Suy tư nhân ngày Giỗ Tổ
Bản gốc của tác giả

Trong những nhiễu nhương của thế sự với
ngổn ngang những sự kiện, những khuôn mặt, những cuộc đời hối
hả bon chen giữa dòng đời trong đục, một nén tâm hương thắp lên để
nhớ về nguồn cội cũng có thể thức dậy trong sâu thẳm tâm tư con người
một ánh tâm linh. Mà thật ra, cảm nhận về lịch sử cũng là cảm
nhận về chính mình, về vui buồn và phẫn nộ, về hào hứng và
đắng cay của thân phận con người. Con người ấy gắn với vận mệnh của đất
nước, số phận của dân tộc. Biết nhìn nhận và đối chiếu sự
nghiệp hôm nay, con người hôm nay với lịch sử dân tộc chính là
biết trân trọng lịch sử. Cảm nhận bài học lịch sử, rốt cuộc
lại là cảm nhận bài học về con người, bài học về văn hoá.
Lịch sử dựng nước, mở nước và giữ
nước của ông cha ta từ đất tổ Hùng Vương, vùng rừng núi và trung du,
tiến về châu thổ sông Hồng, sông Mã, rồi men theo duyên hải, tiến về
vịnh Thái Lan. “Từ thuở mang gươm đi mở cõi. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long
“. Nếu không có những con người Việt Nam dũng cảm và sáng tạo
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước thì cũng không thể có những
trang lịch sử hào hùng đang tiếp thêm sinh lực cho chúng ta hôm
nay. Và rồi, con người của hôm nay biết cần phải nhìn lại mình
để hiểu phải đưa sự nghiệp của ông cha đi tới như thế nào.
Con người Việt Nam và văn hoá Việt Nam
đã làm cho dòng chảy của lịch sử với những mốc son chói lọi
liền mạch với thuở các Vua Hùng dựng nước, trải qua sức quật
khởi của thời Bà Trưng, Bà Triệu, đến những đỉnh cao chiến
công của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí
Minh … Chính con người Việt Nam, văn hoá Việt Nam là nhân tố
quyết định làm cho những gì mà qua đó, quá khứ và hiện tại
vẫn còn thông với nhau. Chỉ bằng văn hoá và con người
chúng ta mới thật sự hiểu được, đánh giá được những sự kiện
lịch sử với tầm vóc vốn có và cần phải có. Nói con người
cũng là nói văn hóa, và nói văn hóa cũng là nói con người. Bởi lẽ, văn
hoá không phải là một hệ thống đóng kín những giá trị loại
biệt mà là một tổng hợp đang phát triển của các thành tựu
vật chất và tinh thần của một dân tộc.
Trong ý nghĩa đó, ở mỗi giai
đoạn của sự phát triển, văn hoá được biểu hiện như một dạng
hoạt động thực tiễn của con người. Vì thế, văn hóa là một
cấu trúc có bề sâu. Cuộc sống xã hội được phản chiếu ở bề
mặt, dưới bề mặt đó, văn hóa được phân chia theo những tầng
khác nhau, thường tiềm ẩn và vô thức. Ở độ sâu này, có một
sự sắp xếp của các quy tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên
trên. Nói đến “sức mạnh văn hoá”, “bản sắc văn hoá, chính là
nói đến sự tiềm ẩn và vô thức này nằm chìm trong đời sống
của dân tộc.
Chính cái đó làm nên sức
mạnh Việt Nam, sức mạnh làm cho đất nước này, dân tộc này tồn
tại và phát triển, vượt qua bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng
không thể vượt qua được, viết nên những trang sử chói lọi bởi tính kiên
cường trong hoạn nạn, khí phách hào hùng trong giữ nước và dựng nước. F.
Braudel có một nhận xét đáng suy ngẫm : “lịch sử của nền văn
minh là sự gạn lọc qua hàng thế kỷ của một nhân cách tập
thể, nhân cách này, cũng như mọi nhân cách cá nhân, bị kẹt
giữa một số mệnh có ý thức và rõ ràng với một số mệnh tù
mù và không có ý thức, số mệnh này làm cơ sở và động lực
cho số mệnh kia, nhưng không phải bao giờ cũng nhận thấy điều
đó”*. Chỉ khi chúng ta suy ngẫm và hiểu ra được về những
gì đã hun đúc nên văn hoá Việt Nam, hình thành cốt cách con
người Việt Nam, chúng ta mới có thể cảm nhận được sự liền
mạch của dòng chảy lịch sử. Chỉ có điều, Lord Acton , nhà sử học
thế kỷ XIX lại cho rằng “các sự kiện đương thời khác lịch sử
ở chỗ, chúng ta không biết những kết quả mà chúng ta sẽ tạo
ra. Nhìn lại, chúng ta có thể đánh giá tầm quan trọng của các
sự cố quá khứ và lần ra các hệ quả mà chúng đã mang theo
trong dòng chảy của chúng. Nhưng trong khi lịch sử tiến triển,
nó không phải là lịch sử đối với chúng ta. Nó dẫn chúng ta
đến miền đất lạ chưa được biết”.
Dặm đường lịch sử hôm nay vừa
liền mạch truyền thống Việt mà ông cha ta bao đời xây đắp từ thuở ban
đầu của Hùng Vương dựng nước, vừa có những thách thức mang tính đột
biến. Chính vì thế, trở lại với cội nguồn nhân ngày Giỗ Tổ là để càng
hiểu rõ thêm về dân tộc, về con người Việt Nam, văn hoá Việt Nam
đang đi tới trong một thế giới mới. Hiểu rõ thêm để càng thấy rõ trách
nhiệm nặng nề của mỗi người Việt hôm nay về vận nước khi mà các thế
lực hiếu chiến của chủ nghĩa bành trướng đang phơi bày dã tâm của chúng.
Hành động ngang ngược có tính toán nhằm xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải, uy
hiếp chủ quyền quốc gia, mưu toan độc chiếm Biển Đông của chúng ngày
càng tinh vi, trắng trợn. Mơ hồ trước dã tâm của chúng là có tội với ông
cha, có tội với lịch sử.
Nói về lịch sử, Phạm Văn Đồng có một ý rất thú vị : “Lịch
sử là con người nhân với thời gian. Tôi hình dung lịch sử là một ông
già đã nhiều tuổi lắm, nhưng ông già lịch sử đang dần dần trẻ lại, và
qua một quá trình diễn biến đầy kịch tính, sẽ từng bước trở thành một
thanh niên giàu sức sống…”. Đất nước của chúng ta liệu có đang trẻ
lại để đủ sức gánh vác sự nghiệp của ông cha bao đời gây dựng, giữ gìn
và truyền lại cho chúng ta?
Quá trình diễn biến đầy kịch tính
của đất nước ta quả đã chứng minh sức sống kỳ lạ của dân tộc Việt Nam
ta. Ông cha ta luôn luôn tìm ra những giải pháp độc đáo cho những vấn đề
gặp phải. Cứ vào lúc thời cuộc như dồn thế nước vào chân tường, thì
cũng chính vào lúc ấy đã bật ra những đột phá. Chuyện chống đế quốc
Nguyên-Mông thế kỷ XIII là một minh chứng sống động. Giỗ Tổ năm nay cũng
là dịp kỷ niệm 725 năm chiến thắng Bạch Đằng và tỉnh Quảng Ninh vừa đón
nhận quyết định công nhận Di tích Lịch sử đặc biệt , xin gợi lại một
câu trong “Bài phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu : “Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng, bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn , và rằng: “Sông
Đằng một dải dài ghê, Sóng xô cuồn cuộn trôi về Biển Đông, Những người
bất nghĩa tiêu vong, Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh”.
Phải có bản lĩnh thế nào mới thấy
được cái thế “nhàn” trước ba chục vạn quân xâm lược hùng hùng hổ hổ kéo
sang quyết rửa nhục hai lần thất bại trước và cũng để quyết đánh thông
con đường tràn xuống Đông Nam Á. “Đằng giang tự cổ huyết do hồng“[Sông
Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ], đó là lời cảnh báo đối với kẻ thù. Trước
chiến thắng của Trần Hưng Đạo, sông Bạch Đằng đã là nơi Ngô Quyền phá
quân Nam Hán, Lê Hoàn diệt quân Tống.
Tần ngần trước những cọc gỗ vạc
nhọn từng cắm xuống dòng sông buổi ấy mà thêm bàng hoàng trong dòng suy
tưởng về sức mạnh kỳ lạ nào khiến cho chỉ trong có 20 ngày, ông cha ta
đã cắm hàng ngàn cọc xuống dòng sông nước chảy xiết khi mà mới trước đó Ô
Mã Nhi đã cho quân càn quét cả vùng Yên Hưng? Xin hãy dừng lại vài con
số : “nước triều lên xuống mạnh, độ chênh lệch khá lớn, lưu tốc nước
là 0,26m-0,86m/giây. ..hàng cọc đóng ngang qua sông theo hướng nm-băc.
Hầu hết các cọc đều bằng lim hoặc gỗ cứng có đường kính từ 20cm đến 30cm
và dài từ 1,5 met trở lên, phổ biên là 2m , những cọc đóng ở giữa lòng
sông dài đến 3m, khoảng cách giữa các cọc từ 0,9m đến 1,2m, cọc được đẽo
vát nhọn với độ dài 0,80m đến 1m, phần lớn được đóng thẳng đưng, đóng
sâu xuống đất đáy từ 1m đến 1,5m, giữa các cọc có các khúc gỗ nằm ngang,
có lẽ là khúc gỗ cài để chặn thuyền giặc“**. Nguyên sử, quyển 166, Phàn Tiếp truyện chép : ” Kịch chiến từ giờ mão đến giờ dậu” [tức là từ sáng đến chiều]!
Không thấy người viết bộ sử này
nói đến Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, hai chủ tướng và Tích Lệ Cơ, tên đại quý
tộc được phong đến tước vương đã bị tóm cổ, 600 chiến thuyền hùng hùng
hổ hổ từng theo đường Biển Đông tiến vào lúc khởi sự cuộc xâm lăng tưởng
có thể làm mưa làm gió giờ đây tan tác trong trận thủy chiến và hỏa
công từ “giờ Mão đến giờ Dậu” ngày 9.4.1288 ấy! Chính Ô Mã Nhi từng
khoác lác đe dọa Vua Trần ” Ngươi chạy lên trời, ta theo lên trời,
ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên
núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước” để kết cục như chó
cụp đuôi phục trước lăng vua Trần Thái Tông, người lãnh đạo cuộc kháng
chiến chông Nguyên Mông lần thứ nhất, trong lễ mừng thắng trận của quân
dân đời Trần!
Hai từ quân và dân bỗng trở nên sống động lạ kỳ trong suy tư về những cọc gỗ Bạch Đằng ấy! Xét đến cùng, quân thì cũng từ dân mà ra đấy thôi, “chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ” như Nguyễn Đình Chiểu viết trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
dạo nào. Tuy nhiên, ngược lại dòng chảy lịch sử cách nay 800 năm, thử
tính toán đo đếm theo cách người viết sử hôm nay cố gắng làm, mới sáng
rõ lên một điều, nếu không huy động được sức dân hai huyện Yên Hưng
[Quảng Ninh] và Thủy Nguyên [Hải Phòng] chuyển gỗ và đóng cọc ở cửa sông
Chanh, sông Kênh, sông Rút, một khúc sông dài không quá 5km mà có đến 5
dòng nước đổ về với ba nhánh sông phụ đưa nước ra vịnh Hạ Long, nơi
thượng lưu sông Bạch Đằng, cách doanh trại của Thoát Hoan chỉ hơn 30km
ngược dòng sông Kinh Thầy, thì không thể nào có bãi cọc mà ngày nay ta
quen gọi là bãi Yên Giang được! Và cũng như vậy, nếu không tin vào sức
dân, không có quyết tâm đánh địch mà “thần hồn nát thần tính” trước sự
diễu võ dương oai của kẻ thù đã chỉ bàn lùi rồi đầu hàng như những kẻ đã
đi vào lịch sử một cách nhơ nhuốc nọ thì còn trí tuệ đâu, bản lĩnh đâu
mà bày binh bố trận để làm nên chiến thắng Bạch Đằng.
Ấy là chưa nói bọn hèn nhát và nhơ nhuốc này đều là các vương hầu cả đấy : những “Chương Hiến Hầu Trần Kiện, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn, Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng…!**
Đã hèn nhát rồi thì chỉ có thể bàn mưu tính kế giữ cho được chiếc ghế
quyền lực, cho dù là quyền lực được bố thí hay bảo kê, chứ làm sao mà có
khí phách “thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm Vương đất Bắc“, “bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu tôi trước đã” và thấy được chỗ yếu của kẻ thù để hiểu ra “thế giặc nhàn“!
Bỗng nhớ lại một lời bình sắc sảo của nhà sử học đáng kính Trần Quốc Vượng khi luận về : ” Cuộc đấu tranh giữa mô hình dân tộc và mô hình kiểu Tàu cho đến khi phong kiến hết thời vẫn chưa chấm dứt...”.
Cuối thế kỷ XIV, xã hội, văn hóa khủng hoảng mà không có đường lối giải
quyết . Đúng lúc đó nhân vật Hồ Quý Ly xuất hiện…Ông kiên quyết chống
quân Minh, muốn giải Hán hóa nền văn hóa Việt, nhưng ông chỉ mới thổi “tiếng kèn ngập ngừng”, sử dụng những biện pháp nửa vời…Ông lại xây dựng một nền độc tài cá nhân. Ông không nắm được dân “trăm vạn người trăm vạn lòng“,
không cố kết được nhân tâm, hòa hợp được dân tộc, dân tâm lìa tan để
mất nước vào tay giặc Minh…Chính trong bối cảnh đó, Nguyễn Trãi kế tục
và phát huy truyền thống dân tộc và thân dân thời Trần, cố gắng để khôi
phục và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Quả thật, “tìm về dân tộc” và
“thân dân” là phương thuốc tích cực nhất để giải nọc độc vọng ngoại,
giải Hán hóa. Dân là gốc nước. Đã yêu nước thì phải yêu dân. và đã gắn
bó với dân thì tự nhiên nảy sinh lòng tự hào dân tộc “. ” Nguyễn Trãi
tắm mình trong bầu không khí văn hóa ở đó đang diễn tiến cuộc đấu tranh
gay gắt giữa truyền thống và đổi mới, cuộc đấu tranh gay gắt giữa xu
hướng Trung Quốc hóa với xu hướng giải Trung Quốc hóa trong nội bộ các
thế lực cầm quyền và giới trí thức, văn hóa Đại Việt [ của thời Trần].
Hai mươi năm Minh thuộc, với chủ trương và âm mưu tái Trung Quốc hóa
nền văn hóa Việt của bọn giặc Minh càng làm gay gắt thêm, phức tạp thêm
cuộc đấu tranh nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam, một lối sống Việt
Nam. Nguyễn Trãi đã dấn thân hết mình vào các cuộc đấu tranh chính trị,
văn hóa, xã hội này..“.
Khẳng định điều đó là tuyệt đối
đúng. Không chỉ đúng với thời kháng chiến chông quân Nguyên Mông và
chống quân Minh, mà còn mang một ý nghĩa cập nhật rất sống động đối với
cả hôm nay. “Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực thi văn hiến chi bang“, Bình Ngô Đại cáo dõng dạc tuyên bố đã quyết liệt ngay từ đầu khuynh hướng “giải Hán hóa”
của người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi.
Tiếc thay, ý tưởng sáng láng này chưa nhận được sự tiếp sức và đẩy tới
của các triều đại nhà Lê, kể cả thời cực thịnh. Với triều Lê Thánh Tông,
về chính trị thì thì củng cố chế độ trung ương tập quyền theo hướng
chuyên chế, về tư tưởng thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật,
Đạo và tín gưỡng dân gian, về văn hóa dần dần xa rời vốn liếng dân gian.
Tinh thần kỳ thị tôn giáo, chuyên chế tư tưởng hết sức nặng nề. Nền văn hóa chính thống ngày càng rơi dần vào quỹ đạo của văn hóa phong kiến Trung Quốc. Mà đã đi vào quỹ đạo này thì làm sao mà “thân dân” được?
Trút bỏ gánh nặng lịch sử này quả
thật dai dẳng cho đến tận bây giờ với những biến thái cực kỳ phức tạp
đòi hỏi một sự tỉnh táo của trí tuệ dân tộc nhằm tỉnh thức những người
đang chìm đắm, có thể là vô thức nhưng thường là hữu thức, vì những lợi ích rất nhày nhụa được khoác cho những tấm áo mỹ miều. Còn phức tạp hơn nữa với công cuộc “giải Hán hóa” của buổi hôm nay đang khó khăn gấp bội vì chủ nghĩa bành trướng đại Hán lại đang khoác cho mình một cái áo “mang màu sắc Trung Quốc cùng chung ý thức hệ [?]“, thực chất là một “chủ nghĩa tư bản hoang dã” ngày càng phơi bày bộ mặt bẩn thỉu và đang tự mình cô lập trước thế giới do những thủ đoạn gian trá ấy.
Vì vậy, nói đến cùng, trong vị
thế địa-chính trị trứng chọi đá quá trình ông cha ta dựng nước và giữ
nước cũng là quá trình “giải Trung Quốc hóa” với những lưỡng lự và những
nghịch lý của lịch sử, thậm chí của từng nhân vật lịch sử”. Mà lịch sử
lại thường đi những bước oái oăm, “đường thế đồ gót rỗ kỳ khu”
[Nguyễn Gia Thiều]. Cuộc sống là “bất phương trình”, dòng đời đang
chuyển động không theo cách “tuần tự nhi tiến”, người đi sau dẫm theo
bước chân của người đi trước, mà luôn có những hợp trội tạo ra những
bước đột phá không sao tiên liệu trước được tất cả. Cho nên những suy tư
theo lối tuyến tính không còn thích hợp vớí một thế giới phi
tuyến. Không có một bản đồ vạch sẵn cho con đường phía trước.
Những kinh nghiệm có sẵn, những phương pháp truyền thống không
còn đủ cho hành trình của dân tộc đi về phía trước. Câu nệ và
nô lệ với quá khứ, không dám tự vứt bỏ những trói buộc vô
lý đang cản trở sức sống của dân tộc sẽ phải trả giá trước
lịch sử. Cái giá ấy quả là quá lớn và không đáng có.
Ngày Giỗ Tổ năm nay đến với đất
nước ta trong một bối cảnh nhiều khó khăn trước một bức tranh kinh tế
thế giới ảm đạm, nhưng không phải là không có những dấu ấn khởi sắc trên
nhiều điểm sáng của thế giới, chẳng nói đâu xa, Miến Điện ngay cạnh ta
là một ví dụ quá sống động, chỉ cố nhắm tịt mắt mới không thấy mà thôi!
Vấn đề là chúng ta có nhìn ra những điểm sáng và rọi chiếu ánh sáng ấy
vào con đường chúng ta đang đi hay không.
Cách nay đã hai mươi năm, trong
diễn văn tại lễ kỷ niệm 600 sinh Nguyễn Trãi tại Hà Nội năm 1982, đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra thông điệp thật sáng tỏ bằng các nhắc lại
lời của tác giả Bình Ngô đại cáo : ” Nguyễn Trãi nói : “Thời! Thời! Thực không nên lỡ”!
Hai thập kỷ đã trôi qua, bao
nhiêu nước chảy qua cầu, liệu cái chữ “thời” ấy đã được khai thác và vận
dụng ra sao? Và rồi, với ngày Giỗ Tổ năm nay gắn liền với kỷ niệm 725
năm chiến thắng Bạch Đằng, chúng ta cần nghĩ ra sao về chữ thời để càng hiểu ra rằng không thể bỏ lỡ thời cơ . Đừng quên rằng, bỏ lỡ thời cơ
là sự bỏ lỡ đau đớn nhất mà lịch sử phải gánh chịu. Đương nhiên , thời
nào cũng vậy, tính sòng phẳng của lịch sử cho thấy, vận mệnh của dân tộc
“sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên…Khi
những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những
điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm : họ sẽ tự biết
cần phải làm như thế nào”.***
Nhân ngày Giỗ Tổ, nhắc lại ý ấy của Ph. Ăngghen tưởng cũng là một điều nên làm !
Tp Hồ Chí Minh ngày 18.4.2013
___________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét