ra được những  biểu hiện tinh túy nhất, đích đáng nhất, có ngầm so sánh với đại thi hào văn hào khác của dân tộc khi nói Nguyễn Du - thiên tài.
      Cuối cùng, vẫn xin coi đây là chuyện nêu vấn đề và làm thử. Mong có được sự chỉ bảo, chung sức tiếp theo của các vị thức giả, đặc biệt là các nhà Kiều học, Nguyễn Du học.
                                

                                                    *
                                               *        *
   

     Trong bảng giá về tài năng của con người với cuộc sông, không có thuật ngữ nào cao giá bằng hai chữ thiên tài. Ngay đến hai chữ  vĩ đại phần nào vẫn dễ có hơn hai chữ thiên tài. Bới vĩ đại trong nhiều trường hợp không phải là thiên tài. Thiên tài vẫn hiếm vô cùng. Bởi không phải nước nào cũng có. Còn nhân tài thì dĩ nhiên là đứng sau nhiều so với thiên tài. Trong tiếng Pháp từ génie đã được Tự điển Pháp Việt của Đào Duy Anh dịch là thiên tài , kỳ tài, anh tài thì kỳ tài, anh tài vẫn  sau thiên tài. Nếu dịch là  thần đồng thì vẫn chưa bằng  thiên tài. Trong bảng giá văn chương, cũng đã có các thuật ngữ : nhân tài, thần đồng, văn hào, thi hào, đại văn hào, đại thi hào. Nhưng  vẫn sau thiên tài cả.
      Với  các tác gia văn học Việt Nam, trong thực tế nghiên cứu đánh giá , đó đây, hai chữ thiên tài cũng đã được dùng ở cấp độ tác gia là Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, ở cấp độ tác phẩm là Số đỏ của Vũ Trọng Phụng , Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh. Riêng Nguyễn Du thì vừa ở cấp độ tác gia vừa ở cấp độ tác phẩm là Truyện Kiều thì được dùng nhiều hơn. Nhưng với Xuân Diệu, Nguyễn Du cũng chỉ là đại thi hào cùng Nguyễn Trãi và Hồ Xuân Hương. Điều đáng nói là những người mệnh danh Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương là thiên tài, kể cả Số đỏ, Thi nhân Việt Nam là thiên tài, thì đều chưa thấy đâu giới thuyết thiên tài là thế nào. Trần Đăng Khoa khi mệnh danh  Thi nhân Việt Nam là thiên tài thì có nói” đây là người trời viết chứ không phải người đời viết”. Cách giới thuyết này cũng chỉ là một cách nói hay từ định nghĩa thông thường của các tự điển Hán Việt ví như với Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh : “ thiên tài là tài trời cho”.  Ngày Đặng Thái Sơn  được giải nhất quốc tế về Piano ở Ba Lan về nước, không it báo chí đã coi đó là thiên tài với một lý lẽ  đơn giản : Piano vốn là nhạc cụ của châu Âu. Vậy mà một học sinh  Việt Nam thuộc châu Á sang châu Âu chiếm giải nhất quốc tế thì là thiên tài . Đặc biệt trên Truyền hình Việt Nam, có vị Trưởng bộ môn Piano đã hào hứng  nói: “Đặng Thái Sơn là thiên tài. Nhưng dưới chế dộ ưu việt của chúng ta, rồi đây sẽ có  chục thiên tài như Đặng Thái Sơn”.. : Mác từng nói: “Chủ nghĩa xã hội không tạo ra được Raphael. Nhưng nếu cuộc sống có mầm mống Raphael thì chủ nghĩa xã hội đảm bảo cho mầm mống Raphael đó trở thành Raphael thực sự.”.Trong ý kiến của Mác, vế đầu là đúng 100%. Còn vế sau thì tùy ai muốn hiểu thế nào thì hiểu.
        Quả thật, thiên tài vẫn là một hiện tượng bí ẩn không dễ gì giải mã được mặc dù cũng đã có cách giới thuyết này nọ. Ví như theo Phật giáo thì thiên tài là sản phẩm của luật luân hồi, kiếp trước truyền lại cho kiếp sau và được các kiếp sau nâng cao mà có. Còn theo Gaethe  thì  chỉ một số  nước nào đó mới có thiên tài. Mà đất nước có thiên tài lại phải có một người có khả năng thành thiên tài mới có thiên tài, chứ không phải ai cũng có khả năng thành thiên tài. Đất nước đã có  người có khă năng thành thiên tài nhưng  với người này lại phải có một tình huống nào đó mới trở thành thiên  tài chứ không phải lúc nào cũng thành thiên tài.( Theo Hồ Ngọc Đại).

                                                  *
                                             *        *

      Với một quan niệm nghiêm ngăt như thế của Gaethe về thiên tài, liệu  có thể nói Nguyễn Du của Việt Nam ta là thiên tài trong văn chương không? Ở đây, tôi xin đi theo các vị đã mệnh danh Nguyễn Du là thiên tài mà cũng đã  diễn giải được nhiều điều rất quí báu nhưng ít nhiều vẫn đang ở trạng thái implicite , chưa thật tường minh, tự giác tới mức cần có  trước các vấn đề : Việt Nam ta có đáng coi là một đất nước có thiên tài không? môi sinh của thiên tài Nguyễn Du là gì? Thiên tài Nguyễn Dụ cụ thể là thế nào? Trước tình hình đó, việc làm của tôi là cố gắng được chút nào hay chút ấy để có thêm tính tự giác , explicite, tường minh trước các vấn đề vừa nêu. Thiên tài, đúng là hiện tượng còn bí ẩn. Nhưng một khi đã mệnh danh ai đó, hiện tượng nào đó là thiên tài thì không thể không tường minh trước những câu hỏi đó? Theo tôi:
         1).  Nguyễn Du là thiên tài bởi Việt Nam ta cũng là một đất nước có khả năng xuất hiện thiên tài, ở lãnh vực nào nữa thì xin để chư vị thức giả xem xét, bàn luận thêm. Ở đây chỉ nói trong phạm vi nghệ thuật Việt Nam với các loại hình cơ bản là kiến trúc , âm nhạc, hội họa và văn chương. Thì đây không phải là sự thật sao. Đất nước luôn luôn bị ngoại xâm và nguy cơ ngoại xâm, lại thêm thiên tai nặng nề thì lấy đâu ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kiến trúc. Có được một cái chùa Một Cột bé tẹo và một số đền chùa, lăng tẩm như thế thì đã sướng  rồi, chứ lấy đâu ra thành tựu kiến trúc đồ sộ như Kim tự  tháp của Ai cập, Đế Thiên Đế Thích của Cămpuchia, Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa, ngay cả tháp Luông của Lào…Chẳng đã có người nói, về kiến trúc của Việt Nam xưa thì thành quả lớn nhất chính là những con đê ngăn nước lũ. Về âm nhạc, quả có thành tựu dân ca phong phú tuyệt vời như thế  nhưng đó là sáng tác tập thể, biết ai là tác giả thiên tài trong dó. Mãi tới thời hiện đại mới có tân nhạc với nhiều tên tuổi cũng sáng danh nhưng ai là thiên tài? Khó nói quá. Trịnh Công Sơn như có người đã mệnh danh ư? Phải có thêm thời gian xem sao đã. Trước mắt thì không đơn giản đâu. Còn hội họa thì cũng có tranh làng Hồ, tranh Hàng Trống này nọ,,, nhưng cũng đến thời hiện đại mới có tên tuổi này khác nhưng đã có ai đáng gọi là thiên tài một khi mà họa phẩm chưa thấy đâu được đấu giá khủng trên trường quốc tế thì nói chi đến chuyện thiên tài. Trong khi đó với văn chương, chẳng cần gì cả, chỉ cần đạo đức, tâm hồn, trí tuệ và tài năng, thì ông A ông B, kể cả bà C bà D, hoặc là cứ bằng miệng mà phát ra và nhờ quần chúng truyền miệng để rồi được hậu thế ghi chép lại cho như trường hợp Hồ Xuân Hương,Tú Xương, hoặc chỉ với ít tờ giấy và cái bút cái nghiên mực là đã có tác phẩm trình làng và lưu danh hậu thế miễn là có giá trị đích thực  ở mức này, mức khác. Không ai nói rằng nền văn học Việt Nam là một nền văn học lớn. Nó vừa, nó nhỏ thôi, nhưng vẫn là một nền văn học đi bằng hai chân rất vững chãi là văn học dân gian truyền miệng cùng văn học viết và đã kết tinh theo qui luật  “ quí hồ tinh bất quí hồ đa”. Lịch sử văn học nghệ thuật của thế giới chẳng  đã có  hai qui luật kết tinh:  quí hồ đa đồ sộ quí hồ tinh bất quí hồ đa, bình đẳng với nhau. Quả thật như thế, ở đất nước  thời trung đại, văn chương vẫn là thành quả rực rỡ hơn cả và kết tinh theo qui luật “ quí hồ tinh bất quí hồ đa.”. Thiên tài văn chương của Nguyễn Du ắt hẳn đã được gieo trồng từ truyền thông văn chương ưu việt nổi trội đó của đất nước. Không có truyền thống văn chương ưu việt nổi trỗi đó thì có đâu thiên tài Nguyễn Du.
         2) Vậy thì môi sinh của thiên tài Nguyễn Du còn là gì nữa ngoài truyền thống văn chương? Như đã nói, thiên tài là hiện tượng  bí ẩn không dễ gì tạo ra nhưng với những gì liên quan tới thiên tài thì lại là điều phải nói và có thể nói. Khoa Kiều học nói riêng, Nguyễn Du học nói chung, từ lâu chẳng đã nói về môi sinh của văn nghiệp Nguyễn Du là xã hội Việt Nam ta ở nửa sau thế ký 18 đầu thế kỷ 19 trên các phương diện chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hóa, văn học nghệ thuật. Trong đó nổi lên là sự khủng hoảng triền miên không thể cứu vãn của chế độ phong kiến  dẫn đến sự  khổ cực nặng nề  của người dân  mà từ đó là sự vùng lên của phong trào nông dân khởi nghĩa , hào hùng là vậy, nhưng rút cục vẫn thất bại  trước sự phục hồi chế độ phong kiến phản động của triều Nguyễn . Cùng với sự khủng hoảng triền miên của chế độ phong kiến là sự rãn vỡ của ý thức hệ phong kiến, lại thêm sự  xuất hiện của  tầng lớp thị dân kèm theo sự manh nha của tâm lý thị dân. Từ đó là sự trổi dậy của trào lưu tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, bề thế, có nhiều yếu tố tiên bộ, hấp dẫn, nhưng bước sang đầu thế kỷ 19 thì cũng tàn lụi dần một khi chế độ phong kiến kèm theo là ý thức hệ phong kiến đã dược phục hồi. Những gì đã được nói như thế về môi sinh của thiên tài Nguyễn Du hẳn là vẫn có nhiều người đồng tình. Nhưng tôi muốn ít nhiều nghĩ khác, nghĩ thêm. Bởi thấy những gì được nói đó cơ bản vẫn thuộc hệ qui chiếu theo giai cấp luận, không phải là không có ý nghĩa gì khi nhìn vào giá trị phản ánh trong văn nghiệp của thiên tài Nguyễn Du nhưng nhìn chung thì lại chưa đủ cơ sở để nhìn vào toàn bộ kho báu tinh thần của  thiên tài Nguyễn Du… Phải có thêm hệ qui chiếu theo dân tộc luận và cả Đông phương luận nữa mới đủ.  “Nhà văn hóa tương lai” Nguyễn Ai Quốc chẳng đã nói từ năm 1924 ở Mátcơva trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ: “ Điều chỉnh học thuyết Mác và củng cố nó bằng Dân tộc học phương Đông( Hồ Chí Minh toàn tập. Tập I  in lần 2. NXB Chính trị quốc gia, phần phụ lục).(1). Dựa theo ý tưởng vô cùng lớn lao này tôi muốn mở rộng môi sinh liên quan tới thiên tài Nguyễn Du, không chi thuộc giai đoạn nửa sau thế kỷ 18 đầu thế kỷ19 mà là lịch sử  Việt Nam suốt cả thời trung đại cho đến thời Nguyễn Du. Trong đó có hai vấn đề cần được nhận thức lại, nhận thức thêm sao cho thật tường minh và đúng như nó vốn có:
              2.1. Thứ nhất, về chế độ chính trị là phong kiến với biểu trưng là chủ nghĩa tôn quân mà theo quan điểm Mácxit là lạc hậu, phản  dân chủ, bảo thủ, phản tiến hóa so với chế độ tư bản đại nghị, nhất là với chế độ xã hội chủ nghĩa tiến lên cộng sản chủ nghĩa xóa bỏ giai cấp, “ các tận sở năng các tận sở nhu” mà chưa thành hiện thực. Chẳng phải là từ khi Việt Nam ta tiến hành cuộc cách mạng vô sản thì hai nhiệm vụ phản đế và phản phong tuy ở buổi đầu có sự khác nhau ít nhiều giữa lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với những người học trò của Người, nhưng thực tế thì cũng đã thành đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam. Do đó mà sự lên án và  xóa bỏ chế độ phong kiến là điều không thể khác. Tuy nhiện, sự nhận thức về chế độ phong kiến Việt Nam ở thời trung  đại  không phải là không có chuyện đã được nói lại ở mức này mức khác. Ví như với nhà Hồ, nhà Mạc, họ Trịnh, thì đã có sự phiên án đáng kể . Nhờ thế mà hôm nay con cháu họ Hồ  đã có  thể công khai tự hào họ mình có năm đời vua . Giáo sư Phan Đăng Nhật đã ghi lại tên mình là Mạc Phan Đăng Nhật mà họ Mạc đã mấy trăm năm phải đổi thành họ Phan để tránh sự truy đuổi của nhà Lê. Ở Thanh Hóa, đền thờ chúa Trịnh Sâm được tái lập dưới một ngọn núi rất đẹp và được xếp hạng di tích lịch sử -văn hóa…Ngay với triều Nguyễn từng bị sử học Mácxit kết tội gay gắt nhất thì gần đây cũng đã được giảm đẳng nhất định. Nhưng ở đây điều tôi muốn nói lại và nói khác là với chế độ phóng kiến của thời trung đại ở cấp độ tổng thể, nói chung. Tôi nói lại là dựa trên nguyên lý tối thượng: khoa học là recherche ( tìm đi tìm lại) và cũng  theo một qui luật của sự sống mà ai đó muốn chối bỏ cũng không chối bỏ được. Ấy là: Không ai làm lại được lịch sử nhưng nhận thức lại lịch sử thì luôn luôn vẫn diễn ra.  Theo tôi, không chỉ sử gia mà hầu như mọi người chúng ta thời nay khi nói về chế độ phong kiến Việt Nam xưa đều đã bỏ quên một vế vô cùng quan trọng của nó là đức trị. Nó là chế độ phong kiến nhưng là phong kiến đức trị vốn là sản phẩm của một số nước ở phương Đông trong đó có Việt Nam ta. Phong kiến đức trị khác nhiều so với phong kiến thuần túy. Nhưng nói đến truyền thống đức trị của phong kiến phương Đông thì đã từng gặp ngay quan điểm cho rằng đức trị là  thua kém  pháp trị của phương Tây. Trong khi đức trị có cái hay của đức trịpháp trị không có, cũng như pháp trị có cái hay của pháp trịđức trị không có. Mặc dù cả hai vẫn chưa thể bằng phương án kết hợp đức trị với pháp trị trên cơ sở đức trị như Hồ Chí Minh đã muốn mà chưa thực hiện được. Dĩ nhiên, dù là đức trị hay pháp trị thì ở thời nào, chế độ nào cũng không tránh khỏi qui luật thiện ác tương tranh. Dưới chế độ phong kiến đức trị, về cái ác thì thôi miễn phải nói vì đã  rõ. Nhưng về cái thiện của nó thì quả là hậu thế đã lãng quên không ít. Đây là cả một vấn đề học thuật có ý nghĩa vô cùng lớn. Tiếc là chưa thấy đâu đặt ra. Để hiểu một chút về chế độ phong kiến đức trị, xin nhắc lại đây mệnh đề của Mạnh Tử mà Việt Nam ta cũng đã dón nhận: “ Dân vi quí , xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (  Dân là quí nhất, xã tăc - cơ đồ của đất nước -_ là thứ hai, vua là nhẹ) và  chưa nói về thực tế, chỉ nói trên phương diện diễn ngôn thì có cách nói nào tối ưu hơn thế không về quan điểm thân dân. Xã hội đức trị này đề cao Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tin thì đứng đầu là Nhân. Đề cao Nhân - Trí - Dũng thì đứng đầu vẫn là Nhân. Chúng ta nghĩ sao so với thời hiện đại trước sự thật này.Trong thời đại phong kiến đức trị này cũng  đã có một đời sống tâm linh rất đậm đặc mà trong đó có mặt tích cực có mặt tiêu cực. Mặt tích cực thì đã hỗ trợ rất lớn cho nền tảng đạo đức để đưa lại sự yên bình cho cuộc sống chứ không như thời đại mà có lúc đã không may xơi phải chủ nghĩa vô thần mà đến nay vẫn còn di hại. Có một sự thật nữa là chính ở thời phong kiến đức trị này, trên đất nước ta, nền giáo dục đã có được một triết lý giáo dục đúng là triết lý nhất, không gì bằng là “ nhân bất học bất tri lý” (người không học thì không biết lẽ phải),” ấu bất học, lão hà vi ”( Lúc nhỏ  không học, đến già biết gì mà làm), “ học nhi bất yểm, giáo nhân bất quyện”( học không biết chán, dạy không biết mỏi) và từ đó giáo dục thực sự đã là quốc sách hàng đầu bởi lẽ về cơ bản giáo dục là con đường độc đạo dẫn đến chấp chính, làm quan điều hành đất nước. Điều mà  hôm nay , đất nước  đã có chủ trương nhưng chưa làm nổi. Thời đại phong kiến đức trị này cũng là thời đại mà ý tưởng “ hiền tài là nguyên khí của quốc gia” không phải là chuyện nói cho vui mà thực tiễn đã không ít là như thế. Ngày nay, cũng nói “ hiền tài là nguyên khí của quốc gia” nhưng thực tế đang là thế nào , chúng ra đã rõ. Lại nói thêm về ông vua của chế độ quân quyền phong kiến mà hậu thế từng cho đó là người có quyền uy  tối thượng, tuyệt đối. Tốt thì dân được nhờ. Xấu thì dân phải chịu. Thua xa chế độ tổng thống có hiến pháp, có nghị trường. Nhìn bề ngoài thì đúng là thế. Nhưng thực tế lại không phải như thế. Bởi ở đây có một thuật ngữ là thiên tử, vua là con trời mà người đời nay hoặc đã đặt ra ngoài bộ nhớ, hoặc cho là siêu hình vô nghĩa, thậm chí còn cho đó là chuyện tạo  thần quyền để tăng thêm quân quyền. Xin  nói ngay hiểu như thế là hoàn toàn sai. Cần nhớ rằng  thuật ngữ thiên tử còn kèm theo đó là mệnh đề “ thế thiên hành đạo” ( thay trời thực hành đạo lý trong nhân dân). Quả  đây là một biểu tượng siêu hình mà  lý thuyết duy vật của  phương Tây không hiểu nổi. Nó là  sản phẩm của năng lực người mà muôn loài khác không có. Nó là siêu hình nhưng tác dụng thực tiễn của nó lại vô cùng lớn. Vua là con trời thì có nghĩa vua chưa hẳn là người có quyền  uy tối thượng. Vì trên vua còn có cha là ông trời (thuộc thuyết thiên mệnh của Nho giáo). Ông trời là biểu tượng siêu hình nhưng thực tế đã ngự trị trong tâm trí ông vua để theo dõi, kiểm tra, uốn nắn , đôn đốc  không chỉ hành vi mà quan trọng hơn là ý nghĩ riêng tư  thầm lặng của ông vua hướng theo sứ mệnh  “thế thiên hành đạo” với nhân quần. Xét về tác dụng thực tiễn, chắc gì nó đã kém thua chế độ Tổng thống với hiến pháp. Không ít trường hợp cụ thể nó còn hơn. Để rõ vấn đề hơn xin mời quí vị hãy đọc lại mấy câu thơ thực và luận trong bài thơ “ Dụ thần liêu”mà có người nói là của vua Thành Thái, nhưng học giả Hoàng Xuân Hãn  nói là của vua Minh Mạng, để biết chút ít một ông con trời mà người thời nay đã coi rẻ  là thế nào : “… Nhất bôi mỹ tửu quần sinh huyết / Bản trản hòa canh bách tính cao /  Thiên lệ lạc thời nhân lệ lạc / Cao thanh ca xứ khấp thanh cao” (  Chén rượu quí mà các người uống là máu của quần sinh đấy / Nửa bát canh ngon mà các ngươi xơi là mỡ của trăm họ đây / Lúc trời tuôn nước mắt ( mưa) cũng là lúc người tuôn nước mắt / Ở chốn kinh đô nơi cất cao tiếng hát  cũng là nơi cất cao tiếng khóc).  Tiếng lòng trong lời thơ này là thực hay giả ? Xin thưa : thực 100% đấy, Nó là sản phẩm của thời đại phong kiến đức trị của Việt Nam ta ở thời trung đại, thuộc phía sáng bên cạnh phía tối là thế đấy.(2)
          2.2. Thứ hai, về đời sống tinh thần và văn hóa của đất nước nói chung: Thì tôi cũng vẫn muốn mở rộng ra cả thời trung đại khi nghĩ đến thiên tài Nguyễn Du, chứ không dừng lại ở phạm vi nửa sau thế kỷ 18 đầu thé kỷ 19 mặc dù đây là môi sinh trực tiếp của con người, của cuộc đời và cũng là sự xuất hiện thiên tài Nguyễn Du  Bởi  nếu chỉ ngừng ở giai đoạn đó thôi thì cũng chưa đủ cơ sở để cắt nghĩa thiên tài Nguyễn Du. Mà mở rộng  thì cũng phải ít nhiều có  cách nhin khác trước, kể cả với hiện nay. Bởi ở đây quả có một sự thật rất lớn mà tiếc rằng giường như  đến nay chưa mấy  ai nhận thấy. Ấy là từ ngày đất nước có cuộc đụng độ Đông Tây thì trên phương diện tinh thần và văn hóa, Phương Tây đã nâng đỡ  phương Đông rất lớn nhưng đồng thời nó cũng áp đảo  phương Đông  một cách  cũng rất lớn. (3) Sự áp đảo là nằm trong qui luật tương quan mạnh yếu. Mạnh nên áp đảo được. Yếu nên bị áp đảo. Nhưng mạnh không phải cái gì cũng hay. Vẫn có cái dở. Còn yếu  không phải cái gì cũng dở. Vẫn có cái hay. Có điều một khi đã có sự áp đảo thì cái dở của kể mạnh cũng thắng thế. Còn cái hay của kẻ yếu cũng thất thế. Đúng vậy. Từ ngày có cuộc đụng độ Đông Tây này, hầu hết các triết thuyết nhân sinh của phương Đông tồn tại đã hàng mấy ngàn năm đều bị rơi vào địa vị bà con nghèo, thậm chí bị cho ra rìa.  Học thuyết âm dương của Kinh Dịch chính là sự phát hiện qui luật bản chất nhất của sự sống nói chung là luật đối trọng ( contre poids) thì bị cho là siêu hình vô nghĩa (4). Nho Phật Lão vốn là một kho báu về triết thuyêt nhân sinh đều bị coi rẻ. Nhất là Nho giáo thì còn bị dồi lên dồi xuống đến thảm hại. Oái oăm nhất là, không phải người phương Tây mà chủ yếu lại bị người phương Đông dồi do choáng ngợp trước văn minh phương Tây. Mà người dồi đâu phải do ít học. Ở Trung Hoa, trước kia  Lỗ Tấn đã dồi. Sau này Quách Mạt Nhược  còn dồi hăng hơn. Ở nước ta, học giả Trần Trọng Kim là người cố bảo vệ lấy phần giá trị tích cực của  Nho giáo thì bị cho là phục hồi văn hóa phong kiến phản động để phục vụ chính sách văn hóa nô dịch của thực dân. “Ông già Bến Ngự”( Phan Bội Châu) cũng  cố thắp sáng lại ngọn đèn Khổng học  (Khổng học đăng) thì bị cho là “ lại giống”. Rồi nữa , y học, võ thuật, thể thao, y phục, trò chơi…cho đến cả quan niệm và phương pháp tiếp cận văn chương …đã tồn tại với phương Đông bao đời và không ít cao diệu , hấp dẫn như thế mà đều bị xuống giá cả. Riêng Việt Nam ta, lại có chuyện thay chữ viết Hán Nôm sang quốc ngữ Latinh hóa trong khi cả khu vực không đâu có chuyện đó, thì cái được quả không nhỏ mà ai cũng đã thấy là nó góp phần đắc lực vào công cuộc hiện đại hóa nền văn hóa văn học dân tộc. Nhưng cái mất thì cũng không nhỏ chút nào, tiếc là chưa được nhiều người nhận ra là việc thay chữ viết này đã tạo ra một sự gián cách lịch sử khá tai hại. Cố đạo Puginier , người cố động chính quyền thực dân Pháp nhanh chóng thay chữ viết ở Việt Nam chẳng đã nói:  “thay chữ viết là thay cả một nền văn hóa”(5). Toàn quyền Decoux năm 1943, cũng đã nhận tội:  “thay chữ viết làm cho con cháu người Việt Nam không hiểu tổ tiên của họ”(6). Cả đến thời nay, trong khi say sưa vận dụng các lý thuyết về giai cấp, về ý thức hệ,về hình thái xã hội, về thượng tầng kiến trúc, về chủ nghĩa vô thần, một cách không tỉnh táo, cũng đã gây ra nhiều tốn thất trong  đó có sự hiểu sai, thậm chí là ít nhiều còn phũ phàng với kho báu tinh thần và văn hóa của truyền thống dân tộc. Trong hoàn cảnh văn hóa lịch sử đó, hiện tượng “ dĩ Âu vi trung” đã diễn ra trong đời sống Việt Nam ở nhiều lãnh vực là một điều cần được thức tỉnh nhưng chưa thấy thức tỉnh gì đáng kể. Nguyễn Du  đã phải chung số phận đó. Có vị nghiên cứu về triết lý trong Truyện Kiều khi đụng đến thuyết tài mệnh tương đố  thì chẳng đã cho đó là  triết lý duy tâm tiêu cực của Nho giáo mà Nguyễn Du đã xơi phải. Có vị khi đụng thuyết nhân quả của đạo Phật thì cho rằng Nguyễn Du nói vậy mà không phải vậy, “Thúy Kiều hiếu trọng tình thâm” nếu theo luật nhân quả thì kiếp sau mới được hưỏng hạnh phúc chứ đâu kiếp này đã được tái hợp. Còn bọn Ưng Khuyển ác ôn kia nếu bị trừng phạt thì cũng sang kiếp sau chứ đã bị ở kiếp này. Đụng đến câu Kiều ” Tu là cõi phúc tình là giây oan” thì cũng cho rằng Nguyễn Du tuy chịu ảnh hưởng  Phật giáo nhưng nhờ cảm quan hiện thực mà đã thể hiện ngược lại trong tác phẩm : tu là buồn thỉu buồn thiu, tình mới là cõi phúc, Trong khi vấn đề Phật giáo với Nguyễn Du  nói chung, Truyện Kiều nói riêng là vấn đề không đơn giản chút nào. Hãy đọc Thả một bè lau của  Nhất Hạnh (7) để thấy mối quan hệ giữa Phật giáo với Truyện Kiều là thế nào từ góc nhìn của một vị thiền sư học giả. Riêng tôi vẫn muốn  nói rằng, nếu Việt Nam ta không có Phật giáo đã được Việt Nam hóa như thế thì dễ thường cũng không có thiên tài Nguyễn Du… Hẳn là có vị lại còn nhớ chuyện nhà Kiều học sáng danh thời nay là Lê Đình Kỵ có lần đã bị ăn đòn khá đau về tội phủ nhận tính giai cấp trong nghiên cứu văn học vì ông chủ trương nghiên cứu nàng Kiều khồng cần xét là thuộc giai cấp nào mà chỉ cần biết đó là một phụ nữ . Nhưng công trình sáng giá của ông Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du thì lại đã không tránh khỏi tình trạng  “dĩ Âu vi trung” khá điển hình bởi đã dùng các lý thuyết về trường phái văn học, về chủ nghĩa hiện thực vốn là sản phẩm tổng kết từ thực tiễn văn học châu Âu để giải mã Truyện Kiều.( 8).
        Đúng là phải thoát ra khỏi sự áp đảo của phương Tây đối với tinh thần và văn hóa phương Đông , cùng là tình  trạng “ dĩ Âu vi trung”  để từ đó mà phục nguyên lại được chừng nào hay chừng ấy kho báu tinh thần và văn hóa Việt Nam thời trung đại nhằm tạo điều kiện cho việc lý giải thiên tài Nguyễn Du đã đành mà còn có ý nghĩa lớn hơn nữa là tạo điều kiện cho việc xây dựng  “ một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” mà đất nước đang đeo đuổi nhưng xem ra còn không ít lúng túng.
        Những gì vừa nói trên đây là cần nhưng chưa đủ để tìm lại kho báu tinh thần và văn hóa của đất nước ở thời trung đại. Phải có thêm những thao tác khoa học sau đây  nữa:
            -  Phải bỏ qua tình trạng nhân danh khoa học mà bảo thứ này là mê tin, thứ kia là dị đoan một cách dễ dại, xô bồ để tìm hiểu lại kho báu tinh thấn trong đời sống tín ngưỡng dân gian thời trung đại trong đó có đạo mẫu mà có người đã cho đó là đặc sản Việt Nam (9).
            -  Hãy giã từ  tình trạng  tiếp nhận lý thuyết duy tâm duy vật  vốn là của châu Âu một cách không tỉnh táo để rồi coi thường, rẻ rúng, thậm chí phủ nhận những  triết lý trong kho báu tinh thần vô cùng phong phú và huyền diệu của phương Đông trong đó có Việt Nam ta. Mặt khác cũng phải tỉnh táo để nhìn lại thực chất giá trị của một số triết lý của phương Tây mà mình từng cho là thiên kinh địa nghĩa là gì.
            -  Cố gắng  tìm hiểu những gì thuộc Dân tộc học phương Đông  mà   “ nhà văn hóa tương lai”Nguyễn Ái Quốc đã đề xuất. Cụ thể là hãy tìm hiểu để nhận rõ chính xác bản chất,vai trò và vị trí của văn hóa Phật giáo trong nền văn hóa Việt Nam xưa kể cả nay là thế nào (10). Cần thấy nếu văn hóa dân gian là cỗi nguồn của văn hóa dân tộc thì chính văn hóa Phật giáo, chứ không phải văn hóa Nho giao, là cỗi nguồn của văn hóa bác học Việt Nam.  Phật giáo một khi  trở thành quốc giáo thì đã không biến mình thành độc đạo  độc trị mà biết tạo hợp lực là Tam giáo đồng nguyên nhưng mình vẫn có vai trò chủ lực. Nhờ đó mà có được những giá trị tinh thần tinh diệu, siêu đẳng nhất trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Có thể đồng ý với quan điểm cho rằng Việt Nam ta có lịch sử tư tưởng mà không có lịch sử triết học. Nhưng vẫn phải trả lời câu hỏi: sao các tác phẩm như Khóa hư lục của Trần Thái Tông, triết thuyết Cư trần lạc đạo của Phật hoàng Trần Nhân Tông ( 11)  lại không đáng xem là triết học ? Đúng là phải khám phá sâu sắc hơn nữa về kho báu tinh thần và văn hóa thời đại Lý Trần bởi đó là giai đoạn sáng chói nhất về tinh thần , tư tưởng Việt Nam. Còn Phật giáo một khi đã nhường địa vị quốc giáo cho Nho giáo thì về phần hồn trong cuộc sống của đất nước, văn hóa Phật giáo vẫn là chủ lực. Thời Lê Trịnh vẫn là thời xây dựng nhiều chùa chiền nhất trong đó có vai trò của giới cầm quyền(12). Đâu chỉ  nhân đân đau khổ  mà tìm đến cữa Phật . Vua chúa, tầng lớp quí tộc vẫn đến chùa để  được thêm phần hồn đấy chứ.  Tôi nói lại là nếu không có Phật giáo  thì chắc gì đã có kiệt tác thiên tài Truyện Kiều mà hồn vía, cốt lõi của nó chính là tiếng kêu:“ Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Nho giáo lấy đâu ra cơ sở cho tiêng kêu đó một khi Nho giáo còn bị quở trách về thái độ đối với phụ nữ.. Chưa nói là trên phương diện tư duy thì tư duy thiên về trực giác, tâm thức , kể cả vô thức của Phật giáo so với tư duy thiên về lý tính và ít nhiều cũng cứng nhắc của Nho giáo thì cuộc giao duyên với văn chương, nhất là với thơ ca, phần tương thích của Phật giáo nổi hơn cũng là điều dễ chấp nhận (13). Riêng với Nho giáo thì quả có phức tạp hơn mà muốn nhận chân về nó thì  phải trả lời đúng lại câu hỏi: Nho giáo là gì ? Là học thuyết chính trị - đạo đức hay học thuyết đạo đức- chính trị ? Chỉ đảo vị trí trước sau của hai từ đạo đứcchính trị một chút như thế nhưng  thực tế đã có hai hướng nhận diện Nho giáo rất khác nhau. Thêm nữa, cũng phải thấy Nho giáo đã đến Việt Nam ta theo hai qui luật chứ không một qui luật. Một qui luật  là nó đến theo con đường xâm lược của nhà Hán và các thế lực phong kiến phương Bắc  tiếp sau mà dĩ nhiên là phản dân tộc nhưng nó cũng đã phải cút theo một khi  lũ xâm lược phải cút. Một qui luật nữa là thuộc  tự thân của văn hóa trong đó có sự lan tỏa, hỗ trợ của một nền văn hóa lớn đối với các nền văn hóa thấp bé  trước hết là trong phạm vi khu vực. Với qui luật này thì một khi văn hóa xâm lược đã cút theo kẻ xâm lược nhưng riêng nó thì vẫn ở lại và góp phần  tích cực xây dựng phát triển văn hóa nơi nó du nhập mà với nó, văn hóa bản địa  đã có sự tiếp và biến, vừa đón nhận vừa tìm cách ly khai. Ai đó nói “Nho giáo là phản động, dân tộc ta tồn tại được là nhờ chống được Nho giáo”là chỉ nhìn vào một qui luật thứ nhất, không thấy qui luật thứ hai. Phải nói rằng, về mặt xây dựng nhân cách theo mẫu hình chính nhân quân tử , chứ không phải ngụy quân tử, chỉ nói riêng ở Việt Nam ta thời trung đại thì chưa có học thuyết nào theo kịp và không ai có thể phủ nhận.(14) mặc dù quân tử đến đâu thì vẫn không ôm hết cuộc sống. Chất đạo lý đậm đà trong văn chương trung đại Việt Nam vốn có sự hỗ trợ không nhỏ của Nho giáo, dĩ nhiên là chân Nho chứ không phải ngụy Nho. Thơ chữ Hán cũng như Truyện KiềuVăn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du cũng nằm trong cái chung đó.
             - Vẫn có thể vận dụng  lý thuyết về thượng tầng kiến trúc của chủ nghĩa Mác nhưng phải tránh tình trạng đập nhập thành một cục để rồi phủ nhận, lên án một chiều như từng có với thượng tầng kiến trúc phong kiến mà phải thấy ở đây có hai phạm trù: thượng tầng kiến trúc phong kiến gắn với quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị mà nhiều mặt đáng lên án, xóa bỏ và thường tầng kiến trúc của nhân dân, đất nước  trong thời đại phong kiến thì chính đó là kho báu về tinh thần và văn hóa của dân tộc. Chưa kể,, với thượng tầng kiến trúc  phong kiến mà theo đức trị thì cũng không ít sự tốt đẹp.
             -  Cuối cùng, khi nói đên kho báu tinh thần và văn hóa của bất cứ thời đại nào thì phải xét xem kho báu tinh thần và văn hóa đó  có sản sinh được cho đất nước , xứ sở những con người vĩ đại không. Chịu khó theo dõi chương trình Danh nhân đất Việt của Truyền hình Việt Nam thì dễ dàng tháy tương quan giữa thời trung đại phong kiến đức trị này với hậu thế là thế nào đã quá rõ. Cho đến nay, Việt Nam ta mới có ba nhà văn hóa được Unesco công nhận danh hiệu danh nhân văn hóa để được kỷ niệm trên toàn thế giới là Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh và Nguyễn Du thì hai là thuộc trung đại. Đó cũng là một thực tế để chúng ta suy nghĩ. Chưa kể là rồi đây nếu Phật hoàng Trần Nhân Tông , Minh quân Lê Thánh Tông, nhà ái quốc vĩ đại Phan Bội Châu  cũng có danh hiệu đó bởi rất xứng đáng thì cũng đều thuộc thời trung  cận đại cả.       .
       3). Thiên tài Nguyễn Du cụ thể là gì?  Quả  là tôi đã phải tìm đường và dọn đường để đến với thiên tài Nguyễn Du bằng những thao tác vừa đã quen vừa chưa quen với bạn đọc nào đó là như thế. Và cuối cùng thì  phải chỉ ra được những gì là tinh hoa nhất, cao diệu nhất, đích đáng nhất, là vô tiền khoáng hậu để kết luận Nguyễn Du, đặc biệt với Truyện Kiều là thiên tài. Thì như tôi đã thưa ngay từ đầu là trong khi những nhà Nguyễn Du học, Kiều học dù nói hay không nói Nguyễn Du là thiên tài thì cũng đã có không biết bao nhiêu là sự khám phá có giá trị về cái hay, cái đẹp, cái phi thường của  Nguyến Du, chỉ có điều là ít nhiều còn thiếu độ tường minh  (implicite). Còn tôi  là muốn nâng cấp thành tựu khám phá đã có lên trạng thái tường minh( explicite) được chút nào hay chút ấy. Cho nên công việc của tôi ở đây thực chất là tham khảo, thừa hưởng những gì đã có để chọn lọc và có nâng cao nhất định, nhằm nêu lên những gì mà Nguyễn Du xứng đáng là thiên tài theo yêu cầu tường minh hơn. Tất nhiên khi nói về thiên tài Nguyễn Du mà chủ yếu là với Truyện Kiều thì đã  đụng phải vấn đề tiền thân của nó là Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân vốn là  một vấn đề  không đơn giản chút nào trong nhận thức của người Việt Nam và cả người Trung Hoa. Ở đây, chỉ xin nói gọn đôi điều như sau: nó là hiện tượng thuộc một qui luật đặc thù của văn học trung đại không chỉ ở Việt Nam mà cả ở phương Đông trung đại và châu Âu thời Phục hưng. Ở đây, từ tiền văn phẩm đến hậu văn phẩm vẫn có một khoảng cách lớn dành cho sự sáng tạo kể cả sáng tạo thiên tài mà Truyện Kiều của Nguyễn Du là một chứng cứ hiển nhiên và hiếm có.
             3.1. Thiên tài của Nguyễn Du thể hiện trước hết ở chỗ đã đi đúng qui luật bản chất nhất, gốc rễ nhất của mọi giá trị văn chương chân chính nhất lớn lao nhất của nhân loại cổ kim đông Tây là dựa trên tình thương con người. Đi thanh minh, đâu chỉ một Thúy Kiều. Còn Thúy Vân, Vương Quan. Còn là “ngựa xe như nước áo quần như nêm”. Thế mà đi qua  “ sè sè nấm đất bên đường/ Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” chẳng ai thấy gì cả và không thấy thì cũng chẳng sao. Nhưng Thúy Kiều thì thấy. Thấy một  “nấm mồ  vô chủ ai người viếng thăm”. Thấy  một kiếp người “ Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi / Hãi thay chết xuống làm ma không chồng”.  Thấy cả cái  “ phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”trong muôn đời, muôn nơi , muôn thuở để rồi “ đầm đầm châu sa”. Tôi muốn xin quí vị đại thức giả nào chỉ cho tôi biết trong văn chương nhân loại có chỗ nào có được một năng lực người, một năng lực tình cảm để có được tình thương con người bao la, bát ngát, mênh mông, thăm thẳm  như Thúy Kiều  mà cũng là Nguyễn Du thế không. Tôi nói tiếng kêu “ Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” là tiêng kêu cho muôn đời muôn nơi muôn thuở là do thấy ở người đàn bà có hai con người: con người xã hội và con người thiên chức. Về con người xã hội thì đã, đang và sẽ giải quyết tốt đẹp, thậm chí  có người đã dự báo đến một thời gian không xa, một khi mọi hoạt động kỹ thuật đã được tự động hóa thì địa vị xã hội của phụ nữ sẽ lấn át nam giới. Nhưng về thiên chức là chuyện hành kình hàng tháng, chuyện mang nặng đẻ đau, cho dù y học về sản khoa hiện đại đã và sẽ có những bước tiến phi thường nhưng liệu có thay  hết độ nặng nề của thiên chức đàn bà đó không. Truyện Kiều là câu chuyện về một người con gái tài sắc vẹn toàn mà phải rơi vào chốn lầu xanh. Sau này, Tố Hữu cũng  có bài thơ Tiếng hát sông Hương  viết về cuộc đời  kỹ nữ trên sông Hương. Nhiều năm, trong các kỳ thi tuyển sinh đại học ngành văn  đã yêu cầu thí sinh bình giảng bài thơ  này thì  nhiều  thí sinh đã cho Tiếng hát sông Hương hay hơn, lớn hơn Truyện Kiều. Một số thầy giáo chấm bài cho là nói bậy nhưng lại không dám gạch. Mà đúng thế đọc lại Tiếng hát sông Hương với những câu: “ Răng không cô gái trên sông/ Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài/  Thơm như hương nhụy hoa nhài/ Trong như nước suối ban mai giữa dòng” rồi đọc lại mấy câu Kiều:  “Khi sao phong gấm rủ là / Giờ sao tan tác như hoa giữa đường / Người sao dày gió dạn sương / Thân sao bướm chán ong chường bấy thân…” thì sẽ thấy mức độ nhập vai vào thân phận người kỹ nữ ở hai tác giả này chênh nhau đến đâu mặc dù Tiếng hát sông Hương không phải không có giá trị . Chưa nói là đã có nhà nghiên cứu văn học vào loại có tên tuổi đến nói  với giáo viên văn tỉnh Hà Đông cũ là Sống như anh của Trần Đình Vân ghi chuyện Nguyễn Văn Trổi hay hơn Truyện Kiều để giáo viên thắc mắc viết thư xin Viện trưởng Đặng Thai Mai giải thích cho ý kiến đó thì Viện trưởng học giả đã nổi cáu mà hỏi tay nào ăn nói bừa bãi như thế. Phương pháp xã hội học dung tuc, chính trị hóa trong nhận thức văn học vô duyên là thế. Điều đó dĩ nhiên đã cản trở để đến với Nguyễn Du, với Truyện Kiều và văn học nói chung. Đến với Truyện Kiều, không ai không nói đến giá trị nhân đạo của nó. Nhưng nội hàm của khái niệm nhân đạo là gì?. Thì hầu hết vẫn chỉ tiếp cận bằng đạo đức học để từ đó  rút ra những giá trị đạo đức của tác phẩm ví như tinh thương người, lòng cảm thương cho những kiếp người đau khổ, khát vọng tự do và công lý, đề cao những phẩm hạnh của  con người, đặc biệt ở Thúy Kiều là “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Những khám phá đó không phải không  giá trị.  Nhưng như thế vẫn chưa nói hết những gía trị người mà thiên tài Nguyễn Du đã thăng hoa trong kiệt tác của mình. Đúng là phải có thêm phương pháp tiếp cận triết học để thấy cho hết giá trị  nhân bản là gồm tất cả những gì làm nên giá trị người trong đó có giá trị đạo đức đã đành nhưng còn những giá trị nằm ngoài đạo đức. Với cách tiếp cận triết học này, sẽ thấy rõ trong lịch sử văn chương  Việt Nam ta, từ cổ chí kim, không một hình tượng phụ nữ nào mà ở đó lại có mật độ hội tụ nhiều giá trị người được thăng hoa như ở nàng Kiều của Nguyễn Du. Năm 1962, một bà cụ già người làng Tiên Điền quê Nguyễn Du, hơn tám mươi tuổi, không biết chữ, nhưng thuộc lòng cả Truyện Kiều đã nói với tôi: . “Con Kiều đẹp nhất nước Nam. Bầy tui thương nhất con Kiều” Tôi hỏi cụ : sao lại nói “ con Kiều đẹp nhất nước Nam” mà không ai khác. Bà  trả lời:  “Bầy tui nỏ biết chi mô, chỉ thấy rứa thì nói rứa”. Đúng là một hiện tượng trực cảm văn chương vô giá. Câu nói của bà cụ già Tiên Đièn đã nằm chắc trong bộ nhớ của tôi để  hơn bốn mươi năm sau, nhân dịp kỷ niệm Nguyễn Du, tôi đã coi đó như một đề văn mà tôi phải làm để xin độc giả chấm cho (15). Quả là thế, Kiều đẹp tuyệt vời từ cơ thể sinh hoc  (nudité) đến nhan sắc, đến  tình yêu, đến khi mất tình yêu, đến khi phải làm đĩ, đến khi là vị chánh án xử tội kẻ có tội ác với mình, đến khi gặp lại chàng  Kim  nghĩa là có lại  hạnh phúc  sau đau thương tan nát. Nhiều người đã rất ca ngợi tấm lòng nhân đạo lớn lao của Nguyễn Du nhưng vẫn cho rằng  triết lý về con người thì Nguyễn Du không có gì đáng giá, phải đứng sau Shakespiare. Ở Nguyễn Du vẫn là thuyết  “ tài mệnh tương đố” của Nho giáo, thuyết “ Tu là cõi phúc tình là giây oan” của Phật giáo. Ngay cả tư tưởng “ nhân định thắng thiên” thì sách Tả truyện của Trung Hoa cũng đã nói từ thuở nào. Trong khi Shaespiare  thì có luận đề “ To be or not to be”nổi tiêng bao đời nay khắp thế giới. Tôi cũng từng nghĩ như thế nhưng đến nay lại muốn nghĩ khác, coi đây không phải là sự hơn thua mà là khác biệt giữa  hai khu vực văn hóa trong đó có hai truyền thống tư duy, hai truyền thống triết học khác nhau. Phương Đông thì tư duy chủ toàn, cầu tính( esprit sphèrique, globale), thiên về hỗn hợp (syncrétique)  và hướng nội. Phương Tây thì tư duy chủ biệt, tuyến tinh( esprit linéaire), thiên về phân tách(analytique) và  hướng ngoại. Do đó mà có hai trạng thái triết lý nhân sinh khác nhau như thế. Khó nói bên nào hơn bên nào. Nguyễn Du đã thăng hoa những giá trị người với mật độ cao như thế  ở hình tượng Thúy Kiều  hay  nói như Mộng Liên Đường: “ Nguyễn Du có con mắt trông thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ tới muôn đời”như thế sao lại không là triết lý, triết học của trực cảm thiên tài. Gần đây,  chẳng đã chớm có quan điểm cho rằng về triết học, chính phương Đông cao hơn phương Tây. Chúng ta nghĩ sao về quan điểm mới lạ nay? Bước đầu , tôi muốn tin như thế để hiểu thêm thiên tài Nguyễn Du..
         3.2. Từ gốc rễ bền chặt cao độ của tình cảm và tư tương  nhân đạo nhân bản như  thế, thiên tài Nguyễn Du đã tỏa sáng phi thường cũng theo đúng  qui luật nghiêm ngặt nhất của văn chương.  Theo tôi :
             3.2.1. Thứ nhất là thiên tài về ngôn ngũ vốn là yếu tố đầu tiên khi nói đến tài năng văn chương. Ở đây là trong thơ ca tiếng Việt và thuộc thể loại truyên thơ. Ngôn ngữ của Truyện Kiều đã kết tinh dựa trên sự hợp lưu của hai luồng ngôn ngữ dân gian và bác học, đời thường và cổ điển của văn chương Việt Nam trung đại.  Nó vừa mang dấu ấn thời đại, vừa là đỉnh cao của muôn đời ở tính chất tập đại thành của nó. Câu nói của chủ bút Nam Phong :  “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn” là hoàn toàn  chân lý, mặc dù có lúc đã bị hiểu lầm mà phủ nhận. Cần thấy rằng một dân tộc, một quốc gia là  gồm có: lãnh thổ, giống nòi, chính thể, lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán và ngôn ngữ. Nếu không may bị ngoại xâm chiếm đóng thì mất gì cũng có thể lấy lại được. Chứ mất đến ngôn ngữ, tiếng nói, thì sẽ là mất vĩnh viễn. Nghĩ như vậy, sẽ thấy Nguyễn  Du thiên tài với Truyện Kiều, là một nhà ái quốc vĩ đại, Chế Lan Viên chẳng đã viết:  “ Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành thơ ”.
            3.2.2. Thứ hai là thiên tài trong việc tạo ra một thế giới nhân vật sống động, mỗi nhân vật là một cá tính nghệ thuật, không ai giống ai. Thành tựu nghệ thuật đó là sản phẩm của quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Du về con người không chỉ đơn tuyến mà đa tuyến và còn là sản phẩm  nghệ thuật của Nguyễn Du từng được mệnh danh là thánh thiên tử về mặt tâm lý trong văn chương.  Truyện Kiều  thuộc thể loại truyện kể của dòng truyện nôm đương thời nhưng  theo Nguyễn Đình Thi thì Truyện Kiều đã là một tiểu thuyết hiện đại, hoặc như Phan Ngoc thì đã coi Truyện Kiều là một tiểu thuyết tâm lý vô địch của thế giới, nghe có vẻ cực đoan nhưng không phải không có căn cứ nhất định của vị học giả này trong công trình Phong cách Truyện Kiều.Với Nguyễn Du, tâm lý nhân vật đã được miêu tả ở độ tinh diệu trong sự chi phối của hoàn cảnh, khác nhiều so với loại nhân vật thường được mệnh danh là hình tượng khái niệm, nhất thành bất biến về tính cách trong truyện thơ nôm. Gắn bó trong tình yêu đến như Kim – Kiều bằng những lời thơ không đâu hơn được nữa: “ Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”, “ Nát thân bồ liệu đền nghì trúc mai””. Nhưng sau mười lăm năm lưu lác,  Kiều gặp lại chàng Kim thì Nguyễn Du lại viết: “ Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa”.  Nọ chứ không phải đây. “ Chàng Kim đó” chứ không phải “ chàng Kim này”, “ là người ngày xưa” chứ không phải “là người hôm nay”. Cái gì cũng xa lơ xa lắc vời vợi như thế. Bởi hoàn cảnh khách quan đã gây nên như thế. Tính hiện đại của tiểu thuyết ở Truyện Kiều mà Nguyễn Đình Thi nói là bởi vậy.
            3.2.3.  Thứ ba là thiên tài ở việc tạo ra trong tác phẩm một thế giới thứ hai, tức là thiên nhiên mà cho đến nay, trong phạm vi văn chương Việt Nam, dù cũng có những thành tựu sáng giá với Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… nhưng xem ra vẫn không ai ngang tầm Nguyễn Du trong Truyện Kiều với đủ bốn mùa xuân hạ thu đông, với không biết bao nhiêu là ánh trăng tương thích với bao nhiêu cảnh ngộ của nhân vật trung tâm Thúy Kiều. Có được thành tựu nghệ thuật siêu đẳng này, rõ ràng Nguyễn Du cũng như các tác giả có nhắc tên đó đã gắn hồn thơ, tài thơ của mình một cách máu thịt với một  triết lý nhân sinh vĩ đại của phương Đông là thuyết tam tài: Thiên- Địa- Nhân,“thiên nhân hợp nhất”,“ thiên nhân nhất thể”,“thiên nhân tương dự”. Triết thuyết này không chỉ chi phối văn chương mà cả với nghệ thuật của phương Đông nói chung. Cứ nhìn vào vị trí xây dựng các chùa chiền ở nước ta  mà so sánh với vị trí xây dựng của các nhà thờ Thiên chúa giáo ở châu Âu , ngay cả ở Việt Nam ta  thì rõ. Một bên thì tựa mình vào rừng núi, hang động của thiên nhiên hùng vĩ, rặt tiêng chim kêu vượn hót.. Một bền thì sừng sững , nằm ngay giữa đô thành rộn rịp nếu không thì cũng là nơi đông đúc người qua kẻ lại. Đúng là thiên tài văn chương của Nguyễn Du đã hút nhụy từ triết học phương Đông quan niệm con người với thiên nhiên là một khác phương Tây coi con người là trung tâm của vũ trụ, từ đó mà lịch sử đã có hai hướng đi khác nhau. Các chí sĩ Đông Kinh nghĩa thục chẳng đã nói: phương Đông là văn minh tịnh, thiên về tinh thần. Phương Tây là văn minh động, thiên về vật chất . Ở phuong Tây hiện đã có xu hướng muốn tìm về phương Đông, dĩ nhiên là phương Đông cổ trung đại từng có những triết thuyết như thế.. 
·                  3.2.4.  Thứ tư là thiên tài bởi với văn chương Việt Nam, kể cả văn chương thế giới, nếu tôi không lầm thì không đâu tác phẩm lại có sức sống phi thường như Truyện Kiều của Nguyễn Du, mặc dù theo học giả Đặng Thai Mai thì còn Mục ca của La Mã cổ đại. Bảng giá văn chương vốn có nhiều đẳng cấp. Có loại bảng giá thuộc  một giai tầng , một thời đại , một chính thể nên một khi chính thể ấy thời đại ấy qua đi thì loại bảng  giá văn chương đó ít nhiều cũng  qua đi. Xem bảng giá của văn học Nga sau ngày chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ thì rõ là thế. Nhưng vẫn có loại  bảng giá thì bất chấp giai tầng xã hội, thể chế chính trị, thời đại nào cũng vậy, vẫn sừng sững với thời gian. Cũng ở Nga, Puskin, Lep Tolstôi, Dotstoiepski… là thế. Bảng giá văn chương Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luạt lạnh lùng đó. Với văn học Việt Nam thời trung đại, bảng giá văn chương nhìn chung đã ổn định mặc dù hậu thế chưa khám phá hết kho báu của nó. Tuy thế, vẫn có đẳng cấp nhất định trong bảng giá đã định hình đó mà vị quán quân tuyệt đối không ai khác là Nguyễn Du.  Cách đây ba năm, Trung tâm kỷ lục Việt Nam đã tôn vinh Truyện Kiều với 5 kỷ lục :
                a.  Một tác phẩm mà cứ trích ra mấy câu này mấy câu nọ là thành một bài thơ riêng. 
                b.  Một tác phẩm dược dịch ra một tiếng nước ngoài ( tiếng Pháp) nhiều lần nhất ( 10 lần, có chỗ nói 12 lần).
               c.  Một tác phẩm mà có thể đọc xuôi và đọc ngược được.
                d. Một tác phẩm đã được nối điêu nhiều nhất. Có tác phẩm nối điêu đến ba ngàn câu.
                đ.  Một tác phẩm mà tự nó đã tạo ra một hiện tượng văn hóa về nó với nhiều hình thức bền vững: bói Kiều, tập Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, chèo Kiều, tuồng Kiều, cải lương Kiều, kịch Kiều, phim Kiều. nhạc Kiều. khoa học Kiều
       Nhân dịp này, tôi cũng đề nghị thêm một ký lục nữa với Truyện Kiều là một tác phẩm đã ngốn giấy mực của đất nước nhiều nhất và nhiều hơn bất kể lúc nào trong những năm đầu của thế kỷ 21 này. Đúng là thế. Chưa bao giờ việc tìm in lại các bản Kiều cổ, việc tìm lại các bản Kiều nôm lại rôm  rả, đầy đủ, nhiều như thế. Ông Nguyễn Khắc Bảo vốn là giáo viên dạy toán  PTCS sau ngày nghi hưu đã sưu tầm được  60 bản Kiều nôm. Sự tái xuất văn bản Kiều nôm và quốc ngữ phong phú như thế đã kéo theo việc khảo dị văn bản cũng trở nên sôi động  hơn bao giờ hết. Cũng chưa bao giờ xuất hiện thêm nhiều nhà Kiều học từ nhiều nghề nghiệp như thời gian này mà phần lớn lại không phải người chuyên nghề nghiên cứu văn chương. Ông Nguyễn Đan Quế, cũng là một giáo viên Toán PTTH sau ngày nghỉ hưu, chỉ trên dưới mười năm cho ra mắt độc giả 16 cuốn sách về Truyện Kiều. Có vị giáo viên văn PTCS ở Thái Bình chơi sách  tích lũy được khoảng 250 sách Kiều và nghiên cứu Kiều. Nhà giáo văn học Lê Xuân Lýt vừa quá cố, chỉ máy năm cũng đã ra mắt bạn đọc hai công trình về Truyện Kiều hơn ba ngàn trang. Việc giải mã , bình phẩm Truyện Kiều cũng có thêm  cách tiếp cận mới dù chưa có công trình nào sáng giá bằng giai đoạn trước. Trên thế giới, với quãng thời gian đầu thế kỷ 21 này,  có  tác phẩm nào như thế không nhỉ?(16).

                                                *
                                            *     *    

          Bạn đọc kính mến !

      Tôi cũng lại  tôn vinh Nguyễn Du là thiên tài mà rồi cố gắng dọn đường  để đến với thiên tài Nguyễn Du và cuối cùng thì thấy thiên tài Nguyễn Du là thế đó. Không biết có được chấp nhận không? Mong được quí vị chỉ bảo thêm cho. Xin cảm ơn trước.

                             Hà Nội, Yên Hòa thư trai, những ngày oi bức
                                    ( cuối tháng 5 đầu tháng 6 / 2015 )
                                                 
                                                             N Đ C


   Chú thích.
1.    Trích theo Trần Quốc Vượng: Đôi lời về văn hóa dòng họ ở Việt Nam. Sách  Văn hóa  cấc dòng họ ở Nghệ An( Kỷ yếu hội thảo khoa học). NXB Nghệ An 1997., tang 73.
2.    Xem Nguyễn Đình Chú: Đạo đức muôn đời vẫn là cỗi rễ của văn chương chân chính . Tạp chí  lý luận phê bình  của Hội đồng lý luận văn học nghệ thuật trung ương số 10/ 2014. Tạp chí KHXH và NV Nghệ An số 1+ 2/2015.
3.    Xem  Nguyễn Đình Chú: Sự áp đảo của phương Tây đối với phương Đông trên phương diện văn hóa tinh thàn. Tạp chí Đông Nam Á số 3(20) 1995. Giáo trình Văn hóa học đại cương và cơ sở Văn hóa Việt Nam. ĐHQG Hà Nội. NXB Khoa học xã hội .1996
4.    Xem Nguyễn Đình Chú: Thêm một công trình Dịch hoc. Lời giới thiệu sách Kinh Dịch diễn giải ( Đạo lý sự tồn tại và phát triển) Trần Trọng Sâm. NXB Văn học 2010
5.    Xem Nguyễn Đình Chú: Cần khẩn trương khôi phục lại việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông.Hán Nôm học trong nhà trường, NXB Khoa học xã hội.2008. Vietstudies 8/9/2010Nội
6.    Theo bài Đạo Việt Nam dưới nhãn quan Trương Tửu http//vn myblog yahoo com/kinhphuctu
7.    Xem  Nhất Hạnh : Thả một bè lau(Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán) Lá Bối  năm 2000.
8.    Xem Nguyễn Đình Chú: Đọc  Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ. Văn nghệ số 443 ngày 7/4/1972. Nguyễn Đình Chú tuyển tập.NXB Giáo dục 2012.
9.    Xem Nguyễn Đình Chú: Vị trí của văn hóa Phật giáo trong nền văn hóa Việt Nam ( nhìn về dĩ vãng).Kỷ  yếu Hội thảo quốc tế Phật giáo châu Á  và Việt Nam trong tiến trình phát huy văn hóa dân tộc. Hạ Long 8-9/11/2013. In lại trong Phật giáo với các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc.NXB ĐHQG TP Hồ Chí Minh 2014.Tạp chí KHXH và NV Nghệ An số 4/2014
10.    Xem  Nguyễn Đình Chú: Cuộc sống hiện đại và Triết thuyết Cư trần lạc đạo của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Kỷ yếu hội thảo khoa học về Phật giáo Nam bộ.Tạp chí Văn hóa Nghệ An số 10 tháng 3/2014.
12. Xem Danh bạ những ngôi chùa Việt Nam. Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội. Hà Nội 2011.
13, Xem  Nguyễn Công Lý:  Văn học Phật giáo  thời Lý Trần: Diện mạo và đặc điểm. Luận án tiến sĩ bảo về năm 2000 tại ĐHSP Hà Nôi. Đã in và tái bản.
14.Xem Nguyễn Đình Chú:  Để hiểu  đúng giá trị  đạo luân thường của Nho giáo. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế  Luân thường Nho giáo dưới góc nhìn xuyên văn hóa. ĐHQG TP Hồ Chí Minh- ĐHKHXH và NV.2013. In lại trên Tạp chí KHXH và NV Nghệ An số 4/ 2014                                                                                                                                               
15. Xem  Nguyễn Đình Chú: Gặp lại con Kiều đẹp nhất nước Nam. Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn Ngghệ An  Số  4. 2009


 Theo bài Đạo Việt Nam dưới nhãn quan Trương Tửu TTT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét