Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917 - 7-11-2012)
Chủ thuyết chính trị Việt Nam
trong thời đại ngày nay
trong thời đại ngày nay
GS Nguyễn
Đức Bình
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị,
Nguyên Chủ tịch Hội đồng lý luận TW
QĐND - Chủ thuyết chính trị Việt Nam thời đại ngày nay là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển từ hơn 80 năm nay và mãi từ nay về sau.
Sau những biến động chính trị ở Đông Âu và
Liên Xô, cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỷ XX, một chiến dịch công
kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lê-nin
dấy lên từ nhiều phía. Kẻ thù của chủ nghĩa Mác từng vu cáo, xuyên tạc, bác bỏ
học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động suốt một thế
kỷ rưỡi nay, giờ đây như có được cơ hội vàng, chúng càng ra sức xuyên tạc, hòng
chôn vùi nó vĩnh viễn.
Trước tình hình đó, nhiều người hoang mang,
dao động về lý tưởng, có người khuyên Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta
đã lựa chọn, bởi theo họ, thời thế (thời đại) đã thay đổi. Cá biệt có người cho
rằng sự lựa chọn xã hội chủ nghĩa đã sai từ đầu, rằng giá như lúc đó (cuối
những năm 20 thế kỷ XX) đi con đường khác thì biết đâu nước ta vẫn giành được
độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được mấy cuộc kháng chiến
trường kỳ, gian khổ, hao tổn biết bao xương máu.
Vậy phải chăng lịch sử đang lặp lại: Đầu
thế kỷ XXI dân tộc ta phải làm lại cái việc “tìm đường”, “chọn đường” như đầu
thế kỷ XX?
Không thể chấp nhận cái thuyết “chọn sai
đường” và “giá như…”. Vấn đề ở đây thật ra không phụ thuộc ý tưởng chủ quan một
cá nhân ai, mà suy cho cùng là quyết định khách quan của lịch sử.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp Bắc,
Trung, Nam.
Đó là phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, cuộc vận động
chống thuế Trung Kỳ, cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, các phong
trào Đông Du, Tây Du do các sĩ phu yêu nước chủ xướng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái
do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành v.v.. các phong trào kể trên đều sáng ngời
tinh thần yêu nước, bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất
bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước. Và như vậy, tất cả các
phương án chính trị của các giai cấp đều đã đưa ra và được lịch sử khảo
nghiệm-từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối
theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, lập trường tư sản. Đường lối
của Việt Nam Quốc dân Đảng theo hệ tư tưởng tư sản tưởng chừng có cái mới, tích
cực nhất lúc bấy giờ, nhưng qua khởi nghĩa Yên Bái bùng lên đã tắt ngấm vĩnh
viễn chỉ còn để lại dư âm câu nói vô vọng của lãnh tụ Nguyễn Thái Học “sát thân
thành nhân”. Rõ ràng “tình hình đen tối như không có đường ra”(1).
Trong lúc đó, cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan Bội Châu nổi lên như
một điển hình tiêu biểu, một tấm gương phản chiếu tập trung và cô đọng con
đường cứu nước mà dân tộc ta đã trải qua ở đầu thế kỷ. Cụ đi từ chủ trương cứu
nước thuần túy đến quân chủ lập hiến, đến yêu cầu ngoại viện, đến ý tưởng dân
chủ chung chung, cuối cùng đến cảm hứng về Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười Nga 1917. Phan Bội Châu đi vào lịch sử như một tiêu điểm giao thời, một
nhịp cầu nối giữa hai thời đại lịch sử của dân tộc, ở chỗ Cụ là người phát ngôn
cho nhu cầu lịch sử dân tộc phải chuyển sang thời đại mới của cuộc đấu tranh
giải phóng. Phan Bội Châu còn xa mới hiểu thật rõ bản chất chủ nghĩa xã hội và
Cách mạng Tháng Mười. Dù sao, khi nghe tiếng sấm Cách mạng Tháng Mười, Cụ đã có
những cảm nghĩ thật xúc động: “May thay! Đương giữa lúc khói đục, mây mù, thình
lình mà có một luồng gió xuân thổi tới; đương giữa lúc trời khuya đất ngủ,
thình lình mà có một tia thái dương mọc ra, luồng gió xuân ấy, tia thái dương
ấy là chủ nghĩa xã hội vậy”(2).
Nhưng con đường mới mà Cụ Phan Bội Châu chỉ dự cảm được ở cuối đời sau
khi trải qua “một trăm thất bại không một thành công” (lời Cụ than thở), khi
thân đã tàn, sức đã kiệt, thì chính Nguyễn Ái Quốc cùng thời không chỉ cảm thấy
mà đã nhận chân một cách vững chắc, khoa học. Và, chính Nguyễn Ái Quốc đã đáp
ứng trúng nhu cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại
mới. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(3). Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với
Cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội-đường lối đã đưa sự
nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên, không thế lực nào ngăn
cản nổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã
tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau Cách mạng
Tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn hòa bình để xây dựng đất
nước, song bọn thực dân đế quốc đã đem quân xâm lược nước ta một lần nữa. Vì
độc lập tự do của Tổ quốc, nhân dân ta đã phải tiến hành 9 năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, 20 năm chống đế quốc Mỹ. Chưa hết, 4 năm sau đó quân dân
ta phải tiếp tục đổ máu từ chiến tranh biên giới để bảo vệ Tổ quốc. Với chiến
thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời
kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1975 đến 1985, sự
nghiệp xây dựng đạt những thành tựu nhất định. Song cũng trong thời gian này,
Đảng ta đã phạm sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nguyên nhân
do thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật
khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Đại hội Đảng lần thứ
VI năm 1986 đã tự phê bình nghiêm túc, rút ra những bài học sâu sắc, từ đó đề
ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là mốc lịch sử rất quan trọng trên con đường
xây dựng và phát triển Đảng ta và đất nước ta. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội
Đảng lần thứ X năm 2006 đánh giá công cuộc đổi mới đã giành “những thắng lợi to
lớn, có ý nghĩa lịch sử”.
Vậy, chỉ cần thực sự cầu thị, nhìn đúng sự thật lịch sử, thì chắc không
ai đặt lại vấn đề về con đường xã hội chủ nghĩa, mà dân tộc ta đang đi. Cũng từ
đó góp phần thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 ngăn chặn, đẩy lùi mọi
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị.
II. Thế giới đổi thay, thời đại không thay đổi
Nhận thức sâu sắc những đặc điểm lớn này của thời thế là tiền đề không
thể thiếu, làm cơ sở để giữ vững niềm tin ở con đường lịch sử dân tộc ta đã lựa
chọn, để tiếp tục con đường Đảng ta, dân tộc ta đang đi. Làm rõ vấn đề này,
điều hết sức quan trọng nữa là từ đó rút ra những bài học cần thiết cho sự
nghiệp chúng ta, những bài học đầy giá trị hào hùng, cả không ít bài học cay
đắng. Đây là một đại tổng kết lịch sử và lý luận, đại tổng kết thực tiễn có ý
nghĩa quan trọng quyết định để đưa con đường cách mạng và phát triển của dân
tộc ta tiếp tục vững chắc đi lên.
“Thế giới đổi thay”nói ở đây chủ yếu liên quan đến sự sụp đổ mô hình xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế kỷ XX đưa đến sự đảo lộn cả
trật tự thế giới. Còn “Thời đại không thay đổi” là nói, mặc cho thế giới đã đổi
thay, nhưng thời đại với tính chất là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917)
thì không thay đổi.
1. Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu, sự kiện bi thảm nhất ở thế kỷ XX là một tổn thất lớn chưa từng có đối với
sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc đang
đấu tranh cho độc lập tự do trên toàn thế giới. Nó làm thay đổi hẳn so sánh lực
lượng trên quy mô toàn cầu giữa cách mạng và phản cách mạng, có lợi cho chủ
nghĩa đế quốc, bất lợi cho các lực lượng cách mạng. Các thế lực đế quốc phương
Tây hí hửng tuyên bố “chủ nghĩa xã hội đã cáo chung, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã
chết”!!! Họ không giấu giếm ý đồ thiết lập “trật tự thế giới mới” do Mỹ đứng
đầu và không còn nước nào đủ khả năng đối trọng.
Song, lịch sử trả lời rằng: Hoàn toàn không có chuyện “cáo chung”. Bước
tiến của cách mạng chậm lại, song không thế lực nào có thể quay ngược bánh xe
lịch sử.
Khi Liên Xô sụp đổ, Đảng ta đã sớm chỉ ra hai loại nguyên nhân: Nguyên
nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp.
Nguyên nhân sâu xa là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên
cạnh những thành tựu vĩ đại, đã có những khiếm khuyết, nhược điểm nghiêm trọng
về mô hình xây dựng và phát triển chậm được phát hiện và khắc phục, gây ra tình
trạng trì trệ kinh tế-xã hội, dẫn tới khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực
tiếp là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức nhân danh cái gọi là “tư duy chính trị mới”. Đó
là đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một số nhân vật lãnh
đạo cao nhất. Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế vốn không
lúc nào ngừng âm mưu, hành động chống Cộng, chống chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng
những khó khăn và sai lầm về đường lối của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, họ đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” cực kỳ thâm độc, can thiệp
toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa.
Cuối cùng chủ nghĩa đế quốc đã không đánh mà thắng. Dĩ nhiên, chúng không thể
làm được điều này, nếu cải tổ có đường lối đúng đắn, nếu 20 triệu đảng viên
Cộng sản Liên Xô có tinh thần cảnh giác cách mạng và sức chiến đấu cao, không
để nội bộ “tự diễn biến” khiến cho bọn xét lại và phản bội thao túng cơ quan
lãnh đạo của Đảng; nếu có sự cố kết chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân
Liên Xô.
Xác định mô hình của chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề khó
nhất và phức tạp nhất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã từng dự báo về điều này. Ngay trước Cách
mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin đã viết: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những
người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con
đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ
thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con
người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”(4).
Đánh giá mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở Liên Xô
là vấn đề rất không đơn giản, đòi hỏi quan điểm lịch sử, biện chứng và thật cụ
thể. Một số người thông qua phê phán “mô hình” với ý đồ xóa toẹt mọi thành tựu
của chủ nghĩa xã hội và phủ nhận bản thân chủ nghĩa xã hội, cả hiện thực, lẫn
lý luận.
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô trong bối cảnh
đặc biệt. Từ sau Cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ
hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng chế độ mới
cực kỳ khó khăn phức tạp: Nền kinh tế lạc hậu bị tàn phá nặng nề trong Chiến
tranh thế giới thứ nhất, tiếp đến là nội chiến, rồi chiến tranh can thiệp của
14 nước đế quốc, bị bao vây về kinh tế và về mọi mặt v.v.. Mặc dù vào đầu những
năm 20, V.I.Lê-nin sáng suốt đã đề ra Chính sách kinh tế mới, nhưng sau khi
Người qua đời, đường lối đúng đắn này không được quán triệt thực hiện. Hơn nữa,
chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20 đầu những năm 30, triệu chứng cuộc
chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh ấy, phải nhanh chóng
biến nước Nga lạc hậu thành cường quốc công nghiệp, vừa để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ tình trạng lạc hậu, vừa để chuẩn bị
đối phó với nguy cơ chiến tranh đang đến gần. Giải quyết vấn đề này và giải
quyết cho được trong một thời gian ngắn nhất trở thành mệnh lệnh sống còn đặt
ra trước vận mệnh Tổ quốc Xô-viết và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong những điều kiện nghiệt ngã như vậy, Nhà nước Xô-viết không thể
không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao, một cơ chế cho phép huy động
tối đa các lực lượng xây dựng, sáng tạo. Như được biết, Liên Xô đã hoàn thành
sự nghiệp công nghiệp hóa chỉ trong vòng chưa đầy 20 năm, quá nửa thời gian
trong đó là nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau
chiến tranh. Chỉ có phát huy cao độ tinh thần anh dũng, hy sinh của hàng trăm
triệu quần chúng nhân dân, chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được kỳ tích như vậy.
Không thể phủ nhận giá trị lịch sử to lớn, vai trò không thể thay thế của mô
hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên này.
Sai lầm chủ yếu dẫn đến sự trì trệ là chậm phát hiện và chậm sửa chữa
những khuyết tật của mô hình, duy trì quá lâu mô hình đó nhất là khi nền kinh
tế đã cạn khả năng phát triển theo chiều rộng, đòi hỏi phải chuyển sang thời kỳ
phát triển theo chiều sâu, khi mà cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật mới đã đạt
được những thành tựu vượt bậc, khi chủ nghĩa tư bản triệt để khai thác những
thành tựu ấy để tiếp tục tồn tại và phát triển.
Khuyết tật lớn của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô là tuyệt đối
hóa cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tuyệt đối hóa nguyên tắc tập thể, coi nhẹ
vai trò chủ động và sáng kiến cá nhân, chối từ một cách chủ quan duy ý chí nền
sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt
tiêu động lực lợi ích trực tiếp, do đó triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của
các đơn vị kinh tế và cá nhân người lao động. Hậu quả của việc duy trì quá lâu
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp là nền kinh tế Liên Xô từng đạt không ít
đỉnh cao thế giới, đã lâm vào tình trạng trì trệ, tốc độ phát triển chậm dần,
sức sản xuất ngày càng tụt hậu, hiệu quả kinh tế ngày càng thua kém các nước tư
bản, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm
trọng. Trong khi gặp khó khăn về kinh tế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh
nhất này phải dành một tỷ lệ ngân sách quá lớn cho quốc phòng trước sự thách
thức chạy đua vũ trang của Mỹ.
Sai lầm, khuyết tật gắn với mô hình cũ biểu hiện không chỉ trên lĩnh
vực kinh tế, mà còn thể hiện ở hệ thống chính trị, ở phương thức lãnh đạo của
Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, ở quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với nhân
dân. Một trong những khuyết điểm lớn của mô hình cũ là không phát huy được tính
ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm
nghiêm trọng. Chủ nghĩa quan liêu hoàn toàn trái ngược với bản chất chủ nghĩa
xã hội, nhưng với cơ chế cũ thì không có cách gì ngăn chặn sự phát triển của
nó.
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, cơ chế quản lý, hệ thống chính trị và
mối quan hệ gắn bó với nhân dân, nên hậu quả là Liên Xô đang trên đà rút ngắn
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước tư bản phát triển
thì giữa những năm 70 tình hình diễn ra theo hướng ngược lại. Sự thua kém rõ
rệt của Liên Xô thể hiện trong lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động. Mà đây
lại là yếu tố, như V.I. Lê-nin nói, xét đến cùng, quyết định thắng lợi hoàn
toàn của chế độ mới.
Chủ nghĩa giáo điều, sự xơ cứng trong tư duy lãnh đạo dẫn tới chậm phát
hiện sai lầm. Người ta cũng đã thi hành một vài cải cách, nhưng những cải cách
đó không cơ bản, không giải quyết trúng các vấn đề, lại phạm những sai lầm mới
về chính trị, kinh tế, trượt từ tả sang hữu.
Những sai lầm chủ quan nói trên là nguyên nhân sâu xa làm chế độ xã hội
chủ nghĩa suy yếu, cuối cùng rơi vào khủng hoảng. Đó không phải là những sai
lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác -
Lê-nin sinh ra, trái lại do quan niệm giáo điều, chủ quan duy ý chí đi ngược
lại tinh thần duy vật biện chứng, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Chúng tôi cho rằng, trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng
hoảng do những sai lầm, khuyết tật của mô hình cũ thì cải tổ nhằm thay đổi mô
hình xã hội chủ nghĩa là tất yếu. Cải tổ là tất yếu, nhưng sụp đổ thì không là
tất yếu. Vấn đề ở chỗ, cải tổ thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào.
Lịch sử không có chữ “nếu”, nhưng lịch sử cung cấp những bài học hào hùng hoặc
cay đắng không thể bỏ qua. Nếu cải tổ được thực hiện theo một đường lối đúng
đắn, thật sự Mác - Lê-nin-nít về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không phạm
những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng như đã diễn ra thì làm sao Liên bang Xô-viết
có thể sụp đổ? Mọi ý kiến khẳng định về cái gọi là “sự cáo chung” của chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “sự kết thúc” thời đại lịch sử quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, chỉ là võ đoán hoàn
toàn vô căn cứ.
2 - Thảm họa sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông
Âu cho thấy rằng, sự ra đời của một chế độ mới không bao giờ là một quá trình
suôn sẻ, êm thấm, trơn tru. Nó ra đời trong sự liên tục tìm tòi và thể nghiệm
bản thân, trong cuộc đấu tranh phức tạp, quyết liệt và dai dẳng giữa cái mới và
cái cũ, trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với những thế lực thù địch bên
ngoài, bên trong, những kẻ luôn tìm cách xóa bỏ nó. Trong quá trình tìm tòi,
thể nghiệm và đấu tranh ấy, có khi do sai lầm chủ quan, có khi do tương quan
lực lượng, có khi do bối cảnh chung không thuận lợi, có khi do tác động kết hợp
cả mấy nhân tố ấy mà chế độ mới tạm thời phải lùi bước hoặc thất bại. Cách mạng
tư sản, điển hình là cách mạng Pháp cũng đã diễn ra như vậy. Kể từ năm 1789,
trải qua bao biến cố thăng trầm, phục hồi và chống phục hồi chế độ quân chủ,
khi nghiêng tả, khi ngả sang hữu (theo chuẩn tư sản lúc đó) cuối cùng phải đến
tháng 2-1848, nghĩa là mất gần 60 năm, nền chuyên chính tư sản mới được xác lập
tuyệt đối và hoàn toàn. Lịch sử ra đời chế độ tư bản đã vậy, thì đối với chế độ
xã hội chủ nghĩa lại càng như vậy, bởi chủ nghĩa xã hội là một chế độ mới và
khác về chất so với mọi chế độ bóc lột.
V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Sự xuất hiện của một giai cấp mới trên vũ đài lịch
sử, với tư cách là người lãnh tụ và người lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn
ra mà lại không có một thời kỳ “tròng trành” hết sức dữ dội, một thời kỳ chấn
động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt khác, không bao giờ diễn ra mà
không có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn
những phương pháp mới đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới”(5). Đối với
phong trào cách mạng thế giới sau Cách mạng Tháng Mười, nhất là sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, chúng ta đã quen như thấy một mạch đi lên, cao trào nối tiếp
cao trào, ba dòng thác cách mạng không ngừng tiến công. Một thời gian dài chúng
ta chỉ thấy tình hình thuận buồm xuôi gió, do đó khi cách mạng gặp trắc trở,
lại là trắc trở to lớn như sự đổ vỡ cả một mảng lớn chủ nghĩa xã hội, thì ở
nhiều người, cú sốc thật kinh hoàng ghê gớm! Đây là bài học hết sức lớn về nhận
thức chính trị.
Trong giai đoạn rất phức tạp hiện nay của tiến trình lịch sử thế giới,
người cộng sản kiên định vẫn khẳng định thế giới đổi thay nhưng thời đại không
thay đổi, nội dung cơ bản, tính chất của nó vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm
1917.
Học giả Mỹ gốc Nhật Phu-cu-y-a-ma (Fukuyama) cho rằng, Liên Xô sụp đổ
có nghĩa “lịch sử đã kết thúc” với sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản.
Quan điểm đó đã sớm bị chính giới khoa học phương Tây bác bỏ, bởi nó thể hiện
sự hấp tấp vội vàng, quá ư vô căn cứ. Lịch sử xã hội loài người không ngừng vận
động tiến lên thông qua những mâu thuẫn, mà xét cho cùng là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất chừng nào còn chủ nghĩa tư bản, còn những
mâu thuẫn nan giải của chủ nghĩa tư bản như hiện nay và, cùng với quá trình chủ
nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn toàn cầu hóa, những mâu thuẫn ấy ngày càng
trở nên sâu sắc và mở rộng hơn, thì lịch sử vẫn không ngừng vận động và, theo
quy luật lịch sử-tự nhiên, chỉ có thể vận động theo hướng chủ nghĩa tư bản tất
yếu sẽ tiêu vong và được thay thế bằng chủ nghĩa xã hội.
Lại có ý kiến cho rằng, với thực trạng thế giới hiện nay, sau khi Liên
Xô tan rã, không cần nhắc lại định nghĩa thời đại nữa, vì chủ nghĩa xã hội trên
thế giới còn rất xa vời, khẳng định thời đại lúc này không ích gì, trái lại dễ
gây ảo tưởng chủ quan, phiêu lưu trong hành động thực tế. Quan điểm này không
có sức thuyết phục. Nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của
chúng ta cũng mất luôn cơ sở lịch sử xã hội thế giới khách quan và những người
cách mạng mất đi một cơ sở vững chắc cho niềm tin lý tưởng ở quy luật lịch sử
và tiền đồ cách mạng. Quan điểm thời đại nếu không rõ ràng, chính xác thì không
thể có phương hướng cách mạng rõ ràng, chính xác. Sự nghiệp cách mạng và con
đường phát triển đi lên của các dân tộc sẽ không thể giành thắng lợi nếu thiếu
tầm nhìn xa trông rộng và nếu không được đặt đúng quỹ đạo thời đại. Trên phương
diện này, dân tộc Việt Nam
ta đã có bài học lịch sử mang tính kinh điển. Thất bại nối tiếp thất bại của
các phong trào giải phóng dân tộc chống Pháp, những thập niên cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX có nguyên nhân sâu xa ở chỗ, các sĩ phu trí thức cầm đầu các
phong trào hồi bấy giờ, mặc dù nhiệt huyết yêu nước và chí khí đấu tranh có
thừa, nhưng nhận thức về thế giới còn hạn hẹp, người thì vẫn tưởng như thời đại
phong kiến đang còn, người thì coi thời đại tư sản vẫn đang lên, người thì chỉ
biết chỗ dựa là nông dân một vùng nghèo rừng núi, không thấy thiên hạ đại cục
v.v..
Trong khi đó, Nguyễn Ái Quốc bôn ba khắp thế giới để quan sát và tìm
đường cứu nước, qua thực tiễn thống trị tàn bạo phổ biến của chủ nghĩa đế quốc
và dưới ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, đã nhận thức đúng thời đại mới là
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới, từ đó Người chủ trương đưa Cách mạng Việt Nam vào đúng dòng chảy của thời
đại. Chúng tôi nghĩ rằng, cùng với luận điểm “Không có gì quý hơn độc lập tự
do” thì luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”(6), là luận điểm gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh;
nếu ai quên điều đó, thì căn bản không thể hiểu được nguyên lý cơ bản nhất của
Cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nguyên lý
ấy là nền tảng của Cương lĩnh chính trị, là ngọn cờ thắng lợi của Cách mạng
Việt Nam
hơn 80 năm qua.
Trái với quan điểm rằng, ngày nay không cần và không nên nhắc lại định
nghĩa về thời đại, chúng tôi cho rằng trong tình hình thế giới cực kỳ rối ren,
phức tạp, và đầy những biến động bất trắc hiện nay càng cần khẳng định lại một
cách mạnh mẽ nội dung và tính chất căn bản của thời đại, nếu không cách mạng sẽ
mất phương hướng, sẽ phải mò mẫm, vấp váp và không tránh khỏi thất bại. Tất
nhiên, việc nhận thức nội dung, tính chất của thời đại cần kết hợp tính kiên
định và nguyên tắc chiến lược với sự tinh tế, mềm dẻo, khôn ngoan trong sách
lược thực tiễn.
Quả là đang có ý kiến cho rằng, phải có quan niệm mới về thời đại thay
cho quan niệm cũ đã lạc hậu, đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua. Thời đại hiện
nay, theo những đại biểu của ý kiến này, là thời đại hậu công nghiệp, cũng gọi
là thời đại văn minh hậu công nghiệp, thời đại khoa học công nghệ hay thời đại
kinh tế tri thức, văn minh tin học, văn minh trí tuệ v.v.. Tất nhiên, không có
gì sai ở bản thân các khái niệm đó. Những khái niệm này rất có ý nghĩa và đầy
đủ nội dung bổ ích khi dùng đúng chỗ, nhất là trong các công trình nghiên cứu
kinh tế cụ thể, xã hội học cụ thể. Những người mác-xít tuyệt đối không xem nhẹ
cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức, ý thức rõ ràng rằng, thiếu
những cái đó không thể có chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Có điều cần phân biệt rõ: Khái niệm thời đại văn minh trong các trường
hợp nêu trên thực chất và chủ yếu là nói về văn minh kỹ thuật, chúng chưa đưa
lại bức tranh xã hội toàn vẹn về sự vận động lịch sử xã hội loài người như một
tổng thể, chưa thể xác định tính chất các chế độ xã hội. Cách tiếp cận theo nền
văn minh không cho phép đi vào bản chất, nguồn gốc sâu xa, các động lực thực sự
của sự chuyển biến hợp quy luật từ chế độ xã hội này lên chế độ xã hội khác, từ
thời đại lịch sử này lên thời đại lịch sử khác cao hơn. Nói “tiến cùng thời
đại” mà không xuất phát từ nội dung, bản chất định nghĩa thời đại cũng là một
cách nói mơ hồ, không rõ tiến cùng thời đại nào!
Chỉ có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy vật lịch sử mới có thể giúp nhận
thức thâm nhập sâu vào bên trong quá trình lịch sử, từ đó phát hiện ra lô-gích của
lịch sử và trên cơ sở đó mới giúp nhận thức tái hiện được một cách thật sự khoa
học bản chất các thời đại lịch sử xã hội thế giới. Chủ nghĩa Mác xuất phát từ
chỗ, trong hoạt động sản xuất xã hội, con người không chỉ có quan hệ với tự
nhiên mà còn có những quan hệ nhất định, tất yếu với những con người khác, tức
quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hợp thành phương thức
sản xuất, tạo nên cơ sở kinh tế trên đó mọc lên kiến trúc thượng tầng chính
trị, tư tưởng, pháp luật, văn hóa v.v... Và chính biện chứng của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là động lực cơ bản của sự vận động lịch sử, là nguồn
gốc sâu xa của các cuộc cách mạng xã hội, đưa đến sự chuyển biến từ hình thái
kinh tế-xã hội này lên hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn. Lý luận mác-xít
về năm hình thái kinh tế-xã hội chính là kết quả khái quát quá trình vận động
tiến lên của lịch sử thế giới, là lô-gíc của lịch sử xét trên quy mô toàn cầu
thế giới (tất nhiên có những trường hợp ngoại lệ). Lịch sử thế giới không gì
khác là lịch sử ra đời, phát triển, rồi suy vong của các hình thái kinh tế-xã
hội, là lịch sử thay thế lẫn nhau hợp quy luật giữa các hình thái kinh tế-xã
hội từ thấp lên cao. Đó chính là cơ sở khách quan, khoa học, cơ sở thực
tiễn và lý luận để nói về thời đại, để xác định các thời đại lịch sử. Bàn về
thời đại lịch sử xã hội, do đó, không thể không xuất phát từ cách tiếp cận hình
thái kinh tế-xã hội. Phương pháp tiếp cận này không đối lập, không loại trừ
phương pháp tiếp cận theo nền văn minh, trái lại chúng bổ sung và hỗ trợ cho
nhau. Chẳng phải Ph.Ăng-ghen đã từng đề cập tới thời đại mông muội, thời đại dã
man, thời đại văn minh trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước đó sao! Tuy hai phương pháp tiếp cận hình thái và tiếp cận theo
nền văn minh có thể bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, nhưng khi bàn về thời đại lịch
sử xã hội thế giới thì căn bản phải dựa vào phương pháp tiếp cận hình thái kinh
tế-xã hội, dựa vào phương pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp khoa học duy
nhất, không gì có thể thay thế.
Định nghĩa thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội dựa chắc trên cơ sở phương pháp luận khoa học đó.
III- Tiếp tục đi con đường
thời đại, kiên định, đổi mới, sáng tạo
Ý kiến bác bỏ sự khẳng định rằng, thời đại chúng ta vẫn là thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, là một
bước lùi về lập trường chính trị cơ bản, một biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị. Bởi vì, nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới nữa, thì đất nước
Việt Nam chúng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nay sẽ đi theo con đường nào?
Và nếu vậy, thì phải chăng Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã lỗi thời,
không còn căn cứ thời đại!
1- "Chuyển đổi" sang con đường tư bản chủ nghĩa chăng? Đã có
"kiến nghị" như thế. Tuy nhiên, nhân dân không thể đồng tình. Đúng là
sau thảm họa sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, chủ nghĩa tư
bản căn bản chiếm lĩnh phần lớn trận địa thế giới. Nhưng vận mệnh và tiền đồ
chủ nghĩa tư bản sẽ như thế nào?
Chủ nghĩa tư bản đã có lịch sử 500 năm. Nó đã có đóng góp to lớn cho
lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất không những đồ
sộ mà ngày càng hiện đại, tinh xảo, tinh vi, những máy móc "thông
minh", những vật liệu, năng lượng kỳ diệu v.v... Với nền đại công nghiệp,
nó đã tạo ra thị trường thế giới thay cho tình trạng biệt lập trước đó của các
địa phương và các dân tộc vốn trong nền kinh tế tự cung tự cấp. Do xâm chiếm
thuộc địa, bóp nặn thị trường thế giới, chủ nghĩa tư bản đã làm cho sản xuất và
tiêu dùng của tất cả các nước mang tính thế giới. Chính chủ nghĩa tư bản đã có
công làm cho lịch sử biến thành lịch sử thế giới. Nhưng đó là thế giới gì?
Trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đó toàn thị là thế giới tư bản
bao gồm các "chính quốc" và cả hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc. Từ sau Tháng Mười năm 1917 đến 1991, thế giới phân chia thành hai hệ
thống đối lập. Sau khi mô hình của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông
Âu giải thể, chủ nghĩa tư bản chiếm lĩnh đa phần thế giới, bản đồ chính trị thế
giới thay đổi căn bản. Lịch sử phải chăng "kết thúc" ở chủ nghĩa tư
bản, tột đỉnh của văn minh loài người? Thực tiễn thế giới "hậu
Xô-viết" đã sớm bác bỏ kết luận sai lầm ấy. Một điều cần ghi nhận: Ngày
nay ít ai còn mang ảo tưởng chủ nghĩa tư bản sắp chết đến nơi. Nhưng, rõ ràng
là số người tin tuyệt đối vào sức sống vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản cũng ngày
càng ít dần. Xem ra đa số đánh giá: Chủ nghĩa tư bản còn lâu mới tiêu vong
nhưng cuối cùng nhất định không tránh khỏi tiêu vong.
Thật ra sức sống còn lại của chủ nghĩa tư bản mà đôi khi có người
choáng ngợp, một phần do nó vốn chưa thật cạn kiệt, còn một phần rất quan trọng
là do những yếu kém, sai lầm dẫn đến sụp đổ cay đắng một mảng lớn chủ nghĩa xã
hội hiện thực. Một sự thật nữa cũng đáng lưu ý là tâm trạng hoan hỉ của phương
Tây trước sự sụp đổ của Liên Xô chỉ là nhất thời. Sau đó, khi không còn địch
thủ đáng gờm phải đối mặt, thì những đầu óc ít nhiều tỉnh táo, sáng suốt của
các học giả và chính khách phương Tây bình tĩnh quay về nhìn lại bản thân chủ
nghĩa tư bản, đã kịp thời cảnh báo: Coi chừng nguy cơ đe dọa vận mệnh của chủ
nghĩa tư bản vốn không phải từ phía chủ nghĩa xã hội, từ Liên Xô, mà chính từ
ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản cũng đang "tự
phản tỉnh", "tự phê phán", đang thấy khó mà tự duy trì nếu không
có phép gì màu nhiệm hơn những phép đã dùng gần như cạn kiệt để tự điều chỉnh,
thích nghi. Những khái niệm "xã hội hậu tư bản", hay "chủ nghĩa
tư bản mới", "chủ nghĩa tư bản nhân dân" v.v... mà một số học
giả phương Tây ưa dùng nói lên hai mặt. Nó vừa là một sự ngụy biện rằng chủ nghĩa
tư bản đã không còn là chủ nghĩa tư bản nữa vì nó không còn bóc lột; vừa là-về
khách quan-mặc nhiên thừa nhận chế độ tư bản đích thực, truyền thống, nguyên xi
như bản thân nó đã hết lý do tồn tại, đã hết khả năng tự biện minh. Có nghĩa
là, bản thân các nhà tư tưởng tư sản cũng đã mất niềm tin ở chính chủ nghĩa tư
bản, đã mặc nhiên và gián tiếp phải nói đến một chế độ mới đang gõ cửa chủ
nghĩa tư bản. Qua các cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế vừa diễn ra, một số
chính khách lớn phương Tây cũng dao động, giảm sút niềm tin ở chính chủ nghĩa
tư bản. Tổng thống Pháp N.Xác-cô-di phải nói đến cải tổ chủ nghĩa tư bản và
"đạo đức hóa" chủ nghĩa tư bản! Ông ta có bức ảnh chụp đang đọc
"Tư bản luận" của C.Mác. Bộ trưởng Tài chính Đức đang tìm hiểu chủ
nghĩa Mác mong tìm lối ra cho khủng hoảng. Một đạo diễn người Đức có ý định làm
phim về C.Mác. Một số học giả Mỹ và châu Âu nói "chủ nghĩa tư bản đang ở
thế thoái trào". Dẫn ra những hiện tượng trên, nhật báo Kinh tế Thụy Điển
khẳng định: "Chính do khủng hoảng hiện nay mà sự hồi sinh chủ nghĩa Mác
trở thành tất yếu". Tất nhiên, chúng ta không ảo tưởng rằng họ đã đi đến
từ bỏ chủ nghĩa tư bản.
2- Vậy là thế giới đổi thay, nhưng thời đại không thay đổi. Đảng ta,
nhân dân ta, đất nước ta, nhất quyết tiếp tục đi con đường thời đại-con đường
xã hội chủ nghĩa. Với tư tưởng kiên định nhưng thường xuyên đổi mới, sáng tạo
phù hợp những thay đổi của thực tiễn thế giới đang không ngừng thay đổi.
Nắm vững thời đại không thể dừng lại ở bản chất thời đại nói chung, mà
trong mỗi thời điểm lịch sử cần nhận rõ cách mạng đang đứng ở đâu, ở thời kỳ
nào, với những đặc điểm gì. Mặt khác, không thể chỉ thấy hiện tại mà không thấy
triển vọng, không thể chỉ thấy trước mắt mà không thấy xu thế cơ bản lâu dài,
không thể chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1991 đã sáng suốt chỉ ra một tầm nhìn, một tư tưởng chiến lược cơ bản rất đúng
đắn, sâu sắc: "Chủ nghĩa xã hội hiện nay đang đứng trước những khó khăn,
thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người
cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của
lịch sử".
Mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại ngày nay là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
tư bản với chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại, nhưng hình thái biểu hiện đã khác
trước nhiều. Đó không còn là mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới đối lập,
nhưng cũng không phải sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ một mảng lớn, thì mâu
thuẫn đó biến mất. Ngoài một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, khá có trọng
lượng, phải kể đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì hòa bình, độc lập và chủ quyền dân tộc, vì
dân chủ và tiến bộ xã hội. Những phong trào này vẫn là lực lượng xã hội chủ
nghĩa hoặc đồng minh tự nhiên của chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, cần tính đến những yếu tố mầm mống đang tồn tại trong lòng chủ
nghĩa tư bản mà xu hướng khách quan của chúng là ngày càng lớn lên theo chiều
phủ định những quan hệ tư bản chủ nghĩa. Học thuyết duy vật lịch sử chứng minh
rằng, sự phát triển của loài người, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội
này sang hình thái kinh tế-xã hội khác, suy đến cùng, luôn được thực hiện trên
cơ sở phát triển nền sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất của xã hội. Ở giai
đoạn hiện nay, sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang sinh ra những xu hướng phát triển
về khách quan mang tính đối kháng với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng
thời tự phát tạo ra những cơ sở và tiền đề dẫn tới chế độ mới-chế độ xã hội chủ
nghĩa. Tất nhiên, chế độ xã hội mới không thể ra đời mà không thông qua những
biến đổi cách mạng về chế độ chính trị dưới hình thức này hay hình thức khác,
bằng phương pháp này hay phương pháp khác, đấu tranh vũ trang hay bạo lực hòa
bình, đấu tranh nghị trường kết hợp nổi dậy của quần chúng.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở giai đoạn xã hội hóa ngày càng
cao hiện nay đang thúc đẩy những quá trình tập trung, sáp nhập, liên kết ngày
càng cao không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên quy mô thế giới, không chỉ
về lực lượng sản xuất mà cả sở hữu tư bản thành những hình thức "chủ nghĩa
tư bản tập đoàn" của các nhà tư bản kếch xù, thậm chí siêu quốc gia.
Rõ ràng, cái vỏ tư nhân tư bản chủ nghĩa đã quá chật chội so với nội
dung sức sản xuất đồ sộ mà nó chứa đựng; thậm chí quá chật chội cả với hình
thức sở hữu tư bản độc quyền tư nhân. Chính chủ nghĩa tư bản-một cách khách
quan-đang tự phủ định mình và đang "làm việc" chuẩn bị cho tương lai
chủ nghĩa xã hội.
Từ tính chất xã hội hóa cao của sản xuất và lực lượng sản xuất, cũng
xuất hiện trong các nước tư bản phát triển ngày càng nhiều nhân tố mầm mống của
những quan hệ xã hội tương lai. Chẳng hạn các công ty cổ phần trong đó có sự
tham gia của người lao động vào sở hữu và quản lý. Hình thức công ty cổ phần có
loại thuộc những "nhà tư bản tập thể" (Ph.Ăng-ghen) hoặc "trực
tiếp mang hình thái tư bản xã hội… đối lập với tư bản tư nhân"(7); có loại
"nửa nọ nửa kia", một nửa thuộc các chủ tư bản vừa và nhỏ, một nửa cổ
đông là những người lao động. Những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, cũng
như những nhà máy hợp tác, theo C.Mác, đều phải được coi là những hình thái quá
độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể.
Lại có những doanh nghiệp tự quản thuộc sở hữu của những người lao động. Ví dụ,
ở Mỹ có tài liệu cho biết hơn 11 triệu người lao động đang là đồng sở hữu những
doanh nghiệp này; ở Thái Lan và nhiều nước tư bản Bắc Âu, hợp tác xã của những
người lao động rất phổ biến trong nông nghiệp, trong thương nghiệp, trong vận
tải v.v... Vậy là, tình hình diễn ra đúng như V.I.Lê-nin từng hình dung:
Ngày nay thì chủ nghĩa xã hội nhìn sang chúng ta từ tất cả các khung cửa chủ
nghĩa tư bản hiện đại; chủ nghĩa xã hội đang hiện ra trực tiếp, trên thực tiễn,
trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở chủ nghĩa tư
bản hiện đại ấy.
Một câu hỏi thường được nêu ra hiện nay là, phải đánh giá thế nào về
chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa? Có người cho rằng chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn
toàn cầu hóa hiện nay có sức sống hơn bao giờ hết. Nhận định ấy nhiều lắm chỉ
đúng một nửa, còn một nửa không đúng, lại là cái nửa thuộc bản chất của sự vật
và quá trình. Toàn cầu hóa khi vai trò chủ đạo thuộc chủ nghĩa tư bản thì về
bản chất là một quá trình đầy mâu thuẫn, một quá trình vừa hợp tác, liên kết,
vừa đấu tranh, trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh giữa một bên là quyền lực
và lợi ích chi phối, thao túng của những thế lực tư bản quốc tế, các nước lớn tư
bản chủ nghĩa, với một bên là chủ quyền và lợi ích của các quốc gia dân tộc. Đó
là mâu thuẫn ngay giữa các nước tư bản chủ nghĩa, giữa các tập đoàn tư bản với
nhau. Đó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng của cải với phân phối không công bằng
dẫn tới phân cực giàu nghèo ngày càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nước,
giữa trung tâm với ngoại vi, giữa phương Bắc với phương Nam, phân cực giàu
nghèo ngày càng tăng ngay trong lòng các nước tư bản phát triển. Đó là mâu
thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với tình trạng xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã
hội. Đó là mâu thuẫn giữa hợp tác với đấu tranh. Đã hội nhập thì có hai mặt,
vừa cạnh tranh quyết liệt mà vẫn phải hợp tác, bản thân hợp tác cũng lại là đấu
tranh, là kết quả của đấu tranh. Một mâu thuẫn nữa đặc trưng cho các nước như
Việt Nam là ngoài độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, còn có con đường xã hội
chủ nghĩa mâu thuẫn với toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản khống chế, với sức ép
đi con đường tư bản chủ nghĩa bằng tự do hóa, tư nhân hóa kinh tế, dân chủ,
nhân quyền, truyền bá tư tưởng phản động, từ đó chuyển hóa dần tổ chức, cán bộ
và chế độ chính trị. Cùng với những mâu thuẫn xã hội nói trên, ngày càng nổi
lên một mâu thuẫn lớn giữa xã hội với giới tự nhiên biểu hiện ở hiểm họa ngày
càng tăng đối với đời sống con người do ô nhiễm và tàn phá môi trường sống, hậu
quả của cuộc chạy đua vì lợi nhuận mà thủ phạm chính là các lực lượng thị
trường tư bản chủ nghĩa hoặc chạy theo chủ nghĩa tư bản.
Toàn cầu hóa kinh tế, xét trên tầm nhìn rộng và lâu dài, xét về xu thế
tương lai mà nó mở ra, là một nhân tố quan trọng của tiến bộ lịch sử, bởi lịch
sử xã hội loài người, suy cho cùng, là từ trình độ kỹ thuật này tiến lên trình
độ kỹ thuật khác, từ sức sản xuất thấp đến sức sản xuất cao, đưa đến những nấc
thang cao hơn của tiến bộ xã hội và khiến "lịch sử càng biến thành lịch sử
thế giới" (C.Mác), mà đỉnh cao sẽ là xã hội cộng sản văn minh. Thế nhưng,
toàn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chủ đạo là một quá trình đầy mâu
thuẫn như đã đề cập.
Tóm lại, về phương diện lý thuyết, chủ nghĩa tư bản giai đoạn toàn cầu
hóa tưởng như có thêm sức sống, nhưng không thể kéo dài mãi vận mệnh của nó như
suy luận của một số người; trái lại, chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa ngày càng
tích lũy thêm mâu thuẫn mới trên phạm vi toàn cầu cho tới khi mâu thuẫn tích tụ
tới đỉnh điểm. Biện chứng "vật cực tắc phản" (Lão Tử) tất sẽ đưa chủ
nghĩa tư bản đến chỗ diệt vong, đến chỗ được thay thế bằng chế độ xã hội mới
tiến bộ, văn minh hơn. Có thể đến ngày nào đó, giả thuyết của C.Mác về khả năng
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong hàng loạt nước sẽ có cơ hội dễ hình dung
hơn. Đồng thời, với hệ thống thế giới toàn cầu hóa phát triển rất không đều và
đầy rẫy những bất bình đẳng, bất công và bất trắc, lý thuyết của V.I.Lê-nin về
khả năng bùng nổ cách mạng trước hết ở những "khâu yếu trong sợi dây
chuyền của chủ nghĩa đế quốc" càng có cơ sở. Xu thế tả hóa và hướng đến
"chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI" đang nổi lên ở các nước Mỹ La-tinh là
một điển hình nổi bật thức tỉnh nhiều người, và chắc chắn sẽ còn diễn ra ở
nhiều nơi trên thế giới.
Trong tạp chí Die Woche của Đức, số ra ngày 28-1-2000, tác giả Jan Puhl
đã viết: "Trong vòng 20 năm qua, sự bần hàn và sự thừa thãi luôn đồng
hành. Sự chênh lệch ngày càng tăng có thể trở thành ngòi nổ đối với nền dân chủ
(=chế độ tư bản) trên phạm vi toàn cầu". Theo ông, "quá trình toàn
cầu hóa đã hợp nhất những người vô sản trên toàn thế giới vào cuộc đấu tranh
mang tính toàn cầu".
Chủ tịch Câu lạc bộ Rô-ma, ông Ricardo Diez Hochleitner (người Tây Ban
Nha) đã viết: "Nghèo đói không chỉ là một vấn đề nghiêm trọng đối với
những người bị đụng chạm trực tiếp. Khi tình trạng bần cùng hóa vẫn tiếp diễn
như hiện nay, thì có nguy cơ sẽ nổ ra một cuộc cách mạng có thể đụng chạm đến
các nước giàu. Khi khoảng cách giàu nghèo tiếp tục mở rộng, thì một ngày nào đó
có thể sẽ xuất hiện một ông Mác và một ông Lê-nin mới với khẩu hiệu "Những
người nghèo trên toàn thế giới hãy liên kết lại". (Thông tin tư liệu số
7-2000 của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
IV- Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con
đường đã lựa chọn
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1930
đến nay và mãi từ nay về sau là chủ thuyết cách mạng nhất quán của Việt Nam,
dứt khoát không thay đổi và không ai có thể thay đổi. Chủ thuyết này đã đưa
cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đi từ thắng lợi lịch sử này đến thắng lợi
lịch sử khác, hoàn thành giải phóng dân tộc, đưa cả nước quá độ từng bước lên
chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự nghiệp đổi mới, sáng tạo, không bảo thủ, giáo
điều, chủ quan, duy ý chí.
Ở nước ta không có đất cho chủ nghĩa tư bản thống trị như một chế độ xã
hội, không có đất cho một chủ thuyết chính trị nào khác khả dĩ được nhân dân
chấp nhận, ngoài độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản với ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Khách quan
lịch sử mà nói, một chủ thuyết chính trị khác, chẳng hạn chủ nghĩa xã hội dân
chủ ai đó đang mơ tưởng, đối lập với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dù có
tô vẽ ngụy trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc thực chất không thể gì khác là một
đường lối đưa dân tộc trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế lực đế
quốc thực dân bên ngoài.
Trong khi khẳng định chỗ mạnh cơ bản của chủ thuyết cách mạng và phát
triển Việt Nam, bên cạnh nhiều thuận lợi lớn, chúng ta vẫn không quên rằng trên
con đường đi tới đích còn vô vàn khó khăn và thách thức phải đối mặt, thậm chí
có những nguy cơ tiềm ẩn không thể xem thường. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu
giữa nhiệm kỳ Đại hội khóa VII (tháng 1-1994) nêu lên còn đó, bây giờ nhắc lại
cũng không thừa. Có nguy cơ được giảm thiểu chừng nào, có nguy cơ vẫn giữ nguyên,
có nguy cơ tăng thêm, và xem ra 4 nguy cơ còn kết chặt với nhau hơn. Với Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) về chỉnh đốn Đảng, cực kỳ quan trọng trong thực hiện
di chúc Bác Hồ nhưng qua nhiều lần tổng kết cho thấy việc thực hiện chưa đạt
yêu cầu. Nay Nghị quyết Trung ương 4 (Đại hội XI) đang tích cực triển khai để
kiên quyết thực hiện kỳ được.
Đi đôi với chống các nguy cơ, hoạt động cơ bản của toàn Đảng, toàn dân
ta hiện nay và lâu dài phải hướng chủ yếu vào xây dựng, sáng tạo. Về độc lập
dân tộc còn vấn đề không? Còn và còn từ hai mặt chiến lược gắn kết với nhau là
vừa bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia, vừa xây
dựng, phát triển đất nước. Phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc, và phải nhớ lời dạy
của Bác Hồ: Độc lập rồi mà dân không được tự do, ấm no, hạnh phúc thì độc lập
không có ý nghĩa gì. Nghĩa là, theo Bác, phải xây dựng cho được chủ nghĩa xã
hội mới có độc lập dân tộc thực sự và vững bền.
Độc lập dân tộc ngày nay phải dựa trên căn bản kinh tế. Kinh tế không
mạnh thì quốc phòng tất nhiên cũng yếu. Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc
hậu, kém phát triển. Tình trạng này nếu không được vượt qua thì rồi độc lập dân
tộc cũng lâm vào nguy cơ. Ngay bây giờ, dù đã qua bao công sức xây dựng và đổi
mới nhưng kinh tế nước ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng gia công, lắp ráp,
"làm thuê" cho nước ngoài. Ta chưa có nền công nghiệp chế tạo, chế
biến công nghiệp nặng sản xuất tư liệu sản xuất với công nghệ cao, trong khi
thế giới đang đi vào kinh tế hậu công nghiệp, kinh tế tri thức, kinh tế toàn
cầu. Trong điều kiện đó, nếu không bứt phá lên thật nhanh thì kinh tế nước ta
còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, không thể nào có độc lập tự chủ chẳng những
về kinh tế mà cả về các mặt khác, ngay cả mặt chính trị. Có người nói trong
toàn cầu hóa đa mô hình thì định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là một. Không có
nước nào duy nhất chỉ có chủ nghĩa xã hội cũng như không có nước nào duy nhất
chỉ có chủ nghĩa tư bản. Bởi vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đích thực
đã tìm rất nhiều mô hình để có thể tổng tích hợp vào nhau. Ý kiến này thật quá
mơ hồ.
Toàn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chủ đạo là một quá trình
đầy rẫy những mâu thuẫn như đã nói ở các phần trên, nhưng không nước nào có thể
đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa. Nước ta đã và đang chủ động tích cực hội
nhập kinh tế toàn cầu với ý thức đầy đủ tranh thủ mặt lợi, tránh những tác động
tiêu cực, có hại. Tuyệt đối hóa một cách phiến diện mặt nào cũng không đúng. Về
mặt tích cực, nước ta thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ cho được
lợi thế của nước đi sau, kế thừa cho được những thành quả văn minh loài người
được tạo ra dưới chế độ tư bản. V.I.Lê-nin sẵn sàng đổi một tá người cộng sản
không biết làm việc lấy một chuyên gia tư sản giỏi và Người chỉ cho nước Nga:
"Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô-viết
+ trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành
giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc. + + ? (tổng số, tổng kết lại) = chủ nghĩa xã
hội"8. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày nay, tư tưởng đó của
V.I.Lê-nin có điều kiện thực thi rộng rãi chưa từng có nhất là đối với các nước
lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nước
ta.
So với các nước phát triển, ở các nước kém phát triển cách mạng xã hội
chủ nghĩa bắt đầu có thể tương đối dễ, nhưng để đưa đến đích cuối cùng, trọn
vẹn chủ nghĩa xã hội, thì khó khăn hơn rất nhiều. Nước ta, trải qua những cách
làm sai trước thời kỳ đổi mới (1986), đã đem lại những bài học thấm thía cho
thấy không được ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan.
Trọng tâm trong chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam
hiện nay là quá độ từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước lạc
hậu về kinh tế, V.I.Lê-nin nhấn mạnh thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất
lâu dài, rằng trong cả thời kỳ quá độ phải có hàng loạt bước quá độ. Rõ ràng,
với nền kinh tế nhiều thành phần, nước ta phải trải qua rất nhiều bước đẩy mạnh
lực lượng sản xuất để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải trải qua
nhiều bước cụ thể, thích hợp, vững chắc xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất
mới, từ đó mới có được phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đích thực. Đi đôi
với nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phải đẩy rất mạnh, thậm chí đi
trước một bước trong phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, chăm lo đời sống
tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo nhân lực, phát triển nhân tài để thúc
đẩy phát triển kinh tế.
*
* *
Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt từng được thử thách của đội tiên
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhất định thực hiện thành công chủ thuyết chính trị cách mạng và phát
triển vĩ đại đã được lịch sử dân tộc lựa chọn. Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh "dĩ bất biến ứng vạn biến", kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo
và thông minh tính kiên định về nguyên tắc và mục tiêu không thay đổi với đầu
óc uyển chuyển, tinh thần và khả năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp,
đáp ứng tình hình quốc tế và đất nước giai đoạn đầy biến động nhanh và khôn
lường hiện nay-đó là bí quyết thành công trong sự nghiệp vĩ đại thực hiện chủ thuyết
chính trị của Đảng ta và dân tộc ta./.
NGUỒN : Báo QĐND
NGUỒN : Báo QĐND
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét