CÓ MỘT NGƯỜI THƯƠNG BINH NHƯ THẾ
NGUYÊN
THANH
Anh, một người lính xuất thân từ một vùng quê nghèo miền
Trung gió lào, cát trắng. Từ giã tuổi học trò khi đang học dở Lớp chín, trốn
cha và nhờ bạn khám tuyển thay, Anh xung phong nhập ngũ khi vừa tròn 16 tuổi,
ra đi mang theo nhiệt huyết của lớp trẻ Việt Nam trong những năm đánh Mỹ:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng
phơi phới dậy tương lai
Anh từng là người lính trinh sát rồi đặc
công dũng cảm, đầy mưu trí có mặt trên các chiến trường Nam Lào, Quảng Trị Thừa
Thiên Huế trong những năm chống Mỹ cam go, ác liệt nhất từ năm 1964 - 1971. Với
trí nhớ đặc biệt và sự thông minh trời phú cùng với tính gan góc của người dân
xứ Nghệ, Anh đã nhanh chóng trưởng thành trong chiến trận, có vai trò quyết
định khi chỉ huy nhiều trận đánh trên chiến trường Trị Thiên. Cũng như bao người lính cùng thời, Anh đã nếm
trải những gian khổ, hiểm nguy nơi chiến
trường khốc liệt, từng vào ra sinh tử chiến đấu cùng với đồng đội .
Anh, một người lính đã từng viết Di Chúc
trong những ngày cam go ác liệt nhất, khi vừa tròn hai mươi tuổi để gửi Cha mình
như một lời hứa danh dự kế thừa truyền thống gia đình, dòng họ: Sống hết mình vì Tổ quốc, quê hương. Anh
đã sống và chiến đấu đúng như lý tưởng của mình, những trận địa trinh sát gay
go nhất Anh đều có mặt, những trận đánh ác liệt nhất Anh đều tham gia trong vai
trò vừa chỉ huy, vừa chiến đấu. Hòn tên mũi đạn chẳng chừa ai. Sau bảy năm
chiến đấu, năm 1971, Anh bị thương nặng trong một trận chiến đấu ở chiến trường
Đường 9 - Nam Lào. Một viên đạn của kẻ thù đã chui sâu vào lá phổi của Anh. Do
bị mất máu nhiều và vết thương quá nặng, tưởng chừng không qua khỏi, anh đã nói
lời trăng trối cùng đồng đội, nói lời chào từ biệt mọi người. Với tia hi vọng hết sức mong manh, đồng đội
đã chuyển Anh về tuyến sau cứu chữa. Sau nhiều tháng vật lộn với tử thần, Anh
đã được hồi sinh nhờ sự tận tâm của các y, bác sỹ quân y, và có lẽ cũng nhờ sự che chở của Tổ tiên linh thiêng
hướng tới người con ưu tú của dòng họ Nguyễn Đình. Anh được chuyển về Quân y
viện 108 với một cơ thể suy nhược, gầy gò, nặng chỉ còn 36 kg, và không thể tự
phục vụ được mình, cùng với viên đạn nằm vĩnh viễn trong cơ thể. Tỷ lệ thương
tật của Anh lên tới 63% ( sau này cộng thêm 35%
nhiễm chất độc da cam ). Tính ra, Anh đã để lại nơi chiến trường phần
lớn sức khỏe của mình. Anh trở thành một thương binh! Hồi đó, Anh có thể được
giải ngũ trở về quê hương như bao nhiêu người thương binh khác. Thế nhưng, Anh
vẫn muốn được tiếp tục theo đuổi con đường binh nghiệp mà Anh đã lựa chọn. Phải
chăng, đây là số phận của Anh? Anh đã
chọn binh nghiệp hay binh nghiệp lựa chọn Anh - một con người TRÍ DŨNG SONG
TOÀN.
Rời chiến trường, Anh được điều về công
tác ở Cục Chính sách TCCT. Cố quên đi
những nỗi đau đớn của thương tật,
bằng ý chí, nghị lực và sức trẻ , anh đã
miệt mài làm việc và hối hả học tập như để bù đắp lại những năm tháng chiến đấu
ở chiến trường đã phải gác bút nghiên. Khi không còn tuổi học sinh nữa, Anh tham gia
học bổ túc văn hóa. Mặc dù nghỉ học đã
ngót mười năm, nhưng khi đi học lại bổ túc chương trình Cấp ba, Anh đã
đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi Toán BTVH của Thủ đô Hà Nội. Thật đáng nể cho trí tuệ và ý chí của
Anh. Sau đó, Anh đã bền chí học hành có
hai tấm bằng tốt nghiệp đại học ở Hà Nội
Trên
chặng đường công tác của mình, Anh đã trải qua nhiều cương vị khác nhau: Là Cục
trưởng Cục Chính sách TCCT ; là Phó hiệu trưởng về Chính trị Trường Sĩ quan Lục
quân 1; Là Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Quốc phòng… Ở cương vị nào, Anh cũng
cống hiến hết mình và để lại dấu ấn đặc
biệt cùng với sự tin tưởng của cấp trên và lòng kính trọng, khâm phục của anh
em, đồng đội.
Về tài
năng, đức độ và cống hiến của Anh trong chặng đường Binh nghiệp thì đã được Đảng,
Nhà nước ghi nhận bằng cấp bậc quân hàm Trung tướng và các tấm huân chương
Chiến công, Quân công cao quý. Một sự đánh giá công lao xứng đáng và một vinh
dự lớn lao không chỉ cho cuộc đời Anh mà còn là niềm kiêu hãnh, tự hào cho Gia
đình, Dòng tộc, Quê hương. Điều tôi muốn nói tới trong bài viết này là sự trọn
nghĩa, vẹn tình của Anh - một người thương binh đối với đồng chí, đồng đội và
quê hương.
Là
một người từng trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường , từng vào ra sinh
tử nơi trận mạc, Anh hiểu những mất mát đau thương cũng như những tâm tư,
nguyện vọng của người lính. Do vậy, Anh đã tham mưu và đề đạt nên những chính
sách thích hợp và thỏa đáng cho những người có công với cách mạng. Trong đó,
không thể không nhắc đến việc phong tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng. Một việc làm hết sức cao cả, có ý nghĩa
nhân văn, thể hiện được đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, sống trọn nghĩa thủy
chung của dân tộc ta, góp phần xoa dịu nỗi đau cho các Mẹ và hương hồn các liệt
sĩ.
Chiến tranh đã qua đi, nhưng trong Anh luôn khắc khoải nỗi đau đớn, xót thương
những người đồng đội vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Anh đã gửi lòng mình vào
những lời thơ như xé ruột trong những trang thơ viết về đồng đội:
Đất
nước ta bao năm ròng binh lửa
“
Ai đếm nổi khăn tang
Ai
đong màu chiến trường”
Ai
tính hết số làng quê chìm dưới đạn bom
Chiến
thắng- hi sinh, quyện hòa cùng lịch sử
Bao
mẹ già đau đáu ngóng tin con
Người vợ trẻ trông mong chồng mòn mỏi
Biết bao người ra đi
Xiết bao người chờ đợi.
Chiến thắng rồi...
Ngày đoàn tụ lùi xa!
( Trích
“Đất nước ta”- In trong tập: Một chữ tình).
Đồng đội có thấu cho chăng, Anh đã giải tỏa
nỗi day dứt, nhớ thương của mình vào hồn cốt từng bài thơ như chuyển lời tri âm
tới hương linh các anh hùng, liệt sĩ.
Khi đã nghỉ hưu, Anh vẫn không
cho phép mình được nghỉ ngơi, Anh lại miệt mài “ cày xới trên cánh đồng chữ
nghĩa” để sáng tác văn chương. Chỉ trong mấy năm mà Anh đã cho ra đời hai tập
thơ với hàng trăm bài thơ để trải lòng mình với anh em, bè bạn. Anh đã ôn lại
những năm tháng trong cuộc đời binh nghiệp bằng tập hồi ký : “
Những nẻo đường thời gian ” như
những lời ghi nhớ công lao và tri ân đồng đội. Để quê hương
không lãng quên những người có đóng góp nhiều cho Cách mạng, Anh đã tẩn
mẩn sưu tầm và viết về “ Những tướng lĩnh, anh hùng quê hương Nghi
Lộc - Nghệ An”.
Anh
còn thể hiện những quan điểm, những
chính kiến sâu sắc của mình về nhân
sinh, thế thái qua những bài viết trong tập: “ Suy ngẫm Luận bàn”.
Không chỉ dừng lại ở đó, Anh còn tham gia thẩm bình, đánh giá các tác phẩm văn
chương một cách hết sức xuất sắc. Thật đáng kính nể cho năng lực và cường độ
làm việc của một thương binh như Anh!
Chiến tranh đã lùi xa, Anh đã từ giã cuộc đời
binh nghiệp trở về nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Nhưng di chứng của chiến tranh
vẫn còn hằn sâu trên cơ thể Anh. Đó là nỗi đau nhức nhối do vết thương hành hạ
mỗi khi trái gió, trở trời, khiến Anh nhiều đêm thao thức không ngủ:
Em
hỏi, đêm qua ngủ được chăng
Anh rằng, vẫn vậy
suốt bao năm
Mỗi bận trở trời y chang thế
Vết thương lại
nhức- thức tròn canh !
Thỉnh
thoảng trở trời , chẳng có sao
Đã quen nhức nhối vết thương đau
Nhớ
bao đứa bạn cùng trang lứa
Chẳng
có ngày về- để thức đâu !
(
Đêm không ngủ)
Anh hình như đã quên đi tỷ lệ thương
tật và tỷ lệ mắc chất độc da cam trong cơ thể mình để vui sống và tiếp tục làm
việc trong quãng đời còn lại. Trong tâm niệm của Anh: So với đồng đội mình còn
may mắn hơn nhiều. Như Anh đã thổ lộ
trong một bài thơ : « Thuở cả nước hành quân ra trận- Mất
mát hi sinh đâu chỉ có riêng mình ». Nghĩ sao làm vậy. Anh đã sống với cái tâm coi trọng ân nghĩa bằng tất cả sự thủy
chung với quá khứ, với đồng đội. Điều đó được thể hiện bằng hành động đáng trân
trọng ở Anh là những chuyến viếng thăm thường xuyên hàng năm của Anh tới các Nghĩa
trang liệt sĩ, tới những nơi mà Anh đã từng tham gia chiến đấu. Anh muốn hàng
năm được tới viếng thăm đồng đội như một sự trả nghĩa cho đời và tri ân đồng
đội. Giờ đây, đã bước qua tuổi “ cổ lai hi”,
nhưng trong những ngày hè nắng như đổ lửa, gió lào hầm hập như thiêu
đốt, không quản ngại đường sá xa xôi, Anh
vẫn tiếp tục rong ruổi vào miền Trung, tới nghĩa trang Việt Lào, nghĩa trang
Trường Sơn hay đi thăm lại chiến trường Thừa Thiên. Người người đã nghẹn lòng khi nghe đọc những lời
văn khấn anh linh đồng đội từ tâm mình viết ra :
Mấy mươi năm sinh tử biệt ly
Đôi ngả âm dương cách trở
Vĩnh hằng đồng đội
thấu chăng
Ân tình khôn bề giải
tỏ
Xin cúi mình tưởng
nhớ tri ân
Đồng đội một thời
binh lửa
Hỡi vong hồn liệt sĩ
anh linh
Tình nặng nghĩa sâu
ngàn sau còn đó
Kính
cẩn dâng hương.
(
Trích : « Văn tế các liệt sĩ ....»
Động lực nào đã tạo nên sức mạnh như vậy cho một người thương binh? Phải
chăng, đó là ý chí, là bản lĩnh của người lính chiến xông pha trên chiến trường
năm xưa cộng với tình người mang nặng ân nghĩa với cuộc đời. Cho nên, Anh muốn sống hết mình để trả nghĩa cho Đời.
Để xứng đáng với sự hi sinh của lớp lớp đồng đội đã đổ xương máu cho Độc lập
của Tổ Quốc hôm nay.
Anh rời xa quê khi chỉ mới tròn 16 tuổi, là
một thương binh đã có nhiều cống hiến và đóng góp cho đất nước trong cuộc chiến
tranh chống Mỹ cứu nước… Ngót 60 năm xa
quê, nhưng lòng Anh vẫn đau đáu một nỗi niềm thương nhớ, day dứt khi nghĩ về
vùng quê nghèo khó của mình. Anh vẫn băn khoăn mình chưa đóng góp được gì cho
quê hương. Anh thương những đứa trẻ vùng thôn quê không đủ sách vở tới trường
nhưng vẫn ráng vươn lên học hành chăm chỉ. Trong mỗi chuyến trở về thăm quê,
nhìn lại mái trường xưa, Anh như thấy lại tuổi thơ của mình. Để khơi dậy lòng
hiếu học cho các cháu học sinh, Anh đã dùng 1 tỷ đồng tiền tiết kiệm của mình
để lập Quỹ khuyến học mang tên Anh, gửi cho trường Tiểu học xã nhà. Nghĩa tình
sâu nặng của Anh dành cho quê hương thật đáng trân trọng !
Người Thương binh đó không những tài năng và nghị lực mà anh còn là một
con người LỊCH LÃM, HÀO HOA, VĂN VÕ SONG TOÀN. Anh, một người lính- một vị
Tướng phong trần, lãng tử lại giỏi văn thơ, đàm luận thì khúc triết, sâu sắc,
nói năng thấu tình, đạt lý. Ai đã tiếp xúc với Anh thì khó có thể không ấn
tượng về Anh. Hơn nữa, ở Anh lại còn có cách sống quan tâm chu đáo tới mọi
người, sống vô tư, hết mình, chí tình chí nghĩa, giàu lòng trắc ẩn.
Tôi thực sự khâm phục Anh - Một thương
binh giàu ý chí và nghị lực, sống xứng đáng với danh hiệu Anh bộ đội Cụ Hồ,
xứng đáng với gia đình, dòng họ giàu truyền thống yêu nước từ bao đời nay.
Người thương binh đó là : Trung tướng Nguyễn
Mạnh Đẩu, người Nghi Lộc quê tôi.
Nhân Ngày 27/7, xin chúc Anh mạnh khỏe,
hạnh phúc !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét