CÁCH TIẾP CẬN VẤN ĐỀ VĂN HÓA
THEO QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC
THEO QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC
TS. Vũ Thị Kim Dung
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Xuất
phát từ quan niệm về bản chất của con người và về phương thức xác định bản chất
của sự "tồn tại người" của triết học Mác, chúng ta có thể đi tới một
kết luận rằng nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát triển
con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quy định sự tồn
tại của con người với tư cách là một thực thể sinh vật, thì văn hóa là phương
thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với các hoạt động
sống của con người. Nói cách khác, văn hóa là sự kết tinh năng lực bản chất
người trong thế giới các sản phẩm do chính hoạt động con người tạo ra, là cái
quy định bản chất con người với tư cách là một "sinh vật có tính
loài" - là "một thực thể xã hội".
Chúng ta đang sống
trong thập kỷ thế giới về văn hóa và phát triển do UNESCO phát động. Vấn đề văn
hóa trở thành trung tâm chú ý của giới nghiên cứu trên thế giới. Ở nước ta, mấy
năm gần đây, đặc biệt là từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, vấn đề văn hóa cũng
được tập trung đề cập. Mặc dù góc độ nghiên cứu, phương pháp tiếp cận có thể
khác nhau nhưng người ta đều nhất trí rằng văn hóa là một cái gì đó giúp cho
con người "không bị đứt đoạn với quá khứ", "không bị hẫng hụt
trước tương lai", và là sự chuẩn bị đầy đủ "hành trang của con người
để bước vào thế kỷ XXI"[1]. Với ý nghĩa đó, sẽ không thỏ
đáng nếu những người nghiên cứu mácxít chúng ta lại không hình thành được cho
mình một phương hướng nghiên cứu (tiếp cận) vấn đề văn hóa theo quan điểm triết
học Mác. Đây là vấn đề có ý nghĩa thời sự về lý luận và thực tiễn. Dưới đây là
sự trình bày một vài suy nghĩ của tác giả với mong muốn góp một phần nhỏ vào
mối quan tâm chung đó.
Về
tình hình nghiên cứu: Cho đến nay đã có tới hàng trăm định nghĩa khác nhau về
văn hóa. Thuật ngữ "văn hóa" xuất hiện từ rất sớm trong ngôn ngữ nhân
loại (xuất phát từ gốc chữ latinh "Cultura" - có nghĩa là trồng trọt,
canh tác). Qua các thời kỳ lịch sử, khái niệm văn hóa được bổ sung thêm những
nội dung mới. Người ta đưa ra rất nhiều định nghĩa về văn hóa, đặc biệt là
trong khoảng vài chục năm trở lại đây. Các định nghĩa đó được hình thành hoặc
theo lối duy danh định nghĩa, hoặc là trên cơ sở các phương pháp tiếp cận khác
nhau (như phương pháp nghiên cứu hệ thống - cấu trúc, hay phương pháp nghiên
cứu chức năng của văn hóa); hoặc cũng có thể xuất phát từ quan điểm lịch đại
xem xét văn hóa với tư cách là tiêu chí để phân định các bước tiến bộ xã hội,
hay từ quan điểm đồng đại xem xét văn hóa như là một trong những tiêu chuẩn để
so sánh (phân biệt) trình độ phát triển của các quốc gia, v.v... Đánh giá một
cách tổng thể, thì cho đến nay văn hóa vẫn là một trong những khái niệm phức
tạp và khó xác định.
Trong toàn bộ các tác
phẩm kinh điển đồ sộ của mình, Mác không để lại một tác phẩm nào với tư cách là
sự trình bày hệ thống các quan điểm của mình về văn hóa. Văn hóa không được Mác đề cập như một lĩnh vực nghiên cứu
chuyên biệt, độc lập. Nhưng toàn bộ tư tưởng của Mác về vấn đề này tự nó
lại được khái quát lên và thể hiện ra trong hệ thống các quan điểm duy vật biện
chứng của Mác về con người và xã hội. Trong triết học Mác, bản chất của
văn hóa được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng với bản chất của con người
và xã hội.
Trong lịch sử phát
triển lâu dài của triết học, bất kỳ trường phái, hệ thống triết học nào,
"nhất là của triết học hiện đại" (nói như Engen) cũng đều phải giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề "mối quan hệ giữa tư duy và
tồn tại". Điều đó cũng có nghĩa là bất kỳ triết học nào cũng đều phải trả
lời bằng cách này hay bằng cách khác câu hỏi tổng quát về vai trò của con người
đối với thế giới. Triết học Mác cũng xuất phát từ con người và trở lại với con
người. Con người trong triết học Mác là "cái xã hội". Con người trước
hết phải là một "thực thể tự nhiên", là con người "sinh
học" với tư cách là một bộ phận của giới tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự
nhiên và chịu sự quy định của những quy luật tự nhiên. Mác nói "tự nhiên
là thân thể vô cơ của con người". Nhưng cái quy định bản chất của con
người, cái tạo nên sự khác biệt về chất có "tính tộc loại" để phân
biệt con người với tư cách là một "thực thể xã hội". Trong "Luận
cương về Phoiơbắc (1845) Mác viết: "... bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hòa những quan hệ xã hội"[2]. Trong nhiều tác phẩm của
mình, Mác đã bàn đến "tính xã hội" của con người (của bản chất con
người) trong các hoạt động sống của họ như là những tiền đề đầu tiên của sự
tồn tại và sáng tạo. Như vậy, cái làm nên bản chất người, cái tạo nên sự khác
biệt giữa con người với bất kỳ giống loài nào của tự nhiên, không có gì khác
chính là những "hoạt động sống" của con người. Trong "Bản thảo
kinh tế - triết học" (1844) Mác viết: "Súc vật cố nhiên cũng sản
xuất... nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó cần đến, sản xuất một
chiều; còn con người thì sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới
sự thống trị của nhu cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó con người sản xuất
ngay cả khi thoát khỏi nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó thì
mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra
bản thân mình, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên"[3]2. Như vậy, nếu
nói "hoạt động" thì con vật cũng hoạt động theo một nghĩa nào đó.
Nhưng sự khác biệt về chất giữa hoạt động của con người với hoạt động của con
vật là ở chỗ, con vật chỉ hoạt động theo thước đo và nhu cầu giống loài của nó
như là phương thức của tồn tại vật còn con người thì có thể sản xuất theo thước
đo của bất kỳ giống loài nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng
cho đối tượng, tạo nên sự khác biệt bản chất của phương thức tồn tại người. Mác
gọi những hoạt động sống của con người (trong đó Mác nhấn mạnh "hoạt động
sản xuất vật chất") là những hoạt động có tính tộc loại của con người
trong sự tồn tại phổ biến của nó, làm mở ra những lực lượng bản chất của con
người. Và do đó, bản chất hoạt động của con người là "nhào nặn
vật chất theo quy luật của cái đẹp"[4]1. "Nhào nặn
vật chất theo quy luật của cái đẹp" - đó chính là năng lực bản chất đặc
thù chỉ có ở con người, gắn với mọi hoạt động của con người. Bởi vậy, có thể
nói, sự thể hiện, phát huy những năng lực bản chất người" -
đó chính là văn hóa.
Trong đời sống hiện
thực, con người bằng hoạt động "nhào nặn vật chất theo quy luật của cái
đẹp" đã chuyển bản chất của mình vào những đối tượng do chính mình tạo ra,
tạo nên một "thiên nhiên thứ hai" với tư cách là "sự đối tượng
hóa", "khách thể hóa" chính bản chất con người, mà trong
đó con người có thể "đối lập một cách tự do vứi sản phẩm của mình". Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên
biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con người) và thực tại của nó. "Thiên
nhiên thứ hai" do con người sáng tạo bằng lao động sáng tạo và tri thức
của mình, kết tinh những giá trị tinh thần của nó - đó cũng chính là văn hóa.
Xuất phát từ quan niệm
về bản chất của con người và về phương thức xác định bản chất của sự "tồn
tại người" của triết học Mác (như đã trình bày ở trên), chúng ta có thể đi
tới một kết luận rằng nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát
triển con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quy định sự
tồn tại của con người với tư cách là một thực thể sinh vật, thì văn hóa là
phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với các
hoạt động sống của con người. Nói cách khác, văn hóa là sự kết tinh năng lực
bản chất người trong thế giới các sản phẩm do chính hoạt động con người tạo ra,
là cái quy định bản chất con người với tư cách là một "sinh vật có tính
loài" - là "một thực thể xã hội".
Như vậy, văn hóa là
khái niệm phản ánh tổng thể sự thể hiện ra và sự phát huy những năng lực bản
chất người trong tất cả các dạng thứ tồn tại hoạt động của con người và là sự
phản ánh tổng thể các hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình
thực tiễn - lịch sử - xã hội của mình.
Khái niệm văn hóa được
xác định trên hai phương diện:
- Phương diện thứ
nhất: Văn hóa gắn với sự biểu hiện của phương thức tồn tại người, là sự thể hiện đầy đủ nhất bản chất
con người trong tất cả mọi dạng hoạt động của con người như hoạt động thực
tiễn, hoạt động nhận thức, hoạt động giao tiếp, và cả những hoạt động có tính
chất thể chất của con người, v.v... Như vậy là văn hóa có mặt trong mọi lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, xã hội, quan hệ giao tiếp, ứng xử, đạo đức, lối sống
và cả ở trong mọi khía cạnh, mọi sự tồn tại tinh thần vô cùng đa dạng, phong
phú của lĩnh vực tư duy của con người. Nếu văn hóa là cái gắn với phương thức
của sự tồn tại người thì có thể nói một cách bao quát: Tất cả những gì có quan
hệ với con người (con người với tư cách là con người cá nhân và xã hội) và mọi
cách thức tồn tại của nó đều có liên quan với văn hóa. Không thể có sự tồn tại
các khái niệm "văn hóa tiêu cực", "sản phẩm văn hóa độc
hại", "giá trị văn hóa tiêu cực", v.v... Đó chỉ có thể là những
hiện tượng giả núp dưới hình thức những ấn phẩm văn hóa hay các hoạt động văn
hóa. Về thực chất, chúng xa lạ đối với con người, và do vậy cũng xa lạ đối với
văn hóa. Chúng tồn tại như là những phạm trù đối lập dùng để chỉ những hình
thức "tha hóa" của văn hóa, như là cái "phản văn hóa",
"phản giá trị".
Từ phương diện này có
thể đi đến các khái niệm phát sinh như: văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật,
văn hóa giao tiếp, văn hóa thẩm mỹ, trình độ phát triển văn hóa, nhân cách văn
hóa v.v...
- Phương diện thứ hai của văn hóa bao gồm thế giới các giá trị được kết
tinh trong "thiên nhiên thứ hai" - với tư cách là sản phẩm của hoạt động "mang
tính tộc loại" của con người. Đây là một phương diện quan trọng và cơ bản
quy định đặc điểm về nội dung và quy luật của sự phát triển có tính đặc thù của
văn hóa. Đó là đặc điểm về sự bảo tồn, duy trì, tích lũy các giá trị; là sự
phát triển trên cơ sở kế thừa, v.v... Nói tới giá trị là nói tới mối liên hệ
không thể chia cắt được của văn hóa đối với con người. Trong mối quan hệ này,
con người tồn tại với tư cách vừa là chủ thể của thế giới văn hóa, vừa là khách
thể - sản phẩm của thế giới văn hóa, lại vừa là đại biểu mang giá trị văn hóa
do chính mình tạo ra. Cho nên, xét theo phương diện rộng (về mặt chức năng),
khái niệm "văn hóa" và "giá trị" là gần như trùng hợp. Có
thể nói rằng "giá trị", đó là sự thật của văn hóa và thực chất nó
mang tính xã hội.
Giá trị có thể hiểu là
hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và
được tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con
người và môi trường tự nhiên - xã hội. Văn hóa, với cả hai phương diện:
tổng hòa các giá trị và phương thức tạo ra các giá trị, có thể được phân chia
ra hai lĩnh vực là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Sự phân chi này là nhằm mục đích
phân biệt các sản phẩm có sự tồn tại dưới hình thức vật thể(vật chất) như các
công trình điêu khắc, kiến trúc, hội họa các di tích văn hóa, các khu bảo tồn,
bảo tàng, danh lam, thắng cảnh, v.v... với những sản phẩm văn hóa có sự tồn tại
thuần túy tinh thần như trình độ học vấn, trình độ nhận thức, trình độ phát
triển khoa học, sự phát triển tư tưởng, tình cảm, năng lực thẩm mỹ, năng lực
thụ cảm (tiêu dùng) các giá trị văn hóa và sáng tạo nghệ thuật, trình độ phát
triển của ý chí, niềm tin, lý tưởng, v.v... Về thực chất, sự phân chia
đó chỉ có ý nghĩa tương đối. Cái gọi là "văn hóa vật chất" thực ra cũng chỉ là
sự "vật chất hóa" các giá trị tinh thần và bản thân các giá trị tinh
thần thì không phải bao giờ cũng tồn tại thuần túy tinh thần mà thường được
"vật thể hóa" trong các dạng tồn tại vật chất. Đó là cha kể đến những
giá trị văn hóa tinh thần tồn tại tiềm tàng dưới dạng "phi vật thể"
nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực
quan hệ đạo đức, giao tiếp, ứng xử, trong phong cách lối sống, phong tục tập
quán, v.v...
Từ phương hướng tiếp cận vấn đề bản chất của văn hóa theo quan điểm
triết học Mác như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể có cách xác định rõ hơn
về nhiều vấn đề khác trong lĩnh vực văn hóa, như các vấn đề: chức năng của văn hóa; văn hóa và
phát triển; giao tiếp văn hóa; và sự hình thành nhân cách; tiêu chí của phân
loại văn hóa; phân biệt khái niệm "văn hóa" với khái niệm "văn
minh"; những vấn đề về bảng giá trị, về bản sắc văn hóa, v.v...
Về chức năng của văn hóa: Trong nhiều tài liệu nghiên cứu văn hóa ở nước ta hiện nay
có nói đến "chức năng nhận thức", "chức năng giáo dục",
"chức năng thẩm mỹ", "chức năng dự báo", v.v... của văn
hóa. Cũng có người có cách đề cập khác về chức năng của văn hóa, như đưa ra
chức năng "hành lang an toàn" (với nghĩa tạo môi trường văn hóa thuận
lợi cho sự tồn tại và hoạt động của con người), chức năng "kìm hãm"
(của yếu tố nội sinh đối với yếu tố ngoại sinh trong sự "giao thoa"
giữa các nền văn hóa), hay chức năng "kẻ báo thù" (với nghĩa văn hóa tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng với con người. Phá vỡ văn hóa cũng có nghĩa là phá vỡ chính
bản thân con người)[5], v.v... Có thể còn có rất
nhiều cách đề cập khác nhau, các tên gọi khác nhau về chức năng của văn hóa.
Nhưng xuất phát từ cơ sở lý luận về bản chất văn hóa của Mác ta có thể nêu lên
luận điểm có tính chất khái quát về chức năng của văn hóa: Chức năng của văn
hóa là nhằm tạo ra được những khả năng, những điều kiện và môi trường tối ưu
nhất, phù hợp nhất cho sự bộc lộ và phát huy (giải phóng) những năng lực bản
chất người, làm cho con người trở thành tốt hơn, đẹp hơn, hoàn thiện hơn, trở
thành "người" hơn trong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử của mình.
Chức năng của văn hóa đã được Mác và Ăngghen khái quát trong luận điểm: Mỗi
bước mà con người tiến đến văn hóa là mỗi bước con người tiến đến tự do. Cách
tiếp cận chức năng văn hóa như vậy đồng thời cũng đã mở ra những vấn đề phương
pháp luận về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội và nhân cách.
Về tiêu chí để phân loại văn hóa: Hiện nay trong
giới nghiên cứu văn hóa (trong nước và trên thế giới) đã hình thành nên những
lý thuyết khác nhau về phân loại văn hóa. Lý thuyết về phân loại văn hóa còn là
vấn đề rất phức tạp. Tùy theo cách xác định tiêu chí của mỗi lý thuyết phân
loại, hoặc tùy theo góc độ khác nhau của việc xem xét mà người ta có những cách
phân loại khác nhau. Ví dụ, lấy tiêu chí theo cách phân chia truyền thống trên
diện rộng dựa vào sự khác biệt trong bản thân sắc thái văn hóa mà người ta chia
ra văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây (đây là cách phân loại khá phổ
biến); lấy tiêu chí là tôn giáo, tín ngưỡng, người ta chia ra: văn hóa Nho -
Phật - Lão (của khu vực Trung vận đông) và văn hóa Kitô giáo (của khu vực châu
Âu hiện đại); lấy tiêu chí là các dạng biểu hiện cụ thể của hoạt động con người,
người ta có khái niệm "văn hóa ngành" (văn hóa kinh doanh, du lịch,
thể thao, tiêu dùng, v.v...); lấy tiêu chí là sự phân định theo khu vực địa lý
và cộng đồng dân cư mà có sự phân chia theo "văn hóa vùng" (văn hóa
của mỗi dân tộc, quốc gia... như văn hóa Chàm, văn hóa Khơme, văn hóa Việt Nam,
văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nhật Bản...). Và còn có thể có rất nhiều cách phân
loại khác nhau dựa trên những tiêu chí khác nhau. Thực ra, những cách phân loại
khác nhau về văn hóa như vậy đều có thể chấp nhận được nếu xét theo quan điểm
triết học Mác về văn hóa. Văn hóa là gắn với con người, với hoạt động của con
người, mà con người theo quan điểm triết học Mác không phải con người
"chung chung, trừu tượng" mà là con người "trong tính hiện thực
của nó". Cho nên, lấy một góc độ hiện thực nào đó trong sự tồn tại của con
người (về mặt không gian hay thời gian) để có các khái niệm văn hóa vùng, văn
hóa quốc gia, dân tộc... hay văn hóa gắn với mỗi nấc thang của quá trình lịch
sử chẳng hạn... thì đều có thể chấp nhận được và đều có giá trị về mặt thực
tiễn xã hội tùy theo nội dung và mục đích nghiên cứu.
Có một điều cũng rất
đáng quan tâm là trong giới triết học ngoài mácxít hiện còn có cách phân loại
văn hóa dựa theo đặc trưng cơ bản của mỗi nền văn minh (chẳng hạn quan điểm của
A. Toffler). ở đây đồng thời cũng đặt ra vấn đề cần có sự phân biệt giữa hai
khái niệm "văn hóa" và "văn minh". Đây là hai khái niệm
khác biệt. Nói đến văn hóa là nói đến sự trừu tượng hóa trình độ phát triển
toàn diện những năng lực tinh thần của người (cá nhân, cộng đồng, xã hội), là
nói đến trình độ phát triển "bản chất người". Còn nói đến văn minh là
chủ yếu nói đến trình độ của con người ở lĩnh vực chiếm lĩnh giới tự nhiên bằng
thực tiễn, thể hiện tập trung ở sự phát triển của lực lượng sản xuất, ở trình
độ khoa học kỹ thuật, hay trình độ phát triển của nền văn minh vật chất nói
chung. Hai khái niệm đó có sự khác biệt cả về ngoại diện và nội hàm. Chúng còn
biểu hiện sự khác biệt ở trong những thuộc tính (chẳng hạn, thuộc tính của nền
văn minh là có thể so sánh về mặt trình độ - so sánh nền văn minh này với nền
văn minh khác, còn với nền văn hóa thì khó có thể có quan hệ so sánh về mặt giá
trị). Hay về xu hướng thì nền văn minh có xu hướng
ảnh hưởng lan rộng (san lấp dần khoảng cách giữa các dân tộc, quốc gia), còn xu hướng lại là sự duy trì,
bảo tồn (trong bản sắc, phong tục tập quán, lối sống, bảng giá trị, v.v...)
để tạo nên nét riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Cơ sở để
xác định sự khác biệt giữa hai khái niệm trên chính là căn cứ vào quan điểm triết
học Mác về văn hóa (nếu
như văn hóa gắn với toàn bộ hoạt động sống của con người thì văn minh chỉ chủ
yếu gắn với một dạng hoạt động cơ bản là hoạt động cải biến hiện thực). Nhưng
cũng chính vì vậy mà sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa tương đối. Nếu hoạt động sản xuất vật chất là
dạng hoạt động cơ bản của con người thì những thành tựu, giá trị mà nó tạo ra
(với tư cách là thành tựu của nền văn minh) cũng là nằm trong ngoại diện và nội
hàm của khái niệm văn hóa. Khi Mác nói: "Văn hóa nếu khai thác một cách
bừa bãi... thì sẽ để lại đằng sau nó những hoang mạc" thì Mác đã chỉ ra
cho chúng ta thấy rằng trong những quan hệ cụ thể, sự phân biệt giữa hai
khái niệm đó chỉ là tương đối. Việc chỉ ra sự khác biệt giữa hai khái niệm này có ý nghĩa
rất lớn về mặt phương pháp. Văn hóa trong bản chất của nó là hướng tới mục đích
"nhân đạo hóa" con người, hướng tới sự phát triển, giải phóng những
năng lực bản chất người nhằm phát triển, hoàn thiện con người thì văn minh
không phải bao giờ cũng đồng nhất với văn hóa ở tính mục đích. Văn minh một khi bị hướng một cách
tự phát hoặc tự giác với những mục đích phản nhân đạo thì sẽ tạo ra hiểm họa
đối với con người, kìm hãm sự phát triển của con người và xã hội, như những vấn
đề về phá vỡ môi trường sinh thái, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên,
chiến tranh, v.v... Quan điểm của triết học Mác về văn hóa (theo cách tiếp cận
như vậy) đã trang bị cho chúng ta những vấn đề thuộc về phương pháp luận
trong việc nghiên cứu, xem xét, đánh giá các trào lưu triết học hiện đại ngoài
mácxít với một thái độ khách quan, khoa học.
Nói văn hóa là nói tới
con người, nói tới việc phát huy "những năng lực bản chất" của con
người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó, khái niệm văn hóa
hàm chứa trong nó tính chất nhân văn. Quan điểm của Mác về văn hóa vì
thế cũng đồng thời bao hàm cơ sở lý luận của sự hình thành những chuẩn mực đánh
giá các giá trị văn hóa. Cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là
khát vọng hướng tới cái "Chân" - "Thiện" -
"Mỹ" như là chuẩn mực để đánh giá các thành tựu của sự phát triển văn
hóa nhân loại, là cái khung cơ bản, phổ biến trong các thang bậc giá trị. Bản
chất con người là biết hoạt động "theo quy luật của cái đẹp". Quy
luật của cái đẹp theo quan điểm của các nhà duy vật cổ đại, đó là "quy luật
của sự hài hòa". "Sự hài hòa" theo quan điểm triết học Mác
cũng có nghĩa là "mâu thuẫn", nhưng là mâu thuẫn thể hiện ở mức độ "cân bằng",
"phù hợp", "ngang nhau" giữa các mặt đối lập. Phá vỡ sự phù
hợp, cân bằng ấy, cũng có nghĩa là phá vỡ sự hài hòa, và do vậy cũng sẽ không
còn là đẹp. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào lý giải vấn đề văn hóa,
lý giải hoạt động sản xuất ra các giá trị tinh thần của con người là vấn đề mà
chúng ta sẽ vẫn còn tiếp tục phải dầy công nghiên cứu. Trong lĩnh vực văn hóa,
quy luật của "sự hài hòa" bộc lộ trong mối quan hệ biện chứng giữa
Con người - Tự nhiên - Xã hội. Mối quan hệ đó luôn có sự thể hiện ra một cách
khác nhau trong quá trình phát triển cụ thể. Vì thế, sự thống nhất "Chân -
Thiện - Mỹ" với tư cách là cơ sở cho sự thống nhất biện chứng đó cũng luôn
luôn có sự thay đổi. Giá trị là có tính khách quan, nó là sự thống nhất
giữa cái khách quan và cái chủ quan. Chính vì thế, sự thay đổi hệ thống các
chuẩn mực đánh giá giá trị là sự thay đổi hoàn toàn phù hợp quy luật. Quan điểm của Mác đã giúp ta nhìn
nhận một cách tỉnh táo về vấn đề này và thật sự cần phải có sự nghiên cứu toàn
diện, nghiêm túc về sự thay đổi các thang bậc giá trị trong điều kiện những
biến đổi về kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Suy cho cùng, nếu xét
sự thống nhất "Chân - Thiện - Mỹ" với tư cách là chuẩn mực của mọi
hoạt động văn hóa (trong đó có hoạt động đánh giá), thì về mặt ý nghĩa của nội
dung là hoàn toàn phù hợp, đúng đắn. Nhưng sự tồn tại của bản thân những phạm
trù ấy vẫn không hoàn toàn thoát khỏi "những trừu tượng chủ quan". Cái gốc
(chuẩn mực) của sự đánh giá giá trị văn hóa, dù được trình bày dưới các phạm
trù nào, hay dưới hình thức nào, thì nó vẫn phải được xác định bởi sự phù hợp
của nó với những mục đích vì con người, nhằm phát triển con người và vì tiến bộ
xã hội trong mỗi một giai đoạn và vì tiến bộ xã hội trong mỗi một giai đoạn
phát triển lịch sử cụ thể. Có thể hiểu vấn đề đó trong luận điểm của Mác" Mỗi con người đều
mang trong mình bản chất của một Raphaen... Và bản chất của một Raphaen đó
"cần phải được tự do phát triển".
Tóm lại, văn hóa là
một hiện tượng vô cùng phong phú và phức tạp. Nó luôn mở ra một phạm vi rộng
lớn và ở rất nhiều tầng bậc cho sự nghiên cứu. Có thể nói như cách nói của một
nhà triết học phương Tây hiện đại (J. Đeriđa): "Văn hóa là bí ẩn tận cùng
của con". Nắm vững được quan điểm của Mác về bản chất của con người và xã
hội, và do đó, tiếp cận được quan điểm của Mác về vấn đề văn hóa sẽ cho ta chìa
khóa khám phá thế giới văn hóa đầy bí ẩn.
Nguồn: Tạp chí Triết học,
số 1 (101) tháng
2-1998
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét