Về các chuẩn mực
đánh giá giá trị thẩm mỹ
Tiến sĩ Vũ Thị Kim Dung
Chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ là bộ phận quan trọng trong đời
sống văn hoá xã hội. Gương mặt tinh thần của loài người, của mỗi quốc gia, dân
tộc trong mỗi thời đại luôn được hiện lên thông qua sự sáng tạo và thẩm định
các giá trị mà con người đã đạt được trên con đường vươn tới Chân - Thiện -Mỹ.
Sự sáng tạo và thẩm định đó bao giờ cũng chịu sự quy định khách quan bởi hệ
thống các chuẩn mực đánh giá. Trong hệ thống các chuẩn mực giá trị xã hội nói
chung, chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ tồn tại với tư cách là phương tiện - thước đo
đánh giá các giá trị văn hoá thẩm mỹ.
Là nhân tố cấu thành văn hoá thẩm mỹ, chuẩn mực đánh giá
thẩm mỹ đóng vai trò định hướng cho tất cả các hoạt động và quan hệ xã hội ở mọi
lĩnh vực của cuộc sống theo quy chuẩn của những quan niệm tiên tiến, nhân văn
của xã hội và thời đại về cái đẹp. Nó tạo cơ sở cho hoạt động đánh giá, giúp con
người khám phá, khẳng định, sáng tạo các giá trị thẩm mỹ, làm phong phú, phát
triển đời sống văn hoá thẩm mỹ xã hội, đồng thời biết nhận diện, sàng lọc và
loại bỏ những cái xấu, cái phản giá trị thẩm mỹ vì sự trong sạch và lành mạnh
của môi trường văn hoá xã hội. Chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ cũng có vị trí đặc
biệt trong vấn đề giáo dục giá trị, định hướng giá trị đối với nhân cách, góp
phần đưa đến sự phát triển hài hoà, toàn vẹn, phong phú nhân cách của các cá
nhân nhằm đáp ứng yêu cầu và mục tiêu của sự phát triển xã hội.
Trong các tiêu chí thuộc nội đung của chuẩn mực đánh giá
thẩm mỹ, tiêu chí về tính nhân văn là tiêu chí quan trọng hàng đầu. Đây cũng là
tiêu chí nội dung quan trọng trong hệ chuẩn đánh giá các giá trị xã hội nói
chung. Nếu như mọi giá trị đều được xác định trước hết ở tính nhân văn, ở ý
nghĩa của chúng đối với sự phát triển, tiến bộ của con người và xã hội thì giá
trị thẩm mỹ (trong mối quan hệ thống nhất với giá trị đạo đức và các hệ giá trị
tinh thần khác) là hình thái giá trị đạt tới tính nhân văn ở mức độ cao nhất và
tập trung nhất. Trong bất kỳ xã hội nào, giá trị thấm mỹ cũng nhằm tới việc
"nhân đạo hóa” đời sống xã hội. Giá trị thẩm mỹ thẩm thấu trong mọi hình
thái ý thức, mọi lĩnh vực hoạt động và quan hệ xã hội, mọi cách thức tổ chức
đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của cá nhân và cộng đồng... làm cho cuộc
sống trở nên hài hòa, tốt đẹp. Trong lý luận cũng như trong đời sống hiện thực,
giá trị thẩm mỹ luôn hợp thành nền móng tinh thần bảo đảm sự thống nhất, hài
hoà và sự liên hệ nội tại giữa những lĩnh vực biểu hiện khác nhau của đời sống
tinh thần con người và của toàn bộ xã hội. Hêgen đã viết: "Tôi tin rằng
hành vi cao nhất của lý tính bao quát tất cả mọi ý niệm là hành vi thẩm mỹ rằng
chỉ có trong vẻ đẹp thì chân lý và điều thiện mới hợp nhất với nhau bằng những
mối liên hệ thân thuộc... Không thể coi là được phát triển về mặt tinh thần nếu
không có tình cảm thẩm mỹ". Quả thực, đây là hình thái giá trị thực tiễn
tinh thần ở trình độ phát triển cao và là hình thái giá trị đặc thù.
Tiêu chí tính nhân văn trong đánh giá thẩm mỹ đặt ra các yêu
cầu cụ thể sau:
Sự vật hiện tượng (thiên nhiên, xã hội hay tác phẩm nghệ
thuật...) phải có khả năng trực tiếp gợi ra những khoái cảm thẩm mỹ trong sáng,
tươi vui, những tình cảm nồng nhiệt, tốt đẹp, niềm tin yêu vào con người và
cuộc sống, kích thích tiềm năng sáng tạo và khát vọng vươn tới những lý tưởng
thẩm mỹ - xã hội chân chính.
Phải có sự tương ứng của khách thể đối với hệ thống nhu cầu,
lợi ích, mục đích thực tiễn và tinh thần cơ bản của xã hội. Trong sự tương ứng
này, những khoái cảm tinh thần, niềm say mê và những hoài vọng mà khách thể
mang lại cho cá nhân không mâu thuẫn mà hoà hợp với thị hiếu và chuẩn mực chung
của toàn thể xã hội.
Khách thể phải đạt tới sự phù hợp với xu hướng phát triển,
với quy luật phát triển của xã hội (phù hợp với tiến bộ xã hội). Điều đó có
nghĩa là trong khách thể đó một mặt, phải lưu giữ, kế thừa được những nét đẹp
theo quan điểm của các chuẩn mực truyền thống, mặt khác, phải bao hàm được
những yếu tố tiên tiến, giữ vai trò "vượt trước", "định hướng”,
cho sự vươn tới của thực tại, đồng thời, thể hiện được sự thống nhất giữa tính
hiện thực và tính lý tưởng.
Khách thể phải đáp ứng được những tiêu chí nhân văn của sự
phát triển xã hội, phải góp phần đem lại cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, tạo điều
kiện thúc đẩy sự phát triển hài hoà, hoàn thiện của con người và của xã hội,
đáp ứng được mục đích, yêu cầu mà hiện thực xã hội đặt ra trong mỗi giai đoạn
nhất định.
Đồng thời với tiêu chí về tính nhân văn, tiêu chí về sự hài
hoà thẩm mỹ và hoàn thiện thẩm mỹ cũng giữ một vị trí đặc biệt trong đánh giá
thẩm mỹ.
Không phải ngẫu nhiêm mà trong lịch sử phát triển tư tưởng
mỹ học đã tồn tại phổ biến quan niệm coi sự hài hòa chất và tính hoàn thiện
thẩm mỹ là những đường chủ yếu cấu thành cái đẹp. Hài hòa thẩm mỹ là khái niệm
phản ánh tính toàn vẹn, hợp lý thống nhất của mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc
nội dung và kết cấu của một chỉnh thể khách thể thẩm mỹ hoặc sự tương hợp giữa
hiện tượng thẩm mỹ này với hiện tượng thẩm mỹ khác trong tính muôn màu muôn vẻ
của chúng. Sự hài hoà của khách thể (đối tượng của đánh giá thẩm mỹ) không phải
là sự cân bằng đơn giản, sự hoà hợp một chiều, mà là sự thống nhất trên cơ sở
những khác biệt về lượng và về chất. Hài hoà là thuộc tính bản chất của cái
đẹp.
Sự hoàn thiện thẩm mỹ là quan niệm về mức độ cao nhất, trọn
vẹn và đầy đủ nhất (cả về chất và lượng) của sự hài hoà của khách thể trong một
bối cảnh, điều kiện xác định nào đó. Ở mức độ này, trong những mối quan hệ cụ
thể, các thuộc tính thẩm mỹ của đối tượng coi như đạt tới sự hài hoà tối ưu,
hoàn hảo. Hoàn thiện thẩm mỹ được xem là sự phù hợp hoàn toàn, sự khẳng định
trực tiếp lý tưởng thẩm mỹ của con người và xã hội. Chính vì lẽ đó, hoàn thiện
thẩm mỹ luôn tồn tại với tư cách là chuẩn mực cơ bản của đánh giá thẩm mỹ. Một
sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội hay nghệ thuật… chỉ được thừa nhận là đẹp
khi có sự phù hợp với chuẩn mực về sự hoàn thiện thẩm mỹ. (Tất nhiên, "sự
hoàn thiện" luôn phải được nhìn nhận với ý nghĩa tương đối trong những
điều kiện và quan hệ cụ thể).
Mối quan hệ giữa hài hòa thẩm mỹ và hoàn thiện thẩm mỹ là
mối quan hệ biện chứng. Hài hoà là tiền đề, điều kiện của hoàn thiện. Ngược
lại, hoàn thiện là sự biểu hiện của hài hoà đạt tới mức cao và mang ý nghĩa
thẩm mỹ tích cực nhất.
Hài hoà thẩm mỹ là một trong những tiêu chí đánh giá giá trị
thẩm mỹ, bộc lộ trong nó sự thống nhất biện chứng giữa cái khách quan và cái
chủ quan. Hài hoà là thuộc tính giá trị không chỉ phụ thuộc vào những phẩm chất
vốn có của khách thể, mà còn phụ thuộc nhiều vào những nhân tố chủ quan của con
người. Đánh giá thẩm mỹ từ tiêu chí hài hoà không thể tách rời nội dung lịch sử
- xã hội, sự phản ánh về mặt thẩm mỹ những quan hệ kinh tế - xã hội, giai cấp
hay dân tộc nhất định. Những nội dung đó thường biểu hiện trực tiếp qua hệ
thống nhu cầu thực tiễn và tinh thần của con người và xã hội.
Trong đời sống hiện thực, sự hài hòa thẩm mỹ mang ý nghĩa xã
hội cao nhất là sự hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa con người và tự nhiên,
là sự hài hoà giữa các giá trị văn hoá tinh thần có ý nghĩa chuẩn mực. Cái đẹp
đích thực là cái đẹp phải đạt tới tính đúng đắn, chân thực của cuộc sống, tính
nhân bản, nhân văn tốt đẹp và tính chỉnh thể, toàn vẹn, biểu cảm, hoàn thiện
thẩm mỹ. Theo đó, sự hài hòa Chân - Thiện - Mỹ luôn được coi là hệ tiêu chí
tổng hợp để đánh giá cái đẹp.
Cùng với tiêu chí về sự hài hòa, hoàn thiện thẩm mỹ, tiêu
chí về tính biểu cảm và tính hình tượng là tiêu chí chuẩn mực đặc thù để đánh
giá giá trị thẩm mỹ.
Khác với các giá trị xã hội khác (như giá trị khoa học, đạo
đức...), giá trị thẩm mỹ được xác định phụ thuộc trước hết và trực tiếp vào khả
năng biểu cảm của khách thể thẩm mỹ. Nếu như giá trị khoa học được xác định ở
tính ưu việt của lý tính trong phản ánh thế giới khách quan, thể hiện ở tính
đúng đắn của chân lý khoa học, giá trị đạo đức được xác định ở tính không thể
chia cắt giữa tình cảm và lý trí, ý chí, thì giá trị thẩm mỹ được xác định nổi
bật ở tình cảm, ở khả năng gợi ra những cung bậc tinh tế, phong phú với nhiều
sắc thái khác nhau của cảm xúc thẩm mỹ tích cực của con người.
Đánh giá thẩm mỹ không phải là hoạt động đánh giá mang tính
lý tính thuần túy mà bao giờ cũng phải thông qua tình cảm đối với cái toàn vẹn,
hài hòa, hoàn thiện thẩm mỹ của khách thể hiện thực. Không phải ngẫu nhiên mà
nhiều nhà mỹ học trong quá khứ đã từng định nghĩa nghệ thuật là phương tiện
nhận thức thế giới bằng tình cảm. Cảm xúc thẩm mỹ là kết quả của sự nhận thức
và tự nhận thức thẩm mỹ dưới hình ảnh cảm xúc chủ quan. Về điều này, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định:"Con người khẳng định mình không chỉ trong tư
duy, mà còn trong thế giới vật thể bằng tất cả các cảm xúc". Cảm xúc thẩm
mỹ trở thành một hình thức lý luận - cảm tính, tư tương - cảm xúc tham gia trực
tiếp vào quá trình đánh giá thắm mỹ, làm cho đánh giá thẩm mỹ trở nên có nội
dung, có định hướng, có mục đích xác định. Trong hoạt động thẩm mỹ, nói rộng
hơn là trong đời sống thẩm mỹ, nếu thiếu vắng đi những cảm xúc của con người
thì đã, đang và sẽ không bao giờ có thể có sự tìm tòi chân lý về con người. Khả
năng biểu cảm của khách thể mang đến cảm xúc thẩm mỹ cho con người là đặc trưng
không thể thiếu trong đánh giá thẩm mỹ. Cảm xúc thẩm mỹ trở thành cái có mục
đích tự thân tham gia vào các giá trị thẩm mỹ.
Tính hình tượng có liên quan mật thiết đến tính biểu cảm.
Tính hình tượng của khách thể bao hàm trong nó hàng loạt yếu tố: Sự thống nhất
giữa cái chung và cái riêng, giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa lý trí
và cảm xúc... Nó mở ra khả năng gợi mở, đánh thức trí tưởng tượng, liên tưởng,
so sánh... của con người và mang đến những sắc thái khác nhau cho cảm xúc thẩm
mỹ. Nếu nội đung, ý nghĩa và bản chất xã hội của khách thể trong các hình thái
giá trị xã hội khác có thể được biểu đạt dưới hình thức logic của tư tưởng, thì
nội đung, thực chất, ý nghĩa thẩm mỹ - xã hội của khách thể chỉ có thể được
biểu hiện thông qua hình thức sinh động, cụ thể cảm tính của hệ thống các hình
tượng.
Trong lĩnh vực đánh giá thẩm mỹ nghệ thuật, tiêu chí về tính
hình tượng nghệ thuật được coi là tiêu chí xuất phát điểm của mọi hoạt động
đánh giá. Nghệ thuật sống bằng hình tượng. Trong nghệ thuật, tư tưởng không
hiện ra bằng triết lý khô khan, bằng những phát biểu thuần tuý mang tính chất
chính luận, mà là cái lấp lánh đằng sau những hình tượng nghệ thuật. Tư tưởng
nghệ thuật không hiện lên ở những dòng chữ, ở trong những chất liệu gỗ, đá, bột
màu… mà hiện lên ở đằng sau những con chữ ở giữa những dòng chữ, sau cái thâm
trầm của đá, cái xôn xao, tươi sáng của các sắc màu... Tư tưởng nghệ thuật bộc
lộ cách thức nhận thức, phản ánh cuộc sống hiện thực một cách đặc thù của người
nghệ sĩ. Tư tưởng nghệ thuật có tính tổng hợp cao, được rút ra từ toàn bộ tác
phẩm nghệ thuật và bao hàm toàn bộ thế giới các sáng tạo nghệ thuật của người
nghệ sĩ. Để biểu đạt được nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải huy động toàn bộ những
năng lực tinh thần, của mình để tạo ra hệ thống các hình tượng nghệ thuật. Tư
tưởng nghệ thuật thể hiện trực tiếp lý tưởng thẩm mỹ và hiện diện như một hình
thái tinh thần rất cụ thể, nảy sinh do sự cọ xát, sự va chạm giữa trí tuệ, tâm
hồn của người sáng tác với hiện thực khách quan, biểu hiện sự thống nhất giữa
chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể chiếm lĩnh khách thể. Trong quá trình
sáng tạo nghệ thuật cũng như trong tác phẩm nghệ thuật, hệ thống các hình tượng
nghệ thuật chính là nơi chứa đựng những cách cảm, cách nghĩ, thái độ đối với
cuộc đời, cũng như toàn bộ tài năng sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Tính biểu cảm và tính hình tượng của khách thề thẩm mỹ còn
thể hiện ở sự gợi mở cho con người (với tư cách chủ thể thưởng thức, thẩm định,
đánh giải một khả năng "thẩm định trực giác". Đánh giá thẩm mỹ, sự
thẩm định cái đẹp trước hết là "thẩm định trực giác" và đi kèm với sự
thẩm định đó bao giờ cung là trạng thái thể nghiệm, một khoái cảm tinh thần.
Đây là sự thẩm định có sự kết hợp ở mức cao toàn bộ năng lực trí tuệ và xúc cảm
của con người. Đánh giá về hình thức thẩm định này, nhà vật lý học Ơgiêni
Phainơbéc đã khẳng định:"Con người không thể nhận thức thế giới khách quan
vật chất và tinh thần nếu không đi bằng hai con đường chủ yếu đến nhận thức
chân lý là con đường trực giác và con đường duy lý". Thậm chí, ông còn cho
rằng "thẩm định trực giác” là suy lý ở cấp hạng cao hơn suy diễn
logic".
Như vậy, xét trong mối quan hệ với chủ thể đánh giá, tiêu
chí về tính biểu cảm và tính hình tượng trong việc xác định các giá trị thẩm mỹ
còn đòi hỏi khách thể thẩm mỹ phải có khả năng tác động một cách sâu sắc tới
những suy tư của con người về cuộc sống, lay động tới chiều sâu của ý thức và
khơi gợi ở họ những cung bậc tinh tế phong phú của cảm xúc thẩm mỹ tích cực. Và
do vậy, nó là tiêu chí có vị trí đặc biệt trong hệ thống tiêu chí nội dung của
chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ.
Tiêu chí về tính sáng tạo được coi là tiêu chí mang tính
tổng hợp cao nhất trong đánh giá các giá trị văn hoá tinh thần cũng như trong
đánh giá thẩm mỹ.
Bản chất của văn hoá là sáng tạo. Văn hoá không phải là cái
gì khác, mà chính là sự chắt lọc, kế thừa và tiếp biến liên tục trong dòng thời
gian vô tận những tinh hoa sáng tạo của con người. Một giá trị văn hoá đích
thực bao giờ cũng được tạo nên từ khả năng sáng tạo tài tình của bàn tay và
khối óc con người hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. Chính vì thế, từ phương điện của
sự thẩm định, bất kỳ giá trị văn hoá nào cũng đều đòi hỏi phải được đánh giá từ
tiêu chí về tính sáng tạo.
Văn hoá thẩm mỹ là bộ phận tinh tế của văn hoá xã hội, là
lĩnh vực thể hiện rõ nét và đặc trưng nhất tính nhạy cảm và những năng lực sáng
tạo của con người "theo quy luật của cái đẹp". Do đó, đánh giá các
giá trị văn hoá thẩm mỹ càng nhất thiết phải xuất phát từ tiêu chí về tính sáng
tạo.
Sáng tạo là phẩm chất của hoạt động người, là sự biểu hiện
trực tiếp nhưng năng lực bản chất người. Nhờ năng lực này mà con người đã tạo
ra được thế giới của các giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật. Trong cuộc sống,
để hình thành và hoàn thiện các quan hệ nhân tính của mình, để bồi dưỡng, phát
triển nhân cách của mình, con người luôn khát khao vươn tới cái đẹp. Con người
cần cái đẹp cung như cần hít thở khí trời. Nhưng không phải bất kỳ người nào
cũng có thể sáng tạo ra cái đẹp và đều biết cách đưa cái đẹp vào cuộc sống.
Trong lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất, người ta chỉ cần nắm được những qui
tắc, nguyên lý, quy trình công nghệ là đã có thể tham gia vào việc sản xuất ra
vật phẩm. Nhưng để tạo nên được các giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật thì
hoàn toàn không phải đơn giản như vậy. Sáng tạo thẩm mỹ là hoạt động tinh thần
đầy cá tính, là thước đo ở mức cao nhất trình độ phát triển nhưng năng lực bản
chất người. Nó đòi hỏi ở con người với tư cách chủ thể sáng tạo không phải chỉ
có năng khiếu và kinh nghiệm nghề nghiệp, mà hơn thế, phải có một quá trình học
tập, lao động miệt mài, nghiêm túc với một niềm say mê vô hạn với công việc và
sự thôi thúc bởi khát vọng và ý tưởng sáng tạo không bao giờ cạn. Giá trị thẩm
mỹ bao giờ cũng hiện điện là công trình sáng tạo của con người.
Không phải hệ thống chuẩn mực đánh giá các giá trị khác
không dựa trên tiêu chí về tính sáng tạo. Nhưng trong đánh giá thẩm mỹ, tiêu
chí về tính sáng tạo có những yêu câu riêng.
Sáng tạo trong bất kỳ loại hoạt động nào cũng cần nắm vững
các tri thức đối với công việc và sự thành thục của thao tác nghề nghiệp. Nhưng
trong lĩnh vực thẩm mỹ, yêu cầu sáng tạo đòi hỏi hoạt động của chủ thể phải đạt
tới trình độ điêu luyện, tinh xảo để có thể tạo ra được những sản phẩm có chất
lượng cao, mang tính hoàn thiện và độc đáo Mặt khác, yêu cầu sáng tạo trong
đánh giá thẩm mỹ là yêu cầu cao về cá tính, sự độc đáo của ý thức thẩm mỹ cá
nhân. Nếu như các chuẩn mực đánh giá đạo đức được biểu hiện trong tính phổ biến
là chuẩn mực đánh giá chung của một nhóm xã hội, hoặc của cả xã hội, không mang
nhiều dấu ấn của cá tính, sở thích, ý tưởng riêng của cá nhân, thì chuẩn mực
đánh giá thẩm mỹ lại đặc biệt chú trọng tính cá biệt, cá thể, đặc điểm nhân
cách, phẩm chất thẩm mỹ của mỗi cá nhân với tư cách chủ thề. Đặc điểm của sự
sáng tạo giá trị thẩm mỹ thể hiện ớ chỗ, đó là sự sáng tạo một lần, có một
không hai, không lặp lại. Mọi sự lặp lại (nhất là trong nghệ thuật) đều làm suy giảm, thậm chí thủ tiêu giá trị thẩm
mỹ.
Các chủ thể đều có thể rất giống nhau ở năng lực và ý chí
vượt lên trên giới hạn của bản thân, quên mình vì công việc, ở niềm say mê và ý
chí sáng tạo. Nhưng họ vĩ đại ở chỗ, các tác phẩm nghệ thuật mà họ tạo ra là
những công trình sáng tạo độc đáo có một không hai, có sức sống trường tồn
trong thời gian, góp phần tạo nên những đỉnh cao trong lịch sử phát triển văn
hoá loài người.
Yêu cầu sáng tạo trong đánh giá thẩm mỹ nói chung, đặc biệt
là trong lĩnh vực nghệ thuật, không chấp nhận sự sao chép, bắt chước, hoặc sản
xuất đồng loạt. Một nghệ sĩ chân chính, một nghệ sĩ lớn bao giờ cũng là người
in đậm đấu ấn cá nhân vào tác phẩm của mình. Chính nhờ dấu ấn cá nhân đó mà xưa
nay, trong lịch sử sáng tạo nghệ thuật, các nghệ sĩ bậc thầy đã tạo nên được
những giá trị văn hoá tinh thần đạt tới tính thời đại và tính nhân loại.
Các tiêu chí nội dung của chuẩn mực thẩm mỹ về tính nhân
văn, về sự hài hoà, hoàn thiện thẩm mỹ, về tính biểu cảm, tính hình tượng và
tính sáng tạo chính là các tiêu chuẩn cơ bản cần thiết đối với việc đánh giá
các giá trị văn hoá thẩm mỹ.
Trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay, khi mà mọi lĩnh
vực từ kinh tế, chính trị, văn hoà đến xã hội đều có sự biến đổi, khi mà sự
biến đổi trong thang bậc giá trị, xã hội đang là một tất yếu khách quan thì
việc xác định một hệ thống tiêu chí chuẩn mực có ý nghĩa thước đo là vô cùng
quan trọng và cần thiết. Vấn đề là ở chỗ, làm sao để “thước đo" đó ngày
càng trở thành phổ biến, được vận đụng vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, đáp ứng
được nhu cầu, khát vọng vươn tới Chân - Thiện - Mỹ của nhân dân.
Nguồn:www.chungta.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét