Lịch sử là công bằng. Đánh giá chính xác, đem lại sự công bằng đối với một số nhân vật lịch sử quả là không đơn giản. Cụ Phan Thanh Giản là một trong số ít trường hợp mà dù đã trải 150 năm khi luận về công tội vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Xin giới thiệu mấy bài viết với các ý kiến trái chiều để mọi người cùng suy ngẫm.
Phan Thanh Giản đã được
giải oan sau 150 năm
giải oan sau 150 năm
Ngô Minh
Đã 141
năm, kể từ ngày 4/8/1867, cụ Phan Thanh Giản kết thúc đời mình bằng 17 ngày
nhịn ăn và chén thuốc độc tự vẫn vì buồn đau, thương dân, thương nước. Bi kịch
đời cụ là bi kịch lịch sử cần được làm sáng tỏ. Chuyện ấy đã thành sự thật.
Khi thăm mộ
và đền thờ Phan Thanh Giản, chúng tôi thấy rất nhiều vòng hoa đang còn tươi của
Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội đồng Nhân dân tỉnh Bến Tre, Huyện ủy, UBND, HĐND
huyện Ba Tri, rồi các ban ngành, sở, xã Bảo Thạnh (Ba Tri) đến viếng nhân ngày
giỗ của cụ ngày 4/8. Nghĩa là đám giỗ cụ đã được tỉnh long trọng tổ chức, chỉ
một tuần trước khi chúng tôi đến Bến Tre. Dịp này, Sở Văn hóa - Thể thao
và Du lịch tỉnh Vĩnh Long cũng đã tổ chức lễ rước và an vị tượng Phan
Thanh Giản tại Khu Di tích Văn Thánh Miếu Vĩnh Long - nơi Kinh lược sứ đại
thần Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
Pho tượng
do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụng hiến. Tượng đúc bằng đồng, cao 85 cm, nặng
250 kg, được tỉnh Vĩnh Long đặt trang trọng tại nơi thờ trong Văn Thánh
Miếu.
Thật vui
khi được biết, ngày 24/1/2008, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa Đặng Văn Bài vừa
có công văn gửi UBND tỉnh Bến Tre, cho biết Cục đã làm việc với Viện Sử
học và cơ quan này có công văn nêu rõ, các nhà sử học đánh giá cao công lao của
cụ Phan Thanh Giản trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa.
Cụ nổi
tiếng thanh liêm, đạo đức, có nhiều đóng góp lớn đối với lịch sử dân tộc trên
các lĩnh vực văn học, sử học... Viện Sử học kết luận: “Với nhận thức mới trên
quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng
nhiều hình thức khác nhau”. Đó là sự phán quyết công bằng. Như vậy Phan
Thanh Giản đã được giải oan sau gần 150 năm mang tiếng “bán nước”.
Cụ Phan
Thanh Giản sinh năm 1796, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa thi Đình năm Bính Tuất
(1826) ở Huế. Cụ là người đỗ Đại khoa tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ.
Tháng
9/1835, cụ được phong Hiệp biện Đại học sĩ, đó là chức quan hàm tùng nhất phẩm,
trên thượng thư một bậc. Năm 1834, cụ được phong Sung Cơ mật viện. 1848 đổi
sang Thượng Thư Bộ lại; 1851 làm Kinh lược phó sứ Nam Kỳ; 1853 Thượng thư Bộ
Hình, Sung Cơ mật viện; 1856: Chánh tổng tài Quốc sử quán…
Những năm
1836, 1840 bị giáng chức vì can ngăn vua, có năm phải đi khai mỏ vàng ở
Thái Nguyên (1838) sau đó lại được phục hồi chức phẩm. Cụ là Tổng tài phụ trách
việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục trong ba năm
1856-1859, là bộ Quốc sử đồ sộ, lớn nhất thời Nguyễn gồm 53 quyển.
Về văn thơ
cụ có Lương Khê thi thảo gồm 454 bài thơ và Lương Khê văn tập (1876) do các con
tập hợp in sau khi cụ mất. Cụ còn có các tập thơ, nhật ký như Sứ Thanh thi
tập, Tây phủ Nhật ký, ghi chép trong chuyến đi Pháp…
Cụ cùng
Nguyễn Thông đã có công xây Văn Thánh Miếu và lập Văn Xương Các ở Vĩnh Long…Chỉ
ngần ấy thôi cụ cũng đã là nhà văn, nhà văn hóa, nhà sử học lớn của dân tộc.
Nhưng nói
về Phan Thanh Giản từ 150 năm nay có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau. Không ít người cho rằng ông là người có tội trong việc để mất
6 tỉnh Nam Kỳ vào tay quân Pháp khi ông làm Chánh sứ toàn quyền đại thần ký hòa
ước Nhâm Tuất 1862, từ đó có câu ca dân gian lên án Phan Thanh Giản “bán nước”
“Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân”.
Vua Tự Đức,
ông vua “chủ hòa” đã cho rằng cụ đã làm mất Lục tỉnh Nam Kỳ, nên phán: ”xét
phải tội chế, chưa đủ che được tội” và nghi án “truy đoạt lại chức hàm và đẽo
bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu”.
Các nhà sử
học cũng không đồng nhất quan điểm. Nhiều nhà sử học quê hương Nam Bộ hiểu nhân
cách và khí tiết Phan Thanh Giản đã không đồng thuận với phán xét của vua Tự
Đức và quan điểm của chính sử đương thời.
Năm 1963,
ở miền Bắc, kết luận tổng kết cuộc tranh luận về Phan Thanh Giản trên Tạp chí
Lịch sử, một nhà sử học đã lại lên án Phan Thanh Giảm phạm tội “bán
nước”, “dâng thành hiến đất cho giặc”. Dù vậy, cũng không giải tỏa được băn
khoăn của nhân dân và giới sử học.
Nhưng
quan niệm của đồng bào Nam Bộ lại khác. Ngay sau khi cụ tuẫn tiết, nhân dân
Vĩnh Long đã đưa linh vị của cụ vào thờ ở Văn Thánh Miếu. Nguyễn Đình
Chiểu, nhà thơ, nhà yêu nước cùng thời, cùng sống ở Ba Tri với Phan Thanh Giản
lại có thơ điếu ca ngợi cụ: “Minh tinh chín chữ lòng son tạc…”.
Trong Văn
tế lục tỉnh sĩ dân trận vong, cụ Đồ Chiểu viết về Phan Thanh Giản:
“Phan học sĩ hết lòng mưu quốc”. 10 năm sau khi Phan Thanh Giản tự vẫn, năm
1886, vua Đồng Khánh đã xét lại công tội của cụ và đã ra chiếu chỉ “khai
phục nguyên hàm” và khắc lại tên trong bia tiến sĩ ở Văn Miếu Huế cho cụ Phan
Thanh Giản. Dưới chân núi Ba Thê, Thoại Sơn, An Giang có đền thờ Phan Thanh
Giản từ trăm năm trước.
Ở xã Tương
Bình Hiệp (Bình Dương), từ khi cụ mất, nhân dân đã thờ cụ ở trong Đình làng. Và
ngày 25/8/1924, vua Khải Định đã sắc cho đình Tương Bình Hiệp thờ cụ làm thần.
Bản sắc
dịch ra như sau: “Nay sắc cho xã Tương Bình Hiệp, tổng Bình Phú, tỉnh Thủ Dầu
Một phải phụng thờ Tam giáp Tiến sĩ, Hiệp tá đại học sĩ, Sung cơ mật viện đại
thần Phan Thanh Giản tướng công làm thần giữ nước giúp dân. Vì ông thường linh
ứng nên nhân tiết tứ tuần đại khánh trẫm ban bửu chiếu phong cho ông vào bậc
ĐOAN TÚC DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN, chuẩn cho phụng thờ ông làm thần để giúp
đỡ và che chở dân đen của ta...”.
Như vậy
các vua Nguyễn sau Tự Đức đã hiểu đúng công lao của Phan Thanh Giản!
Trước năm
1867, trong thư gửi cho Tổng đốc An Giang và Tổng đốc Hà Tiên, Chánh sứ Phan
Thanh Giản viết: “Lá cờ ba sắc (chỉ cờ Pháp) không thể phấp phới bay trên một
thành lũy ở đó Phan Thanh Giản còn sống…”.
Theo sử
sách thì cụ Phan có ba người con trai là Phan Hương, Pham Liêm và Phan Tôn sau
khi cha mất đã cầm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Ba Tri, Bến Tre cuối năm
1867.
Khi cuộc
khởi nghĩa bị quân Pháp đàn áp, ba anh em dùng thuyền chạy thoát ra Bình Thuận.
Phan Hương ở lại Phan Thiết, ẩn mình sống bằng nghề nông. Còn Phan Tôn và Phan
Liêm đi bộ ra Huế, sau đó theo Nguyễn Tri Phương ra Bắc chống Pháp, tử thủ bảo
vệ thành Hà Nội. Sau khi bị bắt, hai anh em được đưa sang Pháp.
Năm 1888,
chính phủ Pháp cho về lại Việt Nam, Phan Liêm được bổ làm Phủ doãn Thừa Thiên
và là người làm thầy dạy dỗ Bửu Lâm 10 tuổi, tức vua Thành Thái mới lên ngôi.
Thầy Phan
Liêm đã truyền cho vị vua trẻ ý chí chống Pháp, nên vua đã liên hệ với nhóm
Trần Cao Vân kháng chiến, bị bọn Pháp phế truất, đày sang đảo La Réunion…
Cuối năm
1994, tại Vĩnh Long, hai tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long phối hợp với Hội khoa học
lịch sử đã tổ chức cuộc Hội thảo khoa học lớn về Phan Thanh Giản với ý muốn làm
rõ hơn công tội của cụ.
Cuộc Hội
thảo này có nhiều bài tham luận công phu, sâu sắc, là một bước tiến mới,
công bằng hơn trong đánh giá Phan Thanh Giản. Sau cuộc hội thảo này giáo sư
Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (lúc đó) đã có một bản kết
luận sâu sắc và công tâm.
Có thể đây
là một cơ sở để giúp cho Cục Di sản và Viện Sử học đi đến quyết định “phục hồi
danh dự” cho cụ Phan Thanh Giản năm 2008.
…Người dân
Miền Tây hiểu rất rõ công tội của cụ Phan Thanh Giản, rằng thời kỳ đó, triều
đình Huế là mới là nguyên nhân chính để mất lục tỉnh Nam Kỳ, vì đã quyết “chủ
hòa”.
Cụ Phan
Thanh Giản không thể tự mình làm trái ý vua. Nên không thể quy cho cụ tôi “bán
nước” hay “phản bội Tổ quốc”. Mặc dù cụ vẫn ý thức được hoàn cảnh và trách
nhiệm của mình.
Trong lá
sớ gửi vua Tự Đức trước khi tự vẫn, cụ viết: “Nghĩ tôi đáng chết, không dám
sống cẩu thả để cái nhục lại cho quân phụ”!
Đứng trước
mộ cụ Phan Thanh Giản tôi cứ nghĩ miên man về nỗi niềm lịch sử. Hết lòng vì dân
vì nước nhưng lại không được người đời hiểu mình.
Hơn ba chục
năm qua, tất cả những đường phố, trường học mang tên Phan Thanh Giản đều bị gỡ
bỏ. Tượng cụ ở Châu Thành, ở trường Trung học Cần Thơ cũng bị gỡ. Hẳn nhiên bức
tượng nằm trong lòng dân mới là vĩnh cửu.
Một tin vui
nữa là tại kỳ họp lần thứ 13 HĐND tỉnh Bến Tre khóa VII (ngày 10 và 11/4/2008)
đã thông qua việc đổi tên trường THPT Ba Tri thành trường THPT Phan Thanh Giản
từ năm học 2008-2009. Sắp tới tỉnh sẽ dựng lại tượng cụ Phan Thanh Giản.
Rời Ba Tri,
tôi cứ ước ao không chỉ ở Bến Tre, Vĩnh Long mà tên của Đại thần Phan Thanh
Giản tài hoa, khí tiết sẽ được đặt cho nhiều trường học và đường phố miền Nam
như trước đây.
Bến Tre - Huế, 8/2008
Ngô Minh
Phan Thanh Giản: con người, sự nghiệp
và bi kịch lịch sử
và bi kịch lịch sử
Phan Huy Lê
1. Trước hết chúng ta cần nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và tính phức tạp trong việc đánh giá nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản (PTG).
Đánh giá về
một nhân vật lịch sử, một con người, nói chung đã là một vấn đề phức tạp và
tinh tế, đòi hỏi các nhà khoa học phải đặt nhân vật đó vào bối cảnh lịch sử cụ
thể với tất cả mối quan hệ phức hợp của hoàn cảnh gia đình, văn hoá, xã hội,
điều kiện hoạt động và nhất là yêu cầu phát triển của đất nước trong xu thế
chung của thời đại và của khu vực, để phân tích và nhìn nhận một cách khách
quan, toàn diện và thoả đáng về mặt công lao, cống hiến, mặt tích cực cũng như
mặt hạn chế và tiêu cực. Tuy nhiên đối với những nhân vật mà công lao và cống hiến
đã quá rõ ràng như các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hoá... hay trái lại,
những nhân vật mang tội với lịch sử, với dân tộc và nhân loại thì sự đánh giá
tương đối dễ dàng hơn và dễ đi đến sự nhất trí hơn. Nhưng trong lịch sử còn có
những nhân vật, những con người sinh ra và lớn lên trong một bối cảnh phức tạp,
đầy biến động và thử thách của lịch sử và trong cuộc sống cũng như hoạt động
bản thân của họ cũng chứa đựng và phản ánh những mâu thuẫn đó, vừa có nhân cách
cao đẹp, có công lao đối với dân với nước, vừa có những mặt hạn chế nặng nề,
những ứng xử mang tính nghịch lý, thậm chí có khi đi đến bế tắc, tự kết thúc
cuộc sống bằng những bi kịch. Đối với những nhân vật loại này, việc nghiên cứu
và đánh giá dĩ nhiên gặp nhiều khó khăn và thường tồn tại những ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau là hiện tượng dễ hiểu.
PTG là trường
hợp khá điển hình thuộc loại hình nhân vật này.
Ngay từ 1867,
khi PTG tự kết thúc cuộc đời bằng chén thuốc độc, thì từ trong triều cho đến
trong dân gian, đã có những thái độ nhìn nhận và sự đánh giá rất khác nhau về
ông.
Vua Tự Đức và
triều đình đổ hết tội lỗi cho ông về việc để mất Nam Kỳ lục tỉnh, kết tội ông
" xét phải tội chết, chưa đủ che được tội" và nghị án " truy
đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trạm giam
hậu" (1). Nhưng đến năm 1886, vua Đồng Khánh lại " khai phục nguyên
hàm" và khắc lại tên ông ở bia Tiến sĩ (2).
Trong lúc đó,
những nhà yêu nước đồng thời với ông như nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tỏ thái độ
thương tiếc và trân trọng đối với PTG qua bài thơ điếu (cũng có người giải
thích cách khác):
“Minh tinh
chín chữ lòng son tạc Trời đất từ rày mặc gió thu”.
Và trong bài
" Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong" , nhà thơ Đồ Chiểu một lần nữa
nêu cao Trương Định và PTG:
" Phải
trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh. Ý người
đặng xem tấm bản phong trần, Phan học sĩ hết lòng cứu nước".
Nhưng lại có
nguồn tin tương truyền rằng, Trương Định lên án PTG bán nước khi đề cờ khởi
nghĩa " Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân".
Ở đây chưa bàn
về nguồn gốc và tính xác thực của câu nói trên, nhưng sự tồn tại và lưu truyền
dù trong giới hạn nào, ít nhiều cũng phản ánh một thái độ lên án PTG.
Rồi trong thơ
văn, trong các công trình nghiên cứu, chúng ta luôn luôn bắt gặp những nhận xét
và đánh giá rất khác nhau, khác nhau đến mâu thuẫn, trái ngược nhau về nhân vật
PTG.
Năm 1962 -
1963, trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử bùng lên cuộc tranh luận về PTG. Tháng
10/1963, tạp chí đã công bố bài kết luận của GS Trần Huy Liệu dưới tiêu đề
" Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh Giản" . Quan điểm
chung của bài kết luận là lên án PTG " Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại
chủ nghĩa, phản lại nguyện vọng và quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân
dân" , là phạm tội " dâng thành hiến đất cho giặc" và từ đó phủ
nhận tất cả " tư đức" của ông như " đức tính liêm khiết" ,
" lòng yêu nước" , " thương dân" ... vì " công đức đã
bại hoại thì tư đức còn có gì đáng kể" (3).
Bài kết luận
này cũng như những tham luận đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử lúc bấy giờ
cho thấy, bên cạnh thái độ lên án PTG, cũng có những ý kiến muốn nhìn nhận ông
một cách toàn diện hơn và phải ghi nhận những phẩm giá, nhân cách của ông một
cách khách quan và thoả đáng hơn. Và ngay sau khi cuộc thảo luận kết thúc với
kết luận lên án và phê phán nặng nề như vậy thì GS Ca Văn Thỉnh với tư cách là
một người con của Bến Tre, của Nam
Kỳ lục tỉnh tỏ thái độ băn khoăn và không đồng tình. Như vậy là cuộc thảo luận năm 1962 - 1963 tuy kết thúc, nhưng trong tranh luận và sau khi kết luận, vẫn tồn tại những quan niệm và ý kiến khác nhau. Hơn thế nữa, cuộc tranh luận lúc bấy giờ diễn ra trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh dân tộc đang phát triển gay gắt mà mục tiêu cao nhất của nhân dân cả nước là chống xâm lược, độc lập và thống nhất Tổ quốc. Không khí của cuộc đấu tranh dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của nhà sử học đối với đất nước không thể không ảnh hưởng đến xu hướng chung của cuộc tranh luận. Chúng ta nên ghi nhận kết quả của cuộc thảo luận năm 1962 - 1963 như một mốc đánh dấu nhận thức và thái độ của sử học đối với PTG trong bối cảnh lịch sử cụ thể lúc đó.
Kỳ lục tỉnh tỏ thái độ băn khoăn và không đồng tình. Như vậy là cuộc thảo luận năm 1962 - 1963 tuy kết thúc, nhưng trong tranh luận và sau khi kết luận, vẫn tồn tại những quan niệm và ý kiến khác nhau. Hơn thế nữa, cuộc tranh luận lúc bấy giờ diễn ra trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh dân tộc đang phát triển gay gắt mà mục tiêu cao nhất của nhân dân cả nước là chống xâm lược, độc lập và thống nhất Tổ quốc. Không khí của cuộc đấu tranh dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của nhà sử học đối với đất nước không thể không ảnh hưởng đến xu hướng chung của cuộc tranh luận. Chúng ta nên ghi nhận kết quả của cuộc thảo luận năm 1962 - 1963 như một mốc đánh dấu nhận thức và thái độ của sử học đối với PTG trong bối cảnh lịch sử cụ thể lúc đó.
Sau năm 1975,
nhất là trong công cuộc đổi mới gần đây, nhiều nhà khoa học thấy cần phải đánh
giá lại PTG một cách khách quan và đầy đủ hơn. Nhân dân và cán bộ tỉnh Bến Tre,
Vĩnh Long quê hương của PTG càng mong mỏi và đòi hỏi các nhà khoa học và công
luận làm sáng tỏ hơn thân thế và sự nghiệp của ông với tất cả những gì ông đã
để lại cho lịch sử và trong lòng dân, những thành công và thất bại, mặt tích
cực và hạn chế, những trăn trở và uẩn khúc của đời ông.
Đó chính là lý
do sâu xa và gần gụi đưa đến cuộc hội thảo khoa học do Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân
tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre phối hợp với Trung tâm KHXH & NVQG và Hội KHLSVN tổ
chức. Sự có mặt và tham gia tích cực của nhiều nhà khoa học ở địa phương và
Trung ương, nhiều cán bộ lãnh đạo của hai tỉnh và sự theo dõi, chờ đợi của nhân
dân quê hương PTG đủ cho thấy sự cần thiết và ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực
tiễn của cuộc hội thảo.
2. Tư liệu là
cơ sở khoa học cần thiết để phục dựng lại một cách đáng tin cậy thân thế và sự
nghiệp của PTG cùng những mối quan hệ phức tạp giữa ông với thời cuộc, với
triều đình và quân Pháp lúc bấy giờ. Chỉ trên cơ sở những sự thật lịch sử được
xác minh bằng tư liệu cụ thể, chúng ta mới có thể phân tích và nhận định một
cách khoa học.
So với cuộc
hội thảo năm 1962 - 1963 và những công trình nghiên cứu trước đây, chúng ta ý
thức sâu hơn vai trò của tư liệu và đã cố mở rộng thêm các nguồn tư liệu. Ngoài
chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện..., những
thư tịch Hán Nôm, nhiều tác giả đã cố gắng khai thác thêm những sử liệu trong
các tác phẩm của PTG, trong các di tích lịch sử và văn học dân gian của quê
hương ông, trong các tài liệu lưu trữ của triều đình Nguyễn (Châu bản triều
Nguyễn), của quân đội Pháp... Tôi đặc biệt quan tâm những tư liệu của quê hương
Bến Tre như tấm bia mộ đơn sơ " Lương Khê Phan lão nông chi mộ" , tấm
minh sinh ghi lời Phan " Đại Nam hải nhai lão thư sinh tánh Phan chi cửu"
, những chuyện kể, những truyền thuyết dân gian nói lên chí hiếu học, cuộc sống
thanh bạch, lòng liêm khiết, tinh thần yêu nước, thương dân của PTG (4) và qua
đó, giúp chúng ta hiểu tấm lòng tôn kính, ngưỡng mộ của nhân dân đối với ông.
Rõ ràng chúng
ta còn phải dày công mở rộng và khai thác sâu hơn nữa các nguồn tư liệu về PTG.
Cho đến nay, ngay những tác phẩm của PTG được con ông thu thập lại trong hai bộ
sách " Lương Khê thi thảo" in năm 1876, có 454 bài thơ) và "
Lương Khê văn thảo" (in năm 1876, có 39 bài văn) (5) vẫn chưa được khai
thác nhiều. Những tư liệu lưu trữ của triều Nguyễn và của Pháp cũng chỉ mới
được tìm tòi, khai thác một phần.
Nhưng cùng với
việc mở rộng nguồn tư liệu, chúng ta phải quan tâm đến việc giám định và xử lý
tư liệu. Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng về phương pháp luận sử học mà
trong hội thảo khoa học của chúng ta, một số tác giả đã nêu lên với sức thuyết
phục cao.
Ngay câu nói
" Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân" mà bao nhiêu tác giả đã sử
dụng và dẫn ra như một minh chứng hùng hồn về thái độ lên án của nhân dân đối
với PTG và triều đình Nguyễn, thì cho đến nay, nguồn gốc và xuất xứ vẫn chưa
rõ. Phải chăng đó là câu đề cờ của Trương Định khi dựng cờ khởi nghĩa vừa chống
Pháp xâm lược vừa chống triều đình đầu hàng, nhưng như vậy tại sao không thấy
ghi chép lại trong những tác phẩm viết về Trương Định của những tác giả đương
thời như Nguyễn Thông? Phải chăng do nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra năm 1907,
chỉ là một giả thiết hay suy đoán chưa có căn cứ? Dĩ nhiên sự ra đời và lưu
truyền câu nói đó dù trong phạm vi nào, đã phản ánh một thái độ phê phán PTG
của một số người nhất định. Nhưng nếu là câu nói của Trương Định thì rõ ràng ý
nghĩa của tư liệu khác hẳn. Vì thế, tìm hiểu nguồn gốc và xuất xứ của câu nói
vẫn cần đặt ra.
Sử dụng tư
liệu của chính sử triều Nguyễn viết về PTG, nhất là quan hệ giữa ông với vua Tự
Đức và triều Nguyễn trong trách nhiệm để mất 6 tỉnh Nam Kỳ cũng cần phân tích,
giám định. Đại Nam thực lục ghi chép việc ký hoà ước Nhâm Tuất 1862 như là trái
ý Tự Đức và bị nhà vua lên án: " Thương thay con đỏ của lịch triều, nào có
tội gì? Rất là đau lòng. Hai viên này (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp) không
những là người có tội của bản triều mà là người có tội của muôn nghìn đời
vậy" (6), " Nghị hoà là thất cơ, lỗi ấy do hai viên kia (Phan Thanh
Giản và Lâm Duy Thiếp)" (7). Nhưng cũng chính bộ sử này cho biết rõ, lúc
đó Tự Đức đã xác lập đường lối " chủ hoà" và khi cử PTG làm Chánh sứ
toàn quyền đại thần " nghị về việc hoà" thì vua tôi đã bàn định kỹ
các khả năng kể cả việc cắt đất và bồi tiền. Nếu PTG tự tiện ký hoà ước trái ý
vua thì sao Tự Đức không bắt tội, mà lại cử ông làm Tổng đốc Vĩnh Long và tiếp
tục giao phó cho ông nhiều trọng trách giao thiệp với Pháp và năm 1863 chính Tự
Đức đã phê chuẩn hoà ước, làm lễ đại triều ở điện Thái Hoà tiếp sứ thần hai
nước Pháp, Y Pha Nho để trao đổi văn bản hoà ước. Đó là những lắt léo trong
chính sử triều Nguyễn nhằm biện hộ cho Tự Đức và đổi tội cho PTG mà khi sử dụng
chúng ta cần giám định cẩn thận
Sử dụng tư
liệu của Pháp, nhất là những tư liệu do những chỉ huy quân viễn chinh Pháp và
những viên quan cai trị Pháp viết, chúng ta càng phân tích, đối chiếu và giám
định kỹ, không những vì lối trình bày khuếch đại " chiến công" của
họ, mà có khi còn vì những mưu đồ chính trị thâm hiểm. PTG là một người có uy
tín và ảnh hưởng lớn trong nhân dân thì càng dễ trở thành đối tượng lợi dụng
của họ và vì mục đích đó, họ không ngần ngại gì bóp méo sự thật hay bịa đặt ra
các văn bản giả.
Trong cuộc hội
thảo khoa học của chúng ta, có tác giả nêu lên một cách có căn cứ, nghi vấn về
bài hịch kêu gọi đầu hàng của PTG với lời " ta đã biên thư cho tất cả các
quan và tất cả các vị chỉ huy quân sự là phải bẻ gãy giáo mác và trao lại thành
luỹ mà không giao chiến" (7), và thư của PTG gửi cho La Grandière trước
lúc tự tử (8). Đó là những tư liệu mà nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng, nhưng
chưa ai đặt vấn đề thẩm định tính xác thực và độ tin cậy của nó.
Việc quân Pháp
hạ thành Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên tháng 6/1867 cũng như có chỗ khác nhau
giữa một số tư liệu của Pháp và của ta. Quan chức Pháp như La Grandière,
Paulin, E.Luro... miêu tả như PTG đã đầu hàng, trao thành Vĩnh Long cho Pháp,
rồi viết thư bắt các thành An Giang, Hà Tiên cũng phải nộp thành cho Pháp (9).
Nhưng tư liệu của ta như Đại Nam
thực lục và nhất là Châu bản triều Nguyễn (10) lại cho thấy một thủ đoạn của
quân Pháp, lợi dụng thái độ chủ hoà của PTG và những sơ hở của quân ta, để bất
ngờ chiếm thành. Chúng đem chiến thuyền đến áp sát thành Vĩnh Long, đưa thư bắt
nhường ba tỉnh miền Tây, buộc PTG xuống tàu thương nghị rồi khi Phan trở lại,
chúng kéo theo và bất ngờ đột nhập chiếm thành Vĩnh Long.
Việc chiếm
thành An Giang và Hà Tiên cũng diễn ra gần như thế. Đó là lý do chúng chiếm
được ba thành quá dễ dàng và không tốn một viên đạn. Tất nhiên để mất ba thành
là trách nhiệm không thể thoái thác của Kinh lược sứ đại thần PTG và các tướng
giữ thành, nhưng dâng thành đầu hàng giặc hay bị lợi dụng và lừa dối để mất
thành lại là hai việc khác nhau liên quan đến phẩm giá con người. Những tư liệu
khác nhau như vậy đòi hỏi phải có sự phân tích, đối chiếu và giám định rõ ràng
trước khi sử dụng.
Giám định tư
liệu là yêu cầu mặc nhiên của công tác sử liệu học, nhưng hội thảo khoa học của
chúng ta lần đầu tiên đưa ra yêu cầu đó với những nghi vấn và đề xuất cụ thể về
một số tư liệu liên quan đến nghiên cứu con người và sự nghiệp PTG vào những
năm tháng thử thách nặng nề nhất trong cuộc đời ông.
3. Đánh giá
PTG trước đây người ta thường tập trung vào 5 năm cuối đời ông từ khi ký hoà
ước 1862 nhượng ba tỉnh miền Đông đến khi để mất tiếp 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ
năm 1867. Đó là giai đoạn cuối đời mà ông phải gánh vác những trọng trách nặng
nề trong những mâu thuẫn của đất nước và của bản thân phát triển đến cực điểm
mà ông không vượt qua được và tự kết thúc bằng cái chết. Trong giai đoạn này
tập trung nhiều vấn đề phức tạp cần làm sáng rõ nhất. Nhưng khi xem xét và đánh
giá một con người, chúng ta cần nhìn nhận một cách toàn diện về toàn bộ cuộc
đời và sự nghiệp của con người đó.
Kể từ khi sinh
ra năm 1796 đến khi từ trần năm 1867, cuộc đời và sự nghiệp của PTG nên phân
định làm 3 giai đoạn:
-
Giai đoạn thiếu thời lo ăn học từ 1796 đến khi thi đỗ
Tiến sĩ năm 1826.
-
Giai đoạn làm quan phụng sự ba triều vua Nguyễn: Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, từ năm 1826 đến năm 1862.
-
Giai đoạn cuối đời đầy thách thức và bế tắc từ 1862 đến
1867.
Hội thảo của
chúng ta nhất trí cho rằng, trước khi tập trung làm sáng rõ những vấn đề giai
đoạn cuối đời, cần xem xét và đánh giá con người và sự nghiệp của PTG trong hai
giai đoạn đầu trước năm 1862.
Trong buổi
thiếu thời, nét nổi bật của con người PTG là hiếu thảo, chăm học, sống thanh
bạch cần kiệm. Xuất thân trong một gia đình nghèo khổ, tiên tổ từ Bình Định di
cư vào đồng bằng sông Cửu Long và trên quê hương mới cũng qua ba lần thay đổi
mới định cư ở thôn Tân Thạnh, huyện Tân An, dinh Long Hồ (sau là huyện Bảo An,
tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Cha làm Thủ
hạp là một viên chức nhỏ, bị tội oan phải tù 3 năm ở Vĩnh Long, PTG mồ côi mẹ
từ lúc lên 7 tuổi, được mẹ kế và nhiều người giúp đỡ cho ăn học thành tài. Năm
_ấ_t Dậu 1825, ông thi Hương trường Gia Định, đỗ Cử nhân lúc 30 tuổi (31 tuổi
ta). Năm sau - năm Bính Tuất 1826 - ông thi hội, đỗ Tiến sĩ (Đệ tam Giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân) năm 31 tuổi (32 tuổi ta). Đó là thành đạt lớn mở ra trong
bước ngoặt cuộc đời của PTG. Ông trở thành vị Tiến sĩ đầu tiên, vị Tiến sĩ khai
khoa của Nam Kỳ lục tỉnh.
Quốc triều
hương khoa lục chép: " Ông là người đỗ đại khoa đầu tiên của Nam Kỳ. ông
là người có học vấn và đức hạnh đứng đầu đất Nam Trung" (11).
Quốc triều
đăng khoa lục nhận xét: " Ông là người đỗ đại khoa trước nhất của Nam Kỳ.
Lực học tinh thuần, tính hạnh chính trực" (12).
Với lòng hiếu
thảo, hiếu học, tinh thần siêng năng, cần mẫn và trí thông minh, PTG đã vượt
qua những khó khăn của cuộc sống, vươn lên vị trí Tiến sĩ khai khoa của đất
Đồng Nai - Gia Định, của Nam Kỳ lục tỉnh. Những phẩm giá con người và vị trí
thành đạt đó đã làm cho nhân dân Nam Kỳ quý mến và ngưỡng mộ, tự hào về người
con của quê hương, biểu thị tinh thần hiếu học của nhân dân ta. Đó cũng là
những phẩm chất tốt đẹp thời tuổi trẻ của PTG mà chúng ta cần trân trọng và còn
nguyên giá trị giáo dục đối với thế hệ trẻ hôm nay cũng như ngày mai.
Với học vị
Tiến sĩ, PTG đi vào con đường hoạn lộ, làm quan trải qua ba triều vua từ Minh
Mạng qua Thiệu Trị đến Tự Đức. Từ chức Hàn lâm viện Biên tu thăng Lang trung Bộ
Hình năm 1826, ông tiếp tục giữ nhiều chức vụ ở trong triều và nhiều địa
phương.
Dưới triều
Minh Mạng (1820 - 1840), ông giữ chức Quyền nhiếp trấn Nghệ An (1828), Thự phủ
doãn phủ Thừa Thiên (1829), thăng Thị lang bộ Lễ (1829), thăng Hiệp trấn Ninh
Bình (1829), đổi về Quảng Nam (1831) dẹp cuộc nổi dậy ở Chiên Đàn bị thua và bị
cách chức, rồi được khởi phục làm Hành tẩu Nội các, thăng Thị lang bộ Hộ, Thự
phủ doãn Thừa Thiên, thăng Hồng lô tự khanh, sung Phó sứ sang Thanh rồi thăng
Đại lý tự khanh, kiêm công việc bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần (1832), Khâm
phái đi Trấn Tây, đổi làm Bố chính Quảng Nam (1835), vì can ngăn vua, bị xúc
xiểm và bị giáng là thuộc viên lục phẩm (1836), rồi được làm Thừa chỉ Nội các,
sung Lang trung bộ Hộ, rồi Thự thị lang sung Cơ mật viện (1836), được cử đi
duyệt binh ở Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, lúc về chuyên biện việc Bộ Hộ vì quên
không đóng dấu vào chương sớ bị giáng làm Lang trung, biện lý việc Bộ, phái đi
khai mỏ Chiên Đàn, mỏ bạc Thái Nguyên (1838), được triệu về Kinh làm Thông
chính sứ phó ty, rồi Thị lang bộ Hộ, vì can ngăn vua bị giáng làm Thông chính
phó sứ (1840), sung làm Phó chủ khảo trường thi Thừa Thiên vì sơ suất bị giáng
một cấp (1840).
Dưới triều vua
Thiệu Trị (1841 - 1847), ông được thăng Tham tri (1841), rồi thăng Thượng thư
bộ Hình sung Cơ mật viện đại thần (1847).
Dưới triều vua
Tự Đức (1848 - 1883), cho đến trước năm 1862, ông được đổi sang Thượng thư bộ
Lại (1848), sung làm Giảng quan toà Kinh diên, cử làm Kinh lược đại sứ ở Tả Kỳ,
lĩnh Tổng đốc Bình Phú, kiêm coi đạo Thuận Thành (1849), làm Kinh lược phó sứ
Nam Kỳ lĩnh Tuần phủ Gia Định, kiêm coi tỉnh Biên Hoà và các đạo Long Tường, An
Hà (1851), được triệu về kinh thăng Thự hiệp biện đại học sĩ, lĩnh Thượng thư
bộ Hình, sung Cơ mật, Kinh diên (1853), làm Chánh tổng tài Quốc sử quán (1856)
(13).
Qua hành trạng
tóm lược trên, cuộc đời làm quan của PTG có những bước thăng trầm, có lúc bị
cách chức, bị cách chức, nhưng trong bất cứ cương vị nào ông cũng luôn luôn
trung thành, mẫn cán, lo làm tròn sứ mạng phò vua, giúp nước, an dân theo quan
niệm của Nho giáo. Ngoài tài năng, phẩm giá đáng quý ở PTG là tấm lòng yêu nước
thương dân, tính ngay thẳng cương trực và cuộc sống cần kiệm thanh bạch. Làm
quan có lúc đến nhất phẩm triều đình, nhưng quyền lực và danh vọng không làm
ông bị tha hoá như nhiều quan chức khác, trước sau ông vẫn giữ nhân cách cao
đẹp của mình.
Với tính cương
trực và ý thức trách nhiệm trước nước, trước dân, PTG đã dám can ngăn vua dù bị
mang hoạ vào thân. Năm 1836, ông đã can ngăn vua Minh Mạng đi tuần du Quảng Nam
vì năm đó mất mùa lại đang lúc cày cấy, " hãy xin tạm đình cho dân được
chuyên việc đồng ruộng" (14). Năm 1840, Vương Hữu Quang có tội, đình thần
dựa theo ý vua, có người xin xử tội chém, có người xin xử tội lưu, ông dám xin
nhà vua chỉ xử giáng 2 cấp lưu (15).
Những năm
1843, 1849, 1852, 1853, 1859, PTG dâng sớ lên vua, nói lên thực trạng của đất
nước về kinh tế, xã hội và đề xuất những chính sách nhằm " dựa vào pháp
luật mà cai trị" , " quan tốt mà dân yên" , " chỉnh đốn
thói quen của sĩ phu" , " " chữa hồi bệnh đau khổ của nhân
dân" , " nuôi dân chăm cày cấy" , " nuôi quân trù phương
lược" , " binh giỏi lương đủ như nguồn nước chảy mãi không hết"
... (16). Năm 1838, được cử đi khai mỏ vàng Chiên Đàn ở Quảng Nam rồi mỏ bạ
Tống Tinh ở Thái Nguyên, PTG đem thực trạng thua lỗ tâu trình lên để nhà vua
bãi bỏ việc khai mỏ vàng Chiên Đàn và chuyển mỏ bạc Tống Tinh cho thương nhân
lĩnh trưng (17).
Tự Đức đã khen
PTG là người " liêm bình chính cán" (1852), là " thanh liêm, cẩn
thận" (1856).
Ngoài các hoạt
động chính trị, PTG còn có những cống hiến về mặt văn hoá.
Năm 1856, PTG
được cử làm Tổng tài phụ trách công việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông
giám cương mục. Trong 3 năm (1856 - 1859), ông cùng nhóm biên soạn đã hoàn
thành công việc biên tập, nhưng sau đó còn phải " duyệt nghĩ" (1871),
" duyệt kiểm" (1872), " phúc kiểm" (1876), " duyệt
đính" (1878), " kiểm duyệt" (1884), đến năm 1884 mới được khắc
in và ban hành. Đó là bộ quốc sử đồ sộ, viết theo lối " cương mục" ,
chép lịch sử dân tộc từ đời Hùng Vương cho đến năm Chiêu Thống 3 (1789), gồm cả
thảy 52 quyển. Bộ sử biên soạn trên quan điểm Nho giáo kết hợp với tinh thần
dân tộc, với những " lời chua" nhằm chú giải tên đất, tên người và
giám định một số sự kiện, niên đại trên cơ sở khảo chứng công phu, và những
" Lời phê" của Tự Đức. Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng
với Đại Việt sử ký toàn thư (chép sử từ nguồn gốc đến năm 1675) là hai bộ quốc
sử lớn nhất được khắc in toàn bộ trong thời đại phong kiến Việt Nam. Về phương
diện này, chúng ta cần ghi nhận cống hiến to lớn của PTG và với bộ quốc sử này,
ông là một nhà sử học lớn (18).
PTG còn là nhà
thơ, nhà văn mà những tác phẩm còn lại đã được các con ông thu thập và khắc in
thành hai bộ " Lương Khê thi thảo" và " Lương Khê văn thảo"
. Tuy chưa được dịch và nghiên cứu đầy đủ, nhưng một vài tham luận trong hội
thảo khoa học của chúng ta cũng đã cho thấy rõ thêm tâm hồn và tài năng cũng
như tư tưởng và tình cảm thắm thiết của ông đối với quê hương xứ sở, đối với
dân với nước được gởi gắm trong thơ văn của ông.
Ông cùng
Nguyễn Thông có công xây Văn Thánh Miếu và lập Văn Xương Các ở Vĩnh Long sau
khi mất 3 tỉnh miền Đông để qui tụ các sĩ phu về đây. PTG là một trong những
nhà thơ, nhà văn lớn của Nam Kỳ. Như vậy là cho đến trước năm 1862, PTG đã có
nhiều hoạt động chính trị và văn hoá. Tất cả các tham luận và thảo luận trong
hội thảo đều gần như nhất trí biểu thị sự trân trọng và đánh giá cao những cống
hiến tích cực của ông trong thời gian này, nhất là nhân cách và phẩm giá cao
quý của ông.
4. Năm năm
cuối đời (1862 - 1867) là giai đoạn gian truân, đầy uẩn khúc của PTG và cũng là
giai đoạn tập trung nhiều vấn đề tranh luận nhất của cuộc hội thảo.
Những vấn đề
chính được đặt ra là trách nhiệm của PTG trong việc ký hoà ước 1862 nhượng ba
tỉnh miền Đông cho Pháp, trong việc để mất 3 tỉnh miền Tây năm 1867 và cái chết
của ông, mối quan hệ trách nhiệm giữa PTG với vua Tự Đức và triều Nguyễn.
Về tư liệu và
một số sự kiện liên quan cũng được nêu lên để cố gắng tìm ra sự thật lịch sử
bấy lâu nay bị che phủ trong màn sương mù của những tài liệu ghi chép lắt léo
một cách dụng ý, thậm chí cả sự bịa đặt và bóp méo mà chưa hề được thẩm định
một cách khoa học (đã trình bày trong phần 2). Hội thảo lưu ý các nhà khoa học
nên tiếp tục dày công tra cứu, giám định tư liệu để sớm đưa ra ánh sáng những
sự việc bị che đậy nhằm trả lại cho lịch sử những sự thật lịch sử và có đủ cơ
sở khách quan hơn trong việc nhìn nhận và đánh giá PTG một cách công minh.
Cho đến lúc
này, trong chúng ta vẫn còn những khía cạnh bất đồng hay khác biệt, và ai cũng
mong muốn được tiếp tục nghiên cứu và trao đổi. Tuy nhiên, chúng ta cũng rất
vui mừng nhận thấy qua hai ngày hội thảo, chúng ta đã làm sáng tỏ được những
vấn đề đặt ra và đi đến sự nhất trí về cơ bản trong nhận thức và đánh giá PTG
vào 5 năm cuối đời ông.
Hoà ước năm
Nhâm Tuất 1862 gồm 12 điều khoản, trong đó điều cơ bản là triều Nguyễn nhượng
hẳn cho Pháp 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường cùng đảo Poulo Condor (Côn
Đảo) và chịu bồi thường chiến phí 4 triệu đồng bạc trả trong 10 năm, người Pháp
và Y Pha Nho được quyền tự do truyền đạo và buôn bán. Rõ ràng đây là một hiệp
ước xâm phạm nặng nề đến lãnh thổ của đất nước và chủ quyền quốc gia, đi ngược
lại quyền lợi dân tộc và truyền thống dân tộc. Ngay lúc bấy giờ, nhân dân Nam
Kỳ và nhân dân cả nước đã tỏ sự bất bình, chống đối lại hoà ước đó và ngày nay
cũng không một ai có thể biện hộ được. Nhưng vấn đề là phải chăng PTG và Lâm
Duy Thiếp, những người ký hiệp ước, phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc
nhượng đất đó?
Tự Đức muốn đổ
hết trách nhiệm và tội lỗi cho PTG, nhưng tư liệu lấy ngay trong chính sử triều
Nguyễn cũng đủ cho chúng ta khẳng định rằng PTG là người thừa hành và thực hiện
một chủ trương đã được hoạch định của Tự Đức và triều đình, đồng thời PTG cũng
là người đồng tình với chủ trương đó.
Trách nhiệm
của PTG ở đây là trách nhiệm của người thừa hành và tất nhiên với cương vị
Chánh sứ toàn quyền đại thần, ông cũng có phần trách nhiệm trong việc thương
thuyết và thực thi một chủ trương sai lầm của triều đình.
Sau khi hoà
ước được ký kết, đình thần cũng chỉ có thể nhận xét và tâu lên vua :" về
khoản cắt đất bồi ngân, hai viên ấy đã làm, phần nhiều chưa hợp. Nhưng điều ước
mới định, nếu vội sửa đổi ngay, sợ họ còn tức khí" , và đề nghị "
công việc Nam Kỳ nên chuyển uỷ cho Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp đứng
làm" (19).
Trong việc để
mất 3 tỉnh miền Tây năm 1867, trách nhiệm của PTG về nguyên tắc có phần nặng nề
hơn vì với cương vị Vĩnh Long - An Giang - Hà Tiên kinh lược sứ, ông có trách
nhiệm giữ đất và là người được toàn quyền thay mặt nhà vua xử lý mọi việc trong
vùng. Nhưng trên thực tế, chủ trương " cầu hoà" và Hoà ước 1862 mà Tự
Đức đã phê chuẩn năm 1863, đã đặt PTG và nhiệm vụ giữ đất 3 tỉnh miền Tây vào
tình thế cực kỳ khó khăn đến bế tắc.
Về vị trí địa
lý, 3 tỉnh hoàn toàn bị cô lập, bị tách ra khỏi địa bàn cả nước bởi 3 tỉnh miền
Đông đã ở trong tay quân Pháp.
Hơn thế nữa,
trung thành theo Hoà ước 1862 và nhất là sợ người Pháp " nghi ngại" ,
Tự Đức " đem sao lục 12 điều ước cũ, đưa đi treo dán để hiểu bảo cho sĩ
dân đều biết, khiến đều yên ở làm ăn" , rồi còn " xuống dụ cho cho
tỉnh thần ba tỉnh sức khắp các hạt biết, mà các quan phủ huyện một khi trông
thấy, tức thì bắt ngay đem giải, nhà dân có ai chứa chấp cũng bắt tội như kẻ
phạm tội" (20). Tự Đức nhiều lần ra lệnh " hưu binh" , "
giải giáp" , sai PTG dụ Trương Định, giải tán lực lượng nghĩa binh chống
Pháp.
Như vậy là Tự
Đức và triều đình đã tự mình tước bỏ mọi khả năng giữ đất 3 tỉnh miền Tây cũng
như giành lại 3 tỉnh miền Đông.
Năm 1866, quân
Pháp đe doạ chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, Tự Đức và triều đình một mặt "
khiến 3 tỉnh ấy một lòng chống giữ" , mặt khác lái thấy " thế đất
cheo leo, muốn giữ cho không lấn cũng khó" và " xin tư cho quan Kinh
lược không đánh nhau với quân Pháp, tự phải rút lui" (21). Những chủ
trương và giải pháp của triều đình như vậy ắt dẫn đến hậu quả tất nhiên là
không thể nào giữ được 3 tỉnh miền Tây.
Tư liệu lịch
sử của ta cho thấy PTG không phải đầu hàng, nộp thành cho giặc như sự miêu tả
của một số tư liệu Pháp, nhưng việc mất 3 tỉnh miền Tây cũng là hậu quả tai hại
của những chủ trương sai lầm của Tự Đức và triều Nguyễn, trong đó dĩ nhiên có
trách nhiệm bản thân PTG.
Cuối cùng cái
chết của PTG có thể coi là sự kết thúc những năm cuối đời đầy bi kịch của ông
trong bi kịch chung của đất nước dưới triều Nguyễn.
PTG là người
yêu nước, thương dân, nhưng cũng là một tín đồ của Nho giáo với lòng trung quân
sâu nặng. Vào thế kỷ XIX, Nho giáo vẫn còn giữ một số ảnh hưởng tích cực trên
một số phương diện nào đó về mặt đạo đức và cách xử thế, nhưng hệ tư tưởng Nho
giáo thì tỏ ra quá bảo thủ và lỗi thời, không còn khả năng giúp con người nhận
thức, lý giải và giải quyết những vấn đề mới của đất nước, của dân tộc trong
bối cảnh phát triển mới của thời đại.
Trước hoạ xâm
lược của thực dân Pháp đến từ một nước tư bản phương Tây, từ một nền văn minh
công nghiệp với nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân, với lối đánh
chưa từng có trong binh thư phương Đông, vua tôi triều Nguyễn tỏ ra rất bị
động, lúng túng. Trong triều thì người " chủ chiến" , người thì
" chủ hoà" , người thì " lo chống giữ lâu dài" , người thì
" chẳng chiến cũng chẳng hoà" và không ít người chẳng đưa ra được
chính kiến gì. Vua Tự Đức đi từ chống đỡ yếu ớt và đến thất bại, đến " chủ
hoà" thương lượng và nhượng bộ dần đất đai và chủ quyền cho giặc.
Đây là lần đầu
tiên dân tộc ta phải đương đầu với một đối tượng xâm lược mới, trong một bối
cảnh lịch sử mới mà những kinh nghiệm cổ truyền cần được vận dụng trong một
phương thức đấu tranh mới.
"Chủ
chiến" nhưng nếu chỉ biết đánh, không biết dựa vào dân để đánh lâu dài và
kết hợp lo canh tân để tăng cường tiềm lực đất nước thì cũng khó giữ được nước.
"Chủ
hoà" mà chỉ lo thương thuyết, cầu xin giặc, không dám dựa vào dân, không
lo canh tân đất nước thì chỉ dẫn đến thất bại và đầu hàng. Con đường " chủ
hoà" theo cách của Tự Đức và triều Nguyễn là con đường thất bại chủ nghĩa,
đã dẫn đến hậu quả nhượng ba tỉnh miền Đông rồi để mất 3 tỉnh miền Tây của Nam
Kỳ lục tỉnh, và sau đó tiếp tục đưa đất nước đến bại vong.
Với hệ tư
tưởng Nho giáo bảo thủ, triều Nguyễn tự giam mình trong những giáo lý đã chết
cứng của Thánh hiền, quay lưng lại mọi trào lưu tiến hoá trên thế giới, khước
từ mọi đề nghị canh tân đất nước của những trí thức yêu nước cấp tiến.
Nỗi đau lòng
và tính bi kịch của PTG là một mặt ông cùng " chủ hoà" với triều
đình, rất mực trung thành với nhà vua, mặt khác ông lại nặng lòng yêu nước
thương dân. Mâu thuẫn đó đã đẩy ông đến chỗ bế tắc và chỉ còn biết lấy cái chết
để kết thúc cuộc đời và bày tỏ nỗi lòng của mình. Có lẽ tác giả Đại Nam
chính biên liệt truyện phần nào đã thấu hiểu lòng ông khi nhận xét :"
Thanh Giản là người ngay thực, giữ lòng liêm khiết, làm quan cần mẫn, thận
trọng, gặp việc dám nói. Trải thờ 3 triều, vẫn được yêu quý. Đến khi mang cờ
tiết đi Nam,
thế không làm sao được, biết tội tự uống thuốc độc chết. Thực là ở vào chỗ
người ta khó xử. Xem tờ sớ để lại thì lòng trung ái chứa chan ở ngoài lời
nói" (22). Đúng như nhiều tác giả đã nhìn nhận, cái chết của PTG là một bi
kịch.
Trong hội
thảo, chúng ta đã chỉ ra trách nhiệm của PTG trong trách nhiệm chủ yếu thuộc về
Tự Đức và triều Nguyễn, nhưng tất cả chúng ta đều nhất trí không nên và không
thể gán cho ông cái tội " bán nước" hay " phản bội tổ quốc"
. Đó là sự qui kết khá nặng nề, không có căn cứ, vừa không đúng với hành động
và động cơ của ông, vừa trái với tấm lòng ngưỡng mộ và kính mến mà xưa nay nhân
dân quê hương vẫn giành cho ông. Với những kết quả như trên, chúng ta có thể
kết luận cuộc hội thảo khoa học của chúng ta đã thành công tốt đẹp. Thành công
tốt đẹp không có nghĩa là chúng ta đã giải quyết xong mọi vấn đề liên quan đến
PTG và nhất trí với nhau về mọi khía cạnh trong nhìn nhận và đánh giá PTG. Sử
học là một khoa học mà nhận thức về đối tượng của nó là một quá trình tiến dần
đến chân lý, nhưng không thể một lúc nắm bắt toàn bộ chân lý. Cuộc hội thảo của
chúng ta đánh dấu một bước mới trong nhận thức và đánh giá về PTG, nhưng đồng
thời cũng mở ra nhiều vấn đề mới cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận.
Qua cuộc hội
thảo này, chúng ta thấy rõ những mặt hạn chế và bế tắc của PTG, nhưng đồng thời
chúng ta cũng trân trọng ghi nhận những cống hiến tích cực của ông trong toàn
bộ cuộc đời và sự nghiệp, đánh giá cao nhân cách và phẩm chất cao quý của ông.
Chúng tôi hy
vọng kết quả của cuộc hội thảo sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn cuộc đời và sự
nghiệp một con người mà từ khi nhắm mắt cho đến nay luôn luôn đứng trước những
sự đánh giá mâu thuẫn gay gắt trong khen và chê, trong bình luận công và tội.
Chúng ta còn tiếp tục nghiên cứu và thảo luận, nhưng những gì đạt được trong
hội thảo nói lên lòng mong mỏi của chúng ta muốn trả về cho PTG những giá trị
và những hạn chế đích thực của ông, muốn có sự nhìn nhận khách quan, công minh
và thoả đáng. Những kết quả và thái độ của hội thảo chắc sẽ giải toả phần nào
những mặc cảm bấy lâu đè nặng lên tâm tư của nhiều người, kể cả con cháu PTG và
con cháu Trương Định, những người " chủ chiến" đã kiên quyết chiến
đấu chống Pháp xâm lược và đã hy sinh vì tổ quốc, vì nhân dân.
Kết quả cuộc
hội thảo cũng là cơ sở khoa học để Tỉnh uỷ và Uỷ ban Nhân dân hai tỉnh Vĩnh
Long, Bến Tre tham khảo trong biên soạn các sách về danh nhân quê hương, về
giáo dục truyền thống, về xử lý những di tích liên quan đến PTG. Chúng tôi trân
trọng đề nghị bảo tồn và tôn tạo toàn bộ các di tích về PTG, nhất là ngôi mộ ở
Bến Tre, Văn Thánh Miếu và Văn Xương Các ở Vĩnh Long nhằm ghi nhớ và phát huy
những phẩm giá, nhân cách cao quý của một người trí thức nặng lòng yêu nước
thương dân nhưng cuối đời đã lâm vào cảnh bế tắc, bi kịch trong một bối cảnh
gian truân và đau thương của đất nước./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét