Menu ngang

Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

            Về nơi lưu dấu tích thân phụ Hồ Chí Minh

                                                              NGUYỄN THỊNH 
 
        Cũng như người con vĩ đại của mình là lãnh tụ Hồ Chí Minh, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từng đi đến nhiều nơi để tổ chức hoạt động cứu nước. Nhắc đến nơi lưu dấu tích của cụ Phó bảng, nhiều người sẽ nghĩ tới khu di tích của cụ ở thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Nhưng có một nơi cũng ghi dấu tích của cụ mà ít người biết đến.
         Đó là chùa Hội Khánh ở tại thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Hòa thượng Thích Huệ Thông - trụ trì chùa Hội Khánh, cho biết: chùa này do Đại Ngạn thiền sư xây dựng năm 1741. Chùa Hội Khánh có kiến trúc kiểu Nam Bộ trùng thềm trùng lươn (tức là nối sát nhau liên tục). Cấu trúc chùa gồm: tiền điện, chính điện, hậu tổ, giảng đường, đông lan, tây lan. Cổng chùa được đắp bằng những hình nổi làm bằng sành sứ màu, sau này chùa còn được xây thêm tháp đựng kinh sách. Tháp khá cao và nhìn như một Tàng kinh các của một chùa Thiếu lâm tự. Trong khuôn viên của chùa Hội Khánh có bức tượng Phật nằm và các đệ tử quỳ bên cạnh. Tượng làm bằng đá trắng cẩm thạch rất đẹp. Trong khuôn viên chùa còn có một nhóm tượng mô tả lại cảnh Thái tử Tất Đạt Đa thành Phật. Chùa Hội Khánh được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1993.

Một góc chùa Hội Khánh ở Thị xã Thủ Dầu Một- Bình Dương, nơi lưu dấu tích thân phụ Hồ Chí Minh. Ảnh Nguyễn Thịnh. 


          Đặc biệt, do cảnh quan nơi đây rất đẹp, nhiều đoàn phim đã chọn chùa cho những cảnh quay liên quan đến Phật giáo. Hiện ở sân chùa còn nhiều ghế đá do các nghệ sĩ từ TP.HCM tặng, như ghế của cha con nghệ sĩ Lý Huỳnh, Lý Hùng và Lý Hương.

           Dùng Phật giáo để cứu nước

        Theo những tư liệu- di tích lịch sử tại bảo tàng tỉnh Bình Dương và nghiên cứu của hòa thượng Thích Huệ Thông (trụ trì chùa Hội Khánh), khoảng cuối năm 1923, do mật thám Pháp theo dõi, cụ phó bảng từ Thủ Đức đi đến nhà của Gaston và Lê Đức ở Thủ Dầu Một. Sau đó cụ Sắc đến chùa Hội Khánh để gặp người đồng chí của mình là Phan Đình Viện tức Tú Cúc. Cụ Viện quê ở Hà Tĩnh, tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục nên bị Pháp truy lùn, phải trốn vào Nam và ở chùa Hội Khánh từ năm 1922. Cụ Sắc hội ngộ với cụ Tú Cúc và Hòa thượng Từ Văn, vị trụ trì thứ 6 chùa Hội Khánh, một nhà sư uyên thâm Phật học và có tinh thần yêu nước.
       Cùng chung lý tưởng là bảo vệ quê hương Tổ quốc họ đã cùng nhau khởi xướng nhiều hoạt động cứu nước tại chùa này. Từ cuộc gặp gỡ đó, họ đã quy tụ được những nhà yêu nước tại địa phương như: ông Khôi, ông Nhẫn, thầy Ký Cội; Giáo thọ Qưới, thầy Từ Tâm…v.v.

Bàn thờ cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ Hồ Chí Minh và Lãnh tụ Hồ Chí Minh tại chùa Hội Khánh. Ảnh Ng. Thịnh.

           Thời gian sau, Hội Danh dự yêu nước được thành lập tại chùa Hội Khánh.  Phong trào yêu nước đã được cụ Sắc và các bạn đồng chí âm thầm xây dựng ở chùa Hội Khánh. Ngoài chùa Hội Khánh, trước đây theo bước chân lưu lạc của mình, cụ Sắc từng xây dựng những tổ chức yêu cứu nước ở các nơi mà cụ từng sinh sống, như: ở chợ Gạo, Vĩnh Kim, Sớm Dầu (Tiền Giang) chùa Hòa Khánh, chùa Giồng Thành và nhiều nơi khác ở Campuchia.
         Do ảnh hưởng uy tín của Hòa thượng Từ Văn khá lớn ở trong vùng nên họ quyết định thành lập Hội Danh dự yêu nước. Mục đích Hội là thông qua các buổi thuyết giảng giáo lý chấn hưng Phật giáo, các lớp dạy chữ Nho, dạy bốc thuốc… để truyền bá tư tưởng yêu nước.
         Trong thời gian ở tại chùa Hội Khánh, cụ Sắc còn đi đến các vùng lân cận như Tân Khánh, Tương Bình Hiệp (thuộc tỉnh Thủ Dầu Một lúc đó, sau này là tỉnh Bình Dương) để truyền bá Hội Danh dự yêu nước, đàm đạo về Y thuật, Phật học… Những hoạt động yêu nước, tấm lòng nhân hậu, thương người của cụ Sắc đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng người dân nơi đây.

Một góc chùa Hội Khánh. Ảnh Ng.Thịnh.

Bảng công nhận Di tích Lịch sử -Văn hóa của chùa Hội Khánh. Ảnh Ng.Thịnh.

       Để hoạt động hoạt động truyền bá tư tưởng yêu nước được hiệu quả và che mắt mật thám Pháp, cụ Sắc đã mượn những buổi thuyết pháp về đạo Phật. cụ nghiên cứu về Phật giáo rất kỹ.
       Thời gian hoạt động của Hội Danh dự yêu nước không bao lâu bị thực dân Pháp phát hiện. Cụ Sắc phải rời chùa Hội Khánh về khu vực miền Tây tiếp tục hoạc động. Nơi cụ đến ở khu vực tỉnh Tiền Giang, sau chuyển xuống làng Hòa An, sống tại chùa Hòa Long, tỉnh sa Đéc ( nay thuộc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Tại đây, cụ lại thành lập, khởi xướng phong trào yêu nước trong dân chúng và bị Pháp theo dõi gắt gao. Tại chùa Hội Khánh và khu di tích lăng mộ cụ ở thành phố Cao Lãnh còn để lại những căn văn mật của Sở mật thám Pháp ra lệnh theo dõi cụ. Ngày 26-10- Kỷ Tỵ (tức ngày 26-11-1929) cụ Sắc mất tại chùa Hòa Long, thọ 67 tuổi.

           Những di vật của lòng yêu nước
  
         Hiện nay, ở chùa Hội Khánh còn lưu lại nhiều di vật liên quan tới quãng đời của cụ Sắc. Trong điện thờ cụ Sắc và Bác Hồ ở chùa còn giữ đôi câu đối do cụ Sắc viết. Nội dung hai câu đối như sau:
Đại đạo quảng khai, thố giác khêu đàm để nguyệt
Thiền môn giáo dưỡng, quy mao, thằn thụ đầu phong

         Hai câu đối trên có nghĩa là: Mở rộng đạo lớn như sừng thỏ, như mò trăng đáy nước; Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa, như cột gió đầu cây.

Cuốn sách xem địa lý của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ Hồ Chí Minh. Ảnh Nguyễn Thịnh.

La bàn xem địa lý của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ Hồ Chí Minh. Ảnh Nguyễn Thịnh.

         Ngoài ra cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc còn để lại cuốn sổ coi địa lý và cái la bàn, hiện được lưu bày ở Bảo tàng tỉnh Bình Dương. Ngoài ra, còn có bức tranh vẽ hòa thượng Từ Văn cùng đàm đạo với cụ Sắc và vị phụ tá cho hòa thượng. Cạnh đó còn tấm bảng ghi câuchụp hình ảnh liên quan đến cuộc đời cụa Sắc như: bản đồ vẽ sơ đồ những nơi cụ Sắc từng ghé và hoạt động cứu nước, hình ảnh cuốn sách coi địa lý, hình ảnh la bàn. Trên tấm bảng có ghi câu nói nổi tiếng của cụ Sắc: “Quan trường nô lệ trung chi nô lệ hựu nô lệ”. Nghĩa là: Quan trường là nô lệ trong đám nô lệ lại càng nô lệ hơn.

         Tấm bảng còn chụp lại bản nhân dạng của cụ Sắc, hình ảnh các tài liệu của Mật thám Pháp yêu cầu theo dõi cụ Sắc. Những tài liệu này được viết bằng tiếng Pháp, được dịch sang tiếng Việt. Từ những công văn yêu cầu theo dõi đó cho thấy thái độ của chính quyền Pháp thời đó đối với cụ Sắc như thế nào. Thực dân Pháp đánh giá những hoạt động của cụ Sắc là “nguy hiểm, cần phãi theo dõi”.

Bức tranh vẽ hòa thượng Từ Văn và cụ Sắc, bên phải ảnh. Ảnh Ng. Thịnh chụp lại.

           Ngoài ra, những tài liệu đó còn cung cấp thêm cho chúng ta những thông tin về cuộc đời và những hoạt động yêu nước của cụ. Chẳng hạn tài liệu hồ sơ A37801I do Phủ Toàn quyền Đông Dương – phủ Mật thám Trung ương ký ngày 21, tháng giêng, năm 1920, ghi: “Họ và tên: Nguyễn Sanh Huy, biệt danh còn gọi là Nguyễn Xuân Sắc, Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Phan Diêu. Nòi giống (quốc tịch): Người An nam ở Bắc Trung kỳ. Tuổi: sinh năm 1862. Nghề nghiệp hay chức vụ: (bỏ trống). Chức tước hay cấp tước: Phó bảng, cựu tri huyện ở Trung lỳ bị cách chức…”.
         Công văn mật số 280s do Cảnh sát Đông Dương Nam kỳ, Sở Mật thám, do Chánh mật thám (không đọc được tên) ký tại Sài Gòn, ngày 28, tháng giêng, năm 1928, ghi lại: “ Trong tháng 11 vừa rồi. Nguyễn Sanh Huy tức Nguyễn Xuân Sắc cùng con gái tên là Nguyễn Thị Thanh đi theo đã qua đêm tại nhà tên Vũ Hoành ở sa Đéc. Sau đó ông đến chùa Hòa Long, chùa nầy còn có tên là “Miểu trời sanh”  ở làng Hòa An. Sau khi trú tại chùa nầy một tháng, ông ta đến nhà Hương chủ Sành làng Hòa An và ở lại nhà nầy khoảng 15 hôm. Sau đó ông ta đi Sài Gòn và có thể từ nơi nầy đi ra Bắc kỳ…”.

Tài liệu nhận dạng cụ Nguyễn Sinh Sắc của Chính quyền Thực dân Pháp và bản dịch được chụp lại và trưng bày ở chùa Hội Khánh.

Công văn mật số 280s của Chính quyền Thực dân Pháp về cụ Nguyễn Sinh Sắc và bản dịch được chụp lại và trưng bày ở chùa Hội Khánh.

           Công văn trên gửi cho Thống đốc Nam kỳ, Chánh Sở Cảnh sát và Tổng Mật vụ Hà Nội, quan cai trị: chủ tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp- NV), Chánh Sở Mật thám Trung kỳ Huế, Ủy viên đặc nhiệm khu 1 Sài Gòn. Nguồn cung cấp công văn là Chỉ huy trưởng Đội cơ động Vĩnh Long.  

Một góc chùa Hội Khánh. Ảnh Ng.Thịnh.

          Cuối công văn trên, viên Chánh mật thám yêu cầu: “Tôi yêu cầu ông ủy viên đặc nhiệm khu ủy trưởng khu 1 điều tra xem Nguyễn Sanh Huy đã trở về Sài Gòn chưa và ông ta có thực hiện ra Bắc kỳ không.
           Bấy nhiêu di vật, không đủ nói hết về cuộc đời của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Nhưng trong một ngôi chùa cổ tĩnh mịch, tôi đã chứng nghiệm được lòng nước của những bậc tiền nhân đáng kính. Để hiểu rằng: lòng yêu nước của người Việt nơi nào cũng có. Và đó là sức mạnh to lớn, trường tồn của dân tộc này./.

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét