DÒNG HỌ
VÀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA DÒNG HỌ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC
Giáo sư Nguyễn Đình Chú
Trong sự
sống của mỗi quốc gia, theo thời gian mà hình thành nhiều hình thái cộng đồng
người trong đó có cộng đồng dòng họ với thuộc tính riêng, sức sống riêng. Từ
dòng họ lại có văn hóa dòng họ cũng có qui luật hình thành , tồn tại riêng và
tùy từng dòng họ mà có vai trò nhất định , thậm chí là chủ lực trong văn hóa
làng, cao nữa là với văn hóa khu vực, văn hóa dân tộc.
Đất nước ta
đã và đang bước vào thời kỳ hội nhập thế giới phẳng sôi động, khẩn trương và
cũng phức tạp chưa bao giờ có. Một bài toán vô cùng lớn và khó mà đất nước phải
giải cho kỳ được ở cả hai phương diện nhận thức và thực hành là làm sao “ hòa nhập mà không hòa tan”, làm sao vẫn
xây dựng được “ một nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc”. Muốn thế, phải có nhiều chủ trương nhiều biện
pháp, trong đó không thể không nghiên cứu vấn đề dòng họ và văn hóa dòng họ
trong văn hóa dân tộc một cách thấu đáo, tường minh.
Bài viết
này xin góp một tiếng nói nhỏ nhoi trước một vấn đề quá ư trọng đại đó của đất
nước.
I Sơ
lược về sự hình thành và tồn tại của cộng đồng dòng họ
Nhân loại ra đời, ở buổi đầu chưa có dòng
họ. Bởi với chế độ quần hôn thì người con sinh ra chỉ biết mẹ mà không biết
cha. Chưa biết cha vì chưa có gia đình. Chỉ
đến khi có hôn nhân mới có gia đình và nghiêm cấm loạn luân thì từ đó mà dần dần có dòng họ. Sự
ra đời của dòng họ trong buổi đầu là theo chế độ mẫu hệ, phụ hệ. Chẳng phải vì
thế mà trong Hán ngữ, họ là tính mà
chữ tính theo Thuyết văn giải tự là cuốn tự điển cổ nhất của Trung Hoa thì
được viết gồm bộ nữ và chữ sinh: người phụ nữ sinh ra con. Tuy nhiên,
một khi chế độ mẫu hệ, phụ hệ được thay thế bằng chế độ nam quyền thì dòng họ
lại thuộc họ cha. Nội tộc là họ cha.
Ngoại tộc là họ mẹ. Nội thân ngoại thích. Nội thân là phía họ cha . Ngoại thích
là phía họ mẹ. Nội thân được coi trọng hơn ngoại thích. Cũng có trường hợp bỏ
họ cha ( nội) theo họ mẹ ( ngoại) là do phía họ ngoại có công lao với mình quá lớn.. Nhà lãnh tụ phong trào
cần vương ở Tây Bắc cuối thế kỷ XIX
mà sách thì ghi là Ngô Quang Bích, sách
thì ghi là Nguyễn Quang Bích, cũng như
bác Vũ Khiêu trước ghi là Đặng Vũ Khiêu sau này lại ghi Vũ Khiêu là bởi
có chuyện chuyển đổi tên họ nội ngoại đã xảy ra đó đây như thế.
Dòng họ
xuất hiện từ khi có hôn nhân và gia đình hạt nhân là một cặp vợ chồng theo quan hệ sinh học đực - cái, Gia đình từ bố mẹ mà có con cái. Từ con cái
mà có cháu chắt, rồi chút chít mà thành dòng họ. Dòng họ theo thời gian phát
triển ngày một đông đúc sẽ có sự phân chi phân phái. Trong phả hệ của các dòng họ lớn đã có các từ phản
ánh sự phân chi phân phái đó, gồm: đại tộc , đại chi, trung chi, tiểu chi,
phái, tiểu phái. Tiểu phái thường cũng phải có năm sáu đời trở lại. Về địa bàn
cư trú, với gia đình hạt nhân, ở buổi đầu thì chỉ tại một khuôn viên vườn tược,
phát triển lên thì trong một xóm, một làng. Tình quê hương , tình làng xóm nảy
nở từ tình gia đình gắn với điều kiện không gian sinh sống đó. Nhưng gia đình
một khi phát triến theo thời gian thì
không gian sống cũng mở rộng. Hiện tượng một dòng họ có mặt ở nhiều tỉnh thành,
ở khắp cả nước, thậm chí ở cả nước ngoài
là bởi có sự phát triển đó.
Thuộc
tính của
cộng đồng dòng họ khác với mọi hình thái cộng động khác ở chỗ như đã nói là nó xuất phát từ quan hệ sinh học đực - cái vốn là cơ sở quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của loài người nên dòng họ cũng
tồn tại vĩnh viễn với loài người. Còn loài người là còn dòng họ, dù có biến
dạng thành thế này thế nọ. kể cả hao hụt. Muôn loài vật khác cũng phải tồn tại dựa trên quan hệ sinh học đực - cái
nhưng không có dòng họ. Chỉ loài người
được Thượng đế ban riêng cho bộ đại não để từ đó mà biết thiết chế hóa,
văn minh hóa sự sống, trong đó có sự hình thành và xây đắp dòng họ. Trong thành
tựu thiết chế hóa đa diện này,
trên phương diện đời sống tinh thần, có lòng hiếu thảo, biết ơn những
người đã sinh thành mình, gần nhất là cha mẹ, ông bà, rộng ra là tổ tiên bao
đời. Từ đó có đạo thờ Tổ tiên được triết lý hóa bằng các mệnh đề “ Vật bản hồ thiên / Nhân sinh do tổ” (
muôn vật sinh ra là nhờ ở trời / con
người sinh ra là nhờ có Tổ tiên), “ Ẩm
thủy tư nguyên”( uống nước nhớ nguồn), “ Kính tông pháp tổ” (kính
trọng và tuân theo phép tắc của Tổ tông).
Có gia đình, dòng họ mới có làng xã từ đó mà có từ làng họ, mới có đất nước từ đó mà có từ quốc gia ( nước và nhà), dân tộc ( dân và họ). Cả nước Việt Nam
có không biết bao nhiêu dòng họ, nhưng trong tâm thức của người Việt Nam vẫn coi như đều từ một bụng mẹ mà ra nên
có từ đồng bào , có câu ca dao cổ : “ “Bầu ơi thương lấy bí cùng / Tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn” Tất cả người Việt Nam vẫn nhận mình là con
cháu vua Hùng. Câu nói nổi tiếng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng là dựa theo tâm thức thiêng liêng đó ; “ Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu
ta phải cùng nhau giữ nước”. Tâm lý, ý thức về dòng họ của người Việt Nam ta đã nằm sâu trong tâm thức bao đời nay là thế.
Dấu vết của tâm thức đó đã và đang thể hiện trong cách xưng hô với nhau
là: bà con, cô bác, bác cháu , chú cháu,
cô cháu, dì cháu, anh em, chị em không chỉ trong phạm vi gia đình họ tộc mà cả
ngoài xã hội và trong cơ quan nhà nước. Trong khi với ngôn ngữ Pháp chẳng hạn,
cách xưng hô chỉ là các từ: Je, tu, il, elle, nous. vous, ils, elles. Với người
Việt Nam, tư duy họ tộc còn lan sang cả với người nước ngoài:” Bốn phương vô
sản đều là anh em”.
Sự tồn
tại của cộng đồng dòng họ ít nhiều có liên quan đến đời sống kinh tế nhưng chủ yếu là chỉ diễn ra ở phạm vi gia
đình hạt nhân. Ở chung, làm chung, ăn chung trong một ngôi nhà, ngày trước
không hiếm trường hợp là tứ đại, ngũ đại đồng đường. Với gia đình hạt nhân, có chuyện chia gia tài
gia sản của bố mẹ cho con mà ngày trước có việc chia ruộng hương hỏa cho con
trưởng chính là một biện pháp đảm bảo việc duy trì dòng họ một cách lâu dài.
Cộng đồng dòng họ một khi đã phân chi, phân phái, lan tỏa ra nhiều nơi thì sự
gắn kết về mặt kinh tế chắng có gì đáng
kể nũa. Sự gắn kết ở đây chủ yếu là thuộc về đời sống tâm linh,về mặt tâm lý,
tinh thần được thiêng hóa trong hai tiếng
huyết thống ( cùng một dòng máu) dù có loãng đến đâu vẫn không mất. “ Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Tất nhiện, những điều nói đây ít
nhiều cũng là chuyện chung của thế giới, nhưng với Việt Nam ta thì nó đậm đặc
hơn nhiều. Mà nguyên nhân có thể là do
nước ta vốn là nước nghèo. Mà đã nghèo thì khổ. Đã khổ thì phải cầu mong. Cầu
mong ở cuộc đời .Nhưng quan trọng hơn là cầu mong ở lực lượng siêu hình mà ở đó
thì không gì bằng Tổ tiên đã sinh ra và yêu thương con cháu hơn ai hết. Ở các
nước cũng như ở nước ta, hiện tượng dòng họ ít nhiều đã biến đổi và sẽ còn biến
đổi, thậm chí là hao hụt, một khi mà gia đình hạt nhân bị lung lay, một khi mà
cái thằng TÔI đang có chiều hướng trổi dậy như ngựa không cương, một khi mà “
sự văn minh càng tiến hóa bao nhiêu thì sự dã man cũng tiến hóa bấy nhiều” điều
mà thi sĩ của núi Tản sông Đà (Tản Đà) đã nói đến trong Giác
mộng con tập I cách đây 99 năm. Tuy nhiên, bên cạnh khả năng hao hụt trong
sự tồn tại của dòng họ thì lại có trạng thái nhiều gia đình là địa chủ, gia tộc
là tập đoàn địa chủ bị tan tác sau cải cách ruộng đất, nhưng rồi không ít đâu
lại hoàn đấy. Con cháu họ nhiều trường hợp vẫn ngoi lên khá bề thế cả trên
phương diện kinh tế và phương diện văn hóa, học thuật. Trong đó có không ít
trường hợp là nhờ chuồn được ra nước ngoài. Và không chừng hiện tượng này vẫn
có với không ít gia đình sau năm 1975 vì hoàn cảnh khăc nghiệt đã ra sống ở
nước ngoài. Đúng là không thể coi thường cái gen văn hóa trong sự sống của một
gia đình, một gia tộc mà cũng là của đất tộc. Ở Nhật Bản có chuyện tìm cách cải
tạo gen sinh học và cũng là gen văn hóa
để thành một nước Nhật nổi tiếng văn minh nhân bản và về hình thể
chẳng ai nói là Nhật lùn nữa.
Cộng đồng
dòng họ là một thực thể tồn tại trong sự sống nhân loại và sự sống Việt Nam bao
đời nay với những thuộc tính như thế, cho nên việc nghiên cứu dòng họ cũng đã
diến ra . Trên thế giới theo nhà Hán học Phan Văn Các trong tiểu luận Nghiên cứu các dòng họ - Cơ sở khoa học và
phương hướng giải quyết và các vấn đề đặt ra (1) cho biết: “ Trung Quóc
theo sách Bách tính gia là có 926 họ.
, Hàn quốc có 274 họ chia ra làm 3.435 chi phái. Anh quốc có 16.000 họ. Nhật Bản có 10.000 họ.”. Cách
thống kê này dễ thường là dựa vào thực trạng
phân chi, phân phái của các dòng họ mời nhiều như ở Anh, ở Nhật. Ở Việt Nam ta, chưa
biết ở thời trung đại trong khi đã rất coi trọng dòng họ thì đã có thư
tịch nào tổng kết đầy đủ số lượng dòng họ trong cả nước chưa, mặc dù đã nói về
họ này, họ khác.. Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp để cai trị người Việt Nam
mà nông dân chiếm tuyệt đai đa số nên đã cố nắm cho được các dòng họ. Do đó ,
trong khi Cải cách hương chính đã
thành lập Hội đồng tộc biểu. Năm
1930, P. Gourou trong tác phẩm Les paysans du delta Tonkinois ( Người
nông dân ở châu thổ Bắc kỳ) đã nói ở Bắc bộ có 202 dòng họ. Sau này,Dạ Lan
Nguyễn Đức Sự trong sách Gia phả: khảo
luận và thực hành xuất bản ở Sài Gòn năm 1973 (NXB Văn hóa tái bản năm
1992) thì ước tính là khoảng 300 họ. Tại
Hà Nội, sau năm 1975, có Câu lạc bộ
Unesco thông tin các dòng họ do cụ Nguyễn Song Tùng, cầm đầu và hoạt
động khá sôi nổi một thời. Bộ sách Cội nguồn ( NXB Văn hóa)gồm sáu tập đã
phản ánh được tình hình nhiều dòng họ trên đất nước ta. Nhưng vẫn chưa tổng kết
được đầy đủ dòng họ ở Việt Nam với 54
dân tộc anh em. Ngay với dân tộc Kinh được coi là chủ thể của dân tộc thì sự phản ánh thông tin vẫn con hạn
chế, chỉ mới đụng đến những dòng họ lớn và quen thuộc. Tiếc là sau ngày cụ Song
Tùng qua đời đã không có người nối tiếp. Riêng Nghệ An là tỉnh đã đi đầu trong
việc tổ chức Hội thảo khoa học về Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An (2) , Gia phong của xứ Nghệ ( trong bối cảnh
đất nước đổi mới) (3), được đông đảo
các nhà nghiên cứu tham gia nên đã có kết quả bước đầu đáng quí. Có điều là
những thành quả nghiên cứu dòng họ vừa nói chủ yếu vẫn thuộc về dân tộc Kinh.
Còn về dòng họ thuộc các dân tộc ít người thì không biết ngoài những gì ít
nhiều có đụng đến trong các công trình dân tộc học của một số nhà dân tộc học
người Pháp dưới thời Pháp thuộc và của
ngành dân tộc học thời nay, sáng giá nhất như
GS Từ Chi…thì còn những gì mà chúng tôi chưa có điều kiện hiểu biết.
Kính mong quí vị học giả bổ sung cho.
Trong lịch sử dòng họ ở Việt Nam
ta có hiện tượng phải đổi dòng họ. Điển hình nhất là trường hợp họ Mạc sau khi
mưu khôi phục thất bại, bị vương triều nhà Lê truy kích dữ dội nên đã phải đổi
thành các họ: Bế, Bùi, Cát, Hoàng, Đàm, Huỳnh, Hoa, Hồ, Lều, Nông, Phan, Phạm,
Thái, Vũ. Trong việc đổi tên họ này có cách là theo họ của người thiểu số : Bế,
Lều, Nông… Riêng cách đổi là Hoàng,
Huỳnh, Hoa, Phạm , Phan là còn có dụng ý
giữ lại phần nào họ gốc của mình. Bởi về Hán tự, mấy chữ này cùng với chữ Mạc
đều có bộ thảo đầu . Có trường hợp như
dòng họ Thạch của người Khmer Nam bộ là do thời chúa Nguyễn đặt cho. Hay
như người Vân Kiều , Ca Tu thì trước chưa có tên họ, sau này đặt tên là họ Hồ
theo họ của Bác Hồ. Thời trung đại, dưới chế độ phong kiến lại có hiện tượng
nhà vua cho một số bề tôi có công lao lớn được đổi họ sang quốc tính là họ nhà
vua. Nguyễn Xí mà sử sách xưa nhiều chỗ ghi là Lê Xí, cũng như Nguyễn Trãi thành Lê Trãi là do có chuyện
đó. Nhưng việc đổi tên theo họ vua là chỉ vớí một đời. Dưới thời Pháp thuộc,
trong đời sống cách mạng lại có hiện tượng bí danh, biệt danh lấy tên họ khác.
Ví như Nguyễn Đức Công thì thành Hoàng Trọng Mậu, Nguyễn Thức Đường thì thành
Trần Hữu Lực… Chủ tịch Hồ Chí Mình là người có nhiều tên họ tên người cũng
thuộc tình hình đó.
Trong
lịch sử dòng họ Việt Nam còn có hiện
tượng trùng tên với nhiều dòng họ của Trung Hoa.Về hiện tượng này, Vũ Hiệp
trong bài Nguồn gốc và sự phát triển một
số dòng họ tiêu biểu ở Việt Nam (Côi nguồn số 3. NXB Văn hóa 1999) đã cho
ta biết đôi điều như sau: “ …từ thời Triệu Đà đã có tư liệu về người phương Bắc
sang ta. Họ làm ăn sinh sống hoặc lấy vợ đẻ con và di duệ của họ tất phải giữ
tên họ người cha. Ở Kiến Xương tỉnh Thái Bình có câu chuyện Triệu Đà lấy bà vợ
lẽ người Việt và truyền nghề làm vàng sang nước ta. Ngày nay nhiều người làm
nghề vàng bạc ở Kiến Xương mang tên họ Triệu…
Người phương Bấc sang ta trong các điều kiện khác nhau. Quan lại cai
trị, tướng tá cao cấp, binh lính và thuộc lại, người chạy loạn, người đi buôn,
người đói ăn đi kiếm sống, kể cả người đi lao dịch và tù nhân. Tất nhiên di duệ
của họ mang họ bố. Lịch sử cho biết có nhiều nhân vật lịch sử có nguồn gôc từ
phương Bắc. Lý Bôn tức Lý Nam Đế tổ tiên là người phương Bắc sang nước ta từ
thời Tây Hán…”
.
II.
Văn hóa dòng
họ trong đời sống văn hóa dân tộc
Văn hóa
vốn là một khái niệm có nội hàm vừa rộng vừa hẹp. Rộng là bao gồm tất cả những
gì là thành tựu thiết chế hóa thuộc mặt bằng của cuộc sống loài người từ bán
khai và từng bước từng bước tiến lên cõi văn mình thuộc phạm vi gia đình, dòng
họ và cả xã hội. Hẹp là thuộc trường hợp từ văn hóa là mặt bằng chung đó mà có
sự kết tinh, chưng cất, nỏi trỗi, thăng hoa, có sức lan tỏa ảnh hưởng tới các dòng họ khác, tới văn hóa
làng, văn hóa khu vực, văn hóa dân tộc trong
một giai đoạn hoặc lâu dài.
1)
Thuộc phạm vi văn hóa mặt bằng thì trọng tâm của văn hóa dòng họ là vấn đề
thờ phụng Tổ Tiên. Trong đó việc đầu tiên là lập nhà thờ, tùy theo khả
năng phả hệ nhiều ít đã biết. Ví như với họ Nguyễn
Đình Thái sư Cương Quốc Công Nguyễn Xí - người được Truyền hình Việt Nam dựng phim theo chương trình Danh nhân đất Việt mệnh danh là Người hai lần khai quốc tại Nghệ An mà sách Cương Quốc Công Nguyễn Xí : Tộc phả - Di huấn-
Phụ lục ( (tái bản và bổ sung) xuất bản năm 2013 cho biết cả dòng họ này từ
Đại tộc cho đến các tiểu phái hiện có
409 nhà thờ. Nhà thờ thì có các tế khí ( đồ vật để thờ) và cách bố trí bàn thờ theo thế thứ của các
tiền nhân. Rồi đến nghi thức cúng lễ. Nhìn chung đều có sự định hình. Sách Thọ mai gia lễ đã hướng dẫn nghi thức cúng lễ đó. Cùng với việc
lập nhà thờ, việc xây dựng lăng mộ của dòng họ cũng là điếu rất được coi trọng.
Nhất là với mộ TỔ đã trở thành vật thiêng vô cùng lớn. Trong tiếng chửi
của dân quê ở Nghệ Tĩnh, tiếng chửi “ mả Tổ mi”( mộ Tổ mày) là độc địa nhất không gì bằng. Vì nó đụng đến vật thể thiêng
liêng nhất của con người là vị thủy tổ. Việc xây lăng mộ cũng như xây nhà thờ,
đặt bàn thờ, ở chỗ nào ,theo hướng nào, với thuyết phong thủy qua vai trò của
các thầy địa lý, thầy phong thủy là không đơn giản chút nào. Sau ngàycách mạng
thành công, xây dựng đời sống mới, có khuynh hướng coi thường những chuyện đó
nhưng nay thì trở lại và còn nhiêu khê hơn trước nhiều. “
Thanh minh trong tiết tháng ba / Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh” vốn từ
Trung Hoa được du nhập vào nước ta trong bao đời nay là một sinh hoạt thiêng
liêng không thể thiếu của các dòng họ. Cho đến nay, hầu như đâu đâu cũng có
nghĩa trang dòng họ. Có nơi như ở Thừa Thiên – Huế, nhiều bà con Việt Kiều đã
đem tiền về nước xây lại lăng mộ ông bà cha mẹ , tổ tiên, có chỗ nguy nga tốn
đến hàng tỷ đồng. Đủ biết với người Việt Nam ta, đạo thờ Tổ Tiên và tâm lý về
họ tộc sâu nặng biết chừng nào. Riêng vấn đề tộc phả cũng là chuyện được đặt ra
hàng đầu vơí các dòng họ. Mà chẳng riêng Việt Nam ta, nhiều nước trên thế giới
cũng là thế, tất nhiên mức độ có khác nhau. Ngành Gia phả học (Généalogie, Genealogy) đã có mặt trên thế
giới rất sớm. Cũng nhà Hán học Phan Văn Các ở tiểu luận đã nói đến cho tbiết: “
Tộc phả ở Trung Quốc ít nhất đã khởi nguồn từ đời Chu dân dần hưng thịnh ở đời
Hán, đến đời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều do nặng về ý thức dòng dõi môn đệ nên nhà nước chọn quan lại,
gia đình kén dâu rể đều lấy tộc phả làm căn cứ tham khảo mà trở nên cực
thịnh…, Tộc phả Hàn quốc khởi nguồn từ
thời Tam quốc ( Cao Cú Lệ, Pei Xi, Si La)…bắt đầu công việc ghi chép hệ thống
vương thất: Vương đại thực lục của Kim Khoan Nghị, Duệ Nguyên Lục của Nhậm Cảnh… Tại Seoul Hàn quốc có một trung tâm
gia phả học mang tên Hồi tưởng xã. Tại
đó có bộ gia phả hai quyển dày của Lý Long Tương ở Hoa Sơn( 4). Hồi tưởng xã có lịch sử trên bốn mươi năm hiện lưu giữ khoảng
2250 cuốn gia phả, tộc phả…. Gia phả học
hay phả học châu Âu có thể coi là chính thức ra đời vào nửa sau thế kỷ XVI với
các
cuốn như Lịch sử tổng quát các
vương quốc Jeru salem,Chypre, Aménie ( 1575 – 1579)…Nổi tiếng trong ngành
học này có thể kể: Nguồn gốc lịch sử dòng
họ quí phái 20 tập của Gustave
Chaix D Est , Ange xuất bản trong khoảng
1903- 1929 khảo cứu hàng trăm dòng họ
hiện hữu… Hiện nay trong các trường đại học ở Mỹ, nhiều trường đã đặt môn gia
tộc sử hoặc lịch sử gia đình thành môn học riêng… Cơ quan lưu trữ gia phả lớn
nhất hiện nay có lẽ là thư viện gia phả của nhà thơ Jesus Christ Đức thánh ngày
tận thế ( The genealogical Library of Jesus Christ the Church of Lather day
Saint) ở thành phố Salt Lake bang
Yota…bình quân hàng tháng trả lời trên năm nghìn lượt thư độc giả giải đáp các
vấn đè liên quan đến gia phả. Kho sách của thư viện này hiện có trên một triệu
cuốn Microfilm và mỗi tháng bổ sung thêm khoảng 4000 cuốn” ).
Ở Việt Nam
ta, xem ra đến nay, ngành gia phả học vẫn chưa có mặt với tư cách là một ngành
khoa học thực sự có hệ lý thuyết và hệ phương pháp riêng và đầy đủ. Không chừng
cuốn sách Gia phả: khảo luận và thực hành
của tác giả Nguyễn Đức Sự xuất bản ở Sài Gòn năm 1973 dù còn đơn sơ nhưng
là mầm mống đầu tiên của ngành gia phả học Việt Nam. Tuy vậy, ở nước ta , việc
viết gia phả tộc phả thì đã có từ rất
lâu đời với một ý thức tự giác sâu sắc thường được ghi ở lời mở đầu các bản gia
phả, tộc phả là “ quốc hữu pháp gia hữu
phả” (nước thì có pháp luật,
nhà thì có gia phả tộc phả). Dưới thời
Pháp thuộc, cùng với chủ trương thành lập Hội
đồng tộc biểu, Viễn Đông Bác Cổ cũng đã sưu tầm các tộc phả. Trong bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư mục đề yếu (
Catalogue des livres en Han Nôm), NXB Khoa học xã hôi. Hà Nội 1993, chưa đếm
được tổng số bao nhiêu nhưng lướt qua cũng đã thấy nhiêu tộc phả viết bằng chữ
Hán. Sau năm 1975, một khi cuộc sống của đất nước đã trở lại bình thường, phong trào tìm lại tộc
phả, dịch tộc phả,viết thêm tộc phả khắp mọi miến đất nước rất sôi động. Chỉ
riêng họ Nguyễn Đình Thái Sư Cương Quốc Công Nguyễn Xí mà ở trên có nói đến đã
thống kê được 117 cuốn tộc phả trong toàn đại tộc. Trong đó có bản xưa nhất là
từ năm 1630, có bản lại được viết theo hình thức diễn ca nôm, có bản dược viết theo thể phú.
Họ Nguyễn Cảnh ở Đô Lương Nghệ An lại có
bản tộc phổ viết cuối thế kỷ 17 bằng hình thức tiểu thuyết lịch sử. Cuốn Nguyễn Phúc Tộc Phả thuộc họ
Nguyễn hoàng gia do Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc Tộc tại Huế biên soạn,
chép Thủy
tổ phả từ Định Quốc Công Nguyễn Bặc cho đến Vương phả và Đế phả ở đời
thứ mười bảy là vua Duy Tân và vua Bảo Đại, in năm 1996 là một công trình tộc
phả rất công phu. Phong trào tìm lại, viết lại, viết mới tộc phả đã kéo theo
phong trào tìm lại Tổ tiên và nhận họ. Có trường hợp không tìm lại được bằng
tra cứu tộc phả thì về nhà thờ Tổ làm lễ cầu xin và khát âm dương được là được.
Rất nhiều người dù không tra cứu được tộc phả , vẫn cứ theo tên họ của mình mà
tham gia sinh hoạt họ tộc, đặc biệt với các trường hợp Thủy tổ là một đại danh
nhân của đất nước. Không chỉ người Việt Nam trong nước mà nhiều người Việt Nam
đã ra sống ở nước ngoài vài ba đời vẫn về nước để lễ tổ, để nhận họ. Nhiều dòng
họ đã có Hội đồng đại tôn toàn quốc. Ngày giỗ Tổ đã trở thành ngày hội lớn của
con cháu xa gần. Đặc biệt, có không ít
đại gia đã bỏ ra hàng nhiều tỷ đồng để trùng tu, tân lập nhà thờ Tổ.
Thực thể
dòng họ đã xuất hiện và tồn tại trong sự sống nói chung, trong đó có sự sống
tinh thần, sự sống tâm linh trọng đại của nhân loại, đặc biệt là với người Việt
Nam ta bao đời nay là thế. Nhưng ở đây không phải không có mặt trái , xưa đã
đành mà nay cũng vậy. Chỉ nói riêng ở Việt Nam ta thì xưa là chuyện cậy thế cậy
thần của người họ lớn, là chuyện “ một người làm quan cả họ được nhờ.” Còn nay,
chỉ đọc Mảnh đất lắm người nhiều ma
của Nguyễn Khắc Trường và xem thêm một số phim về nông thôn thì dủ biết tình
hình tranh chấp quyền lợi giữa các dòng họ, chuyện cố kết dòng họ để tranh chức
tranh quyền nơi thôn xóm một cách ranh ma, đểu cảng là thế nào. Mà đâu chỉ là
chuyện nơi thôn xóm, ngay ở nơi đáng ra không được có mà vẵn có là người cùng
một họ đưa nhau lên chức này chức nọ, không từ một cấp nào. Người dân chẳng
những đã không thôi nói đến thành ngữ “
con ông cháu cha” mà còn sáng tác thêm thành ngữ “ nhất thân nhì thế tam tiền
tứ chế” mà thân thì trước hết vẫn là người cùng họ tộc.
2). Thuộc
phạm vi văn hóa được thăng hoa:
Từ mặt bằng văn hóa chung như trên vừa nói, với một số dòng họ đã có sự
thăng hoa văn hóa để trở thành một dòng họ có vai trò chủ lực đối với văn hóa
làng, cao hơn nữa là với văn hóa khu vực. Một số trường hợp lại còn là với văn
hóa của cả nước, văn hóa dân tộc ở mức độ này mức độ khác thuộc
văn hóa bác học là chính nhưng cũng có cả văn hóa dân gian đặc biệt là
văn nghệ dân gian, là dân ca. Có một sự thật là, trên sách báo của ta, khi nói
đến văn hóa thì thường nói đên thành tựu của nhà văn hóa này nhà văn hóa khác,
nói đến văn hóa vùng miền như văn hóa sông Hồng, văn hóa xứ Thanh, văn hóa xứ
Nghệ ( Lam Hồng), văn hóa xứ Huế, văn hóa xứ Quảng, văn hóa xứ Đồng Nai…văn hóa
các dân tộc ít người, văn hóa dân tộc, mà đã quên nói đến văn hóa dòng họ. Mãi
tới vài chục năm gần đây mới nói tới. Trong khi theo cố GS Trần Quốc Vượng cho
biết thì ở Pháp, Viện sĩ Jean Poirier trong công trình nghiên cứu về Tộc người
và văn hóa ( Ethnies et cultures. Encyclopédia de la Pléiade) cho rằng loài
người đã trải nghiệm các văn hóa xã hội dựa trên 3 nguyên lý lớn: + Nguyên lý
cùng – dòng họ ( (Co- Descendance) +
Nguyên lý cùng – nơi cư trú ( Co- Résidence) + Nguyên lý cùng – lợi ích ( Co- Intérêt).( 5
). Dòng họ là nguyên lý đầu tiên của ba nguyên lý này. Vậy thì quên nó, coi nhẹ
nó sao được.
Sự thăng
hoa của dòng họ cũng như văn hóa dòng họ theo qui luật là phải bắt đầu từ sự
đột khởi cá nhân nổi trỗi mà không phải dòng họ nào cũng có. Từ cá nhân nổi
trỗi đột khởi ở lãnh vực này hay lãnh vục khác của cuộc sông mà từ đó có các
dòng họ được thăng hoa ở các lãnh vực đó. Ví dụ ở thời phong kiến, dòng họ nào
có được một anh hùng chống ngoại xâm thắng lợi để rồi được vương triều cất nhắc
lên địa vị quan lại đầu triều thì tiếp sau đó con cháu tha hồ mà làm quan . Như
thế thì dòng họ này sẽ thành dòng họ quí tộc và nếu được trí thức hóa thì kiêm
luôn là dòng họ văn hóa cao cấp theo qui
luật di truyền văn hóa có liên quan đến di truyền sinh học. Dân gian thường nói
con nhà nòi là thế. Trường hợp đơn
thuần văn hóa thì cũng thế. Phải có cá nhân đột khởi. Dưới chế độ phong kiến,
chủ yếu là qua thi cử để có chuyện trước đó anh chỉ là một học trò nghèo, nhưng
qua thi cử mà đậu được đại khoa để rồi
có người thì bị áo mão che mất thi thư thì cũng chẳng đưa dòng họ thành dòng họ
văn hóa. Dòng họ văn hóa chỉ dành riêng cho những vị đại khoa nào dù có làm
quan vẵn không rời sách vở, không rời sứ mệnh sản sinh những công trình học
thuật, văn hóa bác học cho đất nước và để lại gen di truyền văn hóa cho giống nòi, họ tộc.
Ở thời
trung đại, dưới chế độ phong kiến, các dòng họ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê,
Nguyễn là những dòng họ nắm vương quyền
của đất nước. Trong đó, Đinh và Tiền Lê do tuổi thọ còn ít nên chưa có sự thăng
hoa văn hóa cho triều đại mà cũng là cho dòng họ. Còn các triều đại sau
thì không những tạo dựng được nền văn
hóa vẻ vang cho đất nước và chính dòng họ mình cũng đã là một dòng họ văn hóa
vẻ vang. Qui luật đã diễn ra ở đây là: người
có công đầu trong việc thay thế vương triều cũ thì hầu như chưa ai là
nhà văn hóa , nhưng đến đời con đời cháu thì đã là nhà văn hóa, thậm chí là nhà
văn hóa lớn của dân tộc. Trường hợp nhà Trần là thế. Trần Thủ Độ người có công
đầu dựng lên vương triều nhà Trân thì về văn hóa chưa có gì nhưng đến Trần Thái
Tông, Trần Thánh Tông, đặc biệt là Trần Nhân Tông thì đã thành một dòng họ đại
quí tộc có sự lên ngôi về văn hóa trong muôn đời với đất nước. Nhà Lê cũng vậy, Lê Thái Tổ công
lao với đất nước vĩ đại như thế nhưng vẫn chưa phải là nhà văn hóa theo quan
niệm thông thường. Nhưng đến Lê Thánh Tông thì đã là một nhà văn hóa sừng sững
trong lịch sử. Đến nhà Nguyễn cũng là thế. Vua Gia Long thì chưa phải là nhà
văn hóa, nhưng các vua kế tiếp là Minh Mạng, Thiệu Trị, đặc biệt là Tự Đức đã
là những bậc đại gia về học vấn. Họ Nguyễn dưới thời nhà Nguyễn đã là một dòng
họ văn hóa bề thế hiếm có. Hai câu “ Văn
như Siêu Quát vô Tiền Hán / Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường” được lưu
truyền bao đời nay, dù có là ngoa ngôn đi nữa thì vẫn không thể phủ nhận bốn
nhân vật được nói tới đây không phải là bốn cây cột cái của văn hóa đương thời
trong đó Tùng Thiện vương,Tuy Lý Vương là con của vua Minh Mạng. Con vua Minh
Mạng còn có Huệ Phố nữ sĩ, Mai Am nữ sĩ cũng là hai thi bá của thời đó.Dòng họ vương triều mà thành dòng họ
văn hóa như thế là nhờ thuở ấy, trên đất
nước ta đã có được một triết lý nhân sinh mà cũng là triết lý giáo dục không gì
đích đáng hơn là ‘ nhân bất học bất tri lý” ( người mà không học thì không biết lẽ
phải) và từ đó, giáo dục thực sự đã là quốc sách hàng đầu vì cơ bản nó là con đường độc đạo dẫn đến
chấp chính, điều hành quốc sự.
Thành
tựu thăng hoa văn hóa dòng họ đã phụ thuộc vào trình độ phát triển văn hóa của
dân tộc. Ở thời trung đại, văn hóa dân tộc nói chung còn mang tính chất hỗn hợp
và tính chất khu vực . Hỗn hợp bởi văn – sử - triết bất phân. Do đó thành tựu
văn hóa của một dòng họ nổi tiếng cả nước như Ngô gia văn phải là có đủ các loại hình văn hóa đó. Thời đó, đội
quân chủ lực của nền văn hóa Việt Nam vẫn là nho sĩ mà tri thức là gồm
nho y lý số. Nhưng phần Nho vẫn bề thế hơn. Thành tựu văn hóa của các
dòng họ cũng không nằm ngoài qui luật đó. Khác với thời hiện đại, một khi nền
văn hóa dân tộc đã chuyển sang phạm trù văn hóa hiện đại mang tính chất thế
giới trong đó xuất hiện nhiều thành tựu văn hóa mới cho nên thành tựu văn hóa
của dòng họ cũng xuất hiện những nội dung tựu mới mang tính chát đa ngành đa
dạng hơn so với thời trung đại. Họ
Nguyễn Đức ở Nghi Lộc, Nghệ An là một trường hợp như thế. Dân số của họ chỉ
khoảng trên dưới 800 người nhưng có tới 8 hội viên hội nhà văn Việt Nam vào loại sừng sỏ, chưa kể là còn vài
vị không là hội viên hội nhà văn Việt Nam, nhưng tài năng văn chương thì còn
đáng kính nể hơn. Đã thế nhưng họ này còn có một bác sĩ thuộc hàng bác sĩ có
tên tuổi hàng đầu của ngành Tây y của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một nam
tiến sĩ khoa học về máy bay được giải thưởng của Liên Xô cũ, một nữ tiến sĩ
khọa học về vật lý lý thuyết lại có hai tập thơ. Tất nhiên cũng có những dòng
họ phát triển văn hóa theo hướng chuyên ngành và theo di truyền văn hóa chuyên
ngành.
Có thể
nói thêm về ảnh hưởng qua lại giữa các dòng họ
trong một làng về mặt văn hóa.
Thì quả là như thế. Khi nói văn hóa dòng
họ là chủ lực của văn hóa làng thì có nghĩa là đã nói đến ảnh hưởng của nó đối
với các dòng họ khác trong làng, rộng ra là cả khu vực. Sự ảnh hưởng này còn ít
nhiều liên quan đến chuyện hôn nhân giữa các dòng họ trong một làng kể cả khu
vực. Quan niệm “môn đăng hộ đối”
, “ lấy
vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống” đã thể hiện rõ ý thức bảo tồn và tranh
thủ ảnh hưởng văn hóa giữa dòng họ này với dòng họ khác. Ở đây không ít trường
hợp đã có vai trò nàng dâu lấy chồng sinh con đẻ cái nhưng đồng thời cũng làm
thay đổi gen văn hóa cho họ nhà chồng ..
Văn hóa
dòng họ đã tồn tại bao đời nay trên đất
nước ta là vậy. Nhưng điều gì là đáng giá nhất mà người Việt Nam ta hôm nay và
mai sau cần biết rõ và suy ngẫm nhiều nhất về văn hóa dòng họ để tìm cách tiếp
thu thừa hưởng? Theo tôi, đó chính là
vấn đề truyền thống gia phong của các dòng họ văn hóa lừng danh. Gia phong theo
định nghĩa của Hán Việt tự điển Đào
Duy Anh là: “ Thói nhà,tập quán giáo dục
gia tôc”, của Từ Hải của Trung Hoa là: “ Gia thế được truyền lại thành phong tục thông thường trong xã hội”.
Trong ngôn ngữ xưa, cùng với khái niệm gia phong còn có các khái niệm gia đạo ( đạo lý của gia đình, gia
tộc), gia pháp ( phép tắc của gia đình, gia tộc), gia giáo ( sự giáo dục của
gia đình, gia tộc), gia huấn (lời dạy trong gia đình, gia tộc) gia phạm ( qui phạm trong gia đình, gia tộc),
gia tắc (qui tắc, nguyên tắc trong gia đình, gia tộc), gia thanh ( thanh danh
của gia đình , gia tộc), gia thế ( thế đời, thế lực của gia đình, gia tộc trong
xã hội).Với ngày nay thì những khái niệm, những từ tố có định ngữ “gia” này xem
ra dã thành tử ngữ, chẳng mấy ai nhớ đến nữa. Nhưng với cha ông thuở trước,
nhất là với những người có gia giáo thì
đó là những từ ngữ đầu cửa miệng, thường trực trong ý thức. Gia phong không chỉ
là chuyện thuộc phạm vi gia đình nhỏ mà còn với gia tộc, đại tộc mặc dù có mức
độ đậm nhạt khác nhau tùy theo rộng hẹp và phụ thuộc vào trình độ ý thức cảm
nhận , thực thi của những thành viên cụ thể. Gia phong thuộc phạm trù văn hóa-
đạo đức, nhưng đạo đức là nền tảng kết
tinh để thành văn hóa. Gia phong là sản phẩm văn hóa – đạo đức của gia đình gia
tộc nhưng gộp chung các dòng họ lại chính là sản phẩm văn hóa – đạo đức của dân
tộc. Cũng có thể coi đây là văn hóa – đạo đức dân tộc thể hiện trong phạm vi
gia dình, gia tộc. Văn hóa – đạo đức làm nên gia phong bao gồm từ hai ngọn
nguồn là văn hóa dân gian và văn hóa bác học. Trong đó văn hóa dân gian là nền
tảng nhưng phải có văn hóa bác học mới
có dộ cao của sự kết tinh. Gia phong truyền thống này còn là sản phảm của văn
hóa phương Đông xưa mà đức trị được coi trọng hơn pháp trị trong đó có vai trò
to lớn của các học thuyết, tôn giáo, của
Nho Phật Đạo. Phật giáo với tính ưu việt nhất trong các tôn giáo là giàu tình
thương yêu con người. Nho giáo với phương châm sống : “ Cách vật - trí tri - thành ý - chính tâm - tu thân - tề gia - trị quốc
- bình thiên hạ” , với mẫu người lý tưởng là chính nhân quân tử, với tư
tưởng coi trọng gia đinh, coi trọng đạo đức
con người hơn bất cứ học thuyết nào. Đạo giáo giúp con người có ước mơ
và cũng răn đe con người bớt làm điều sai trái. Tất cả là ngoại nhập nhưng đã
góp phần tạo dựng gia phong trên đất
nước ta xưa. Gia phong gắn với gia đạo, gia pháp, gia phạm, gia huấn , gia lễ… và
bao gồm mọi phương diện của tư đức thuộc mọi quan hệ trong phạm vi gia đình,
gia tộc. Những tư đức phổ biến là: lòng biết ơn tiên tổ, ông bà, cha mẹ,
hiếu thảo, kính trưởng, nhượng huynh, vợ
chồng chung thủy, vốn có tính chất song phương chứ không hẳn là đơn phương.
Biết ơn tổ tiên sẽ được tổ tiên phù hộ. Hiếu thảo với cha mẹ nhưng là “ phụ từ tử hiếu”. Trinh tiết với chồng
nhưng theo tinh thần “ tương kính như tân”
( vợ chồng kính trọng nhau như kính trọng khách). Với chồng thì “ tao khang chi thê bất khả hạ đường”
(với người vợ lấy nhau từ ngày con ăn tấm ăn cám, đến lúc mình làm quan không
được bỏ). Anh em thì như thể chân tay không rời nhau. Chị ngã em nâng. Trong
tình yêu, chữ tình phải đi liền với chữ nghĩa. Trong tư đức không thể thiếu
tinh thần hiếu học. Gia phong phải gắn liền tư đức với công đức và làm nền cho công đức trong đó có tình làng nghĩa xóm, có tinh thần tôn sư
trọng đạo, có tình yêu tổ quốc nhân dân, đất nước có ngoại xâm thì phải xả thân
thủ nghĩa, có tình yêu thương con người , đặc biệt là người nghèo khổ, hoạn
nạn. Công đức cũng phải trở thành truyền
thống của gia đình, gia tộc. Phản quốc phản dân là phản gia phong gia đạo.
x
X X
Bạn đọc
kính mến !
Trong lịch
sử sinh tồn và cũng là lịch sử văn hóa của đất nước Việt Nam thân yêu của chúng
ta, sự hiện diện của cộng đồng dòng họ và văn hóa dòng họ đã là như thế. Tiếc
là có lúc nào đó, do có sự áp đảo của văn hóa phương Tây đối với văn hóa phương
Đông bên cạnh sự nâng đỡ của nó, do có tình
trạng “ dĩ Âu vi trung”, do ảnh
hưởng của một số quan niệm, lý thuyết đâu đâu, mà trên đất nước ta một thời đã
có sự chểnh mảng, rẻ rúng với vấn đề dòng họ và văn hóa dòng họ. Đến nay thì
tuy đã có sự tỉnh ngộ và đang ra sức phục hồi nhưng xem ra sự nhận thức quá khứ
lại còn non nớt, rời rạc, chưa đủ độ sâu sắc vững chãi. Cho nên có được những
cuộc hội thảo khoa học như trước đây Nghệ An đã có, nay thêm Khoa văn hóa học
của ĐHKHXH & NV thuộc ĐHQG TPHồ Chí Minh và Viện lịch sử dòng họ tiếp tục
như thế này là rất đáng hoan nghênh. Nhưng vẫn còn phải tiếp tục nhiều hơn nữa và tiếp tục theo hướng ứng dụng thì không gì lợi hơn cho đất nước
trong thời hội nhập thế giới này mà ai ai cũng mong muốn “ hòa nhập mà không hòa tan” và xây dựng được “một nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bẳn sắc dân tộc”.
Yên Hòa
thư trai, những ngày nóng nực
( tháng 6 năm 2015 )
Chú thích
1). Xem: Văn
hóa các dòng họ ở Nghệ An ( Kỷ yếu hội thảo khoa học).NXB Nghệ An 1997.Tr 59-71
2). Xem Nguyễn Đình Chú: Vai trò của gia tộc trong sụ phát triển văn hóa dân tộc(nhìn từ đất
Nghệ). Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An. Tr 110 – 119
3). Xem Nguyễn Đình Chú: Nghĩ về
gia phong trên đát Nghệ quê ta. Gia phong xứ Nghệ ( trong bối cảnh đất nước
đổi mới).NXB Nghệ An. 2004.Tr 77 – 92
4) Vốn là con cháu họ Lý ( nhà Lý) chạy trốn sang Triều Tiên trước sự đàn
áp của nhà Trần, đã về Việt Nam nhận họ.
5) Xem Trần Quốc Vượng : Đôi lơì về
van hóa dòng họ Việt Nam.Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An. Tr 72 - 78
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét