Menu ngang

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2022

Những góc nhìn trên từng bài viết về cuốn sách THẲM SÂU MIỀN KÝ ỨC. 
Tôi xin chàn thành cảm ơn các tác giả đã dành cho tôi sự đồng cảm ! 
---------------------------------------------------------------------------------------
THẲM SÂU MIỀN KÝ ỨC: NHỮNG TRANG SỬ CHIẾN

TRẬN THẤM ĐẪM HỒN QUÊ, ẤM TÌNH ĐỒNG ĐỘI

 
                                                                               Nhà văn Vũ Ngọc Tiến 


 Thật tình cờ tôi nhận được bản thảo “Thẳm sâu miền ký ức” của Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu khi trên VTV1 vừa phát sóng bộ phim “550 năm Nghi Lộc - đất và người”. Cái miền quê ven biển xứ Nghệ, gần cửa sông Lam ấy được thành lập và định danh từ thời vua Lê Thánh Tông trên bản đồ cương thổ nước Đại Việt với tên gọi ban đầu là huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang cũng là quê hương của tác giả. Trải bao thăng trầm của lịch sử, nơi đó đã sản sinh ra nhiều bậc anh hùng, văn quan võ tướng hiển hách dưới các triều vua và đến thời hiện đại là một trong bốn cái nôi của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh mở đầu cho cuộc trường chinh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp: “Đất nghèo nuôi những anh hùng/ Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên/ Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.” (thơ Nguyễn Đình Thi). Có lẽ vì thế nên trong hành trang suốt cuộc đời binh nghiệp của tác giả Nguyễn Mạnh Đẩu luôn thường trực niềm tự hào, tình yêu sâu nặng với quê hương, gia đình, dòng tộc. Và đó chính là cội nguồn sức mạnh để ông vượt qua mọi gian nguy thử thách trên những chiến trường ác liệt. Từ một cậu bé dáng dấp thư sinh non nớt từng giấu tuổi để nhập ngũ trở thành vị tướng trong đội quân cách mạng, tận hiến với dân với nước để lúc về già ở tuổi ngoài 70, ông thanh thản ngồi viết lại những dòng hồi ức chân thực, giàu cảm xúc khiến tôi bồi hồi nhập hồn vào trang sách, cùng tác giả thăm lại miền quê Đại Xá huyện Nghi Lộc hay các nẻo đường chiến trận năm xưa. Cuốn “Thẳm sâu miền ký ức” được tác giả chia làm chín phần, trong đó ba phần đầu ông dành những tình cảm ấm áp, sâu nặng cho quê hương, gia đình và thời thơ ấu của mình. Tiếp theo đó là năm phần kể chuyện về những hồi ức cá nhân từ ngày đầu trốn nhà nhập ngũ, hành quân vào Nam rồi qua các chiến trường Lào, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế và chiến dịch Đường 9- Nam Lào vô cùng ác liệt. Cuối cùng ở phần thứ chín, tác giả dành nhiều trang xúc động kể lại lần bị thương nặng chết đi sống lại mấy lần trong một trận đánh ở chiến dịch Đường 9- Nam Lào năm 1971. Hành trình gian nan vô cùng đau đớn của ông khi phải nằm trên cáng thương của giao liên khiêng bộ qua nhiều chặng ra Bắc để chữa trị khiến người đọc đôi lúc phải nghẹn ngào rơi lệ. Đó cũng là bước ngoặt lớn trong đời binh nghiệp của ông từ người lính trận mạc chuyển sang làm cán bộ chính sách ở Bộ Quốc phòng. Có lẽ với bản tính khiêm nhường, tác giả không kể tiếp quá trình công tác và học tập, rèn luyện phấn đấu suốt nhiều năm của mình, từ anh trung úy vinh thăng lên cấp tướng. Tôi đã đọc liền mạch hết mấy trăm trang hồi ức của Nguyễn Mạnh Đẩu với niềm say mê hứng khởi không chỉ vì nội dung phong phú, thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước mà còn vì cách kể chuyện hồn nhiên, chân thực, ấm áp tình đồng đội của người lính dạn dày trận mạc. Nếu ở ba phần đầu của cuốn sách, bằng tình yêu quê hương và vốn kiến thức sâu rộng, tác giả giúp cho người đọc hiểu thêm lịch sử một vùng đất Nghi Lộc xứ Nghệ, lai lịch phả hệ một dòng họ Nguyễn làng Đại Xá thì ở năm phần tiếp theo là cả một pho sử chiến tranh mà ông là người trong cuộc kể lại chân thực, sinh động và chi tiết đến từng trận đánh trên các chiến trường Lào, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế... Thật lạ vì trong cuốn “Thẳm sâu miền ký ức” có rất nhiều sự kiện, tinh tiết quan trọng, liên quan đến hàng trăm nhân vật mà trong điều kiện thời chiến không thể ghi chép kỹ nhưng bằng trí nhớ tuyệt vời, tác giả đã kể lại rất tỉ mỉ, sinh động như vừa xảy ra hôm qua vậy. Cái hay, sức hấp dẫn, tính chân thực của tác phẩm còn ở cách kể chuyện phi tuyến tính. Ở mỗi sự kiện và nhân vật gây xúc động trong tâm hồn người đọc, tác giả thường dừng lại, nhẩn nha kể chuyện về cuộc gặp gỡ với nhân vật ở thời điểm nhiều năm sau đó, đôi khi còn phác họa vài nét gia cảnh, việc làm, tính cách hoặc số phận của họ sau chiến tranh. Một chút đổi mới bút pháp trong văn trần thuật như vậy đã giúp cho các câu chuyện trong cuốn sách không bị căng cứng, tăng sức thuyết phục và hấp lực với người đọc. Tôi đọc phần ba “Vườn ươm thuở thiếu thời” trong cuốn hồi ức này cứ nhớ mãi chi tiết cậu bé Nguyễn Mạnh Đẩu cùng hai người bạn rủ nhau giấu cha mẹ ra thị xã Vinh thi tuyển vào trường Trung cấp Mỹ thuật công nghiệp nhưng không đỗ. Nếu đất nước yên bình, không có chiến tranh rất biết đâu nền hội họa nước mình có thêm một họa sĩ? Nhiều người trong thế hệ chúng tôi cũng giống như tác giả, đều có một tuổi thơ mơ mộng, đầy hoài bão. Nhưng khi tổ quốc cần họ gác lại tất cả, xếp bút nghiên lên đường ra trận. Không ít người trong số họ đã ngã xuống, giang dở ước mơ tuổi hoa niên để có ngày 30/4/1975 lịch sử. Thật khó hình dung con người sôi nổi, lãng mạn ấy năm Mậu Thân (1968) đã từng viết di chúc lúc tròn 20 tuổi, đủ thấy chiến trường Thừa Thiên- Huế năm đó khốc liệt đến nhường nào! Đã là chiến tranh tất có thắng có bại. Không ít người viết hồi ức thường hay nói nhiều đến thắng lợi và né tránh thất bại, vô tình hoặc cố ý bỏ qua sai lầm khuyết điểm của bản thân mình. Với tác giả Nguyễn Mạnh Đẩu thì không như vậy. Ông trung thực kể lại tất cả, coi đó là bài học xương máu ở chiến trường. Những chi tiết kể về thất bại trong loạt trận đánh ở Ba Đu, Tà Bạt, điểm cao 817 Tà Tách là thí dụ điển hình: Đại đội 20 của tác giả có 85 người thì 30 người hy sinh, 25 người bị thương nên khi về hậu cứ họp rút kinh nghiệm đã xảy ra tranh cãi gay gắt giữa chính trị viên Đẩu với đại đội phó Chúng dẫn đến đánh nhau ngay giữa cuộc họp. Trung thành với sự thật lịch sử luôn là tiêu chí hàng đầu của người cầm bút. Tôi trân trọng và cảm phục thái độ sống và viết ấy của Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu. Không chỉ trong cuốn hồi ức này, tôi đã đọc hàng ngàn trang sách của ông xuất bản trong khoảng mười năm gần đây đều thấy rõ điều này. Và đó chính là nhân tố quan trọng làm nên giá trị của cuốn “Thẳm sâu miền ký ức”. Chiến tranh đã lùi vào quá vãng hơn 40 năm. Lớp trẻ hôm nay sống trong hòa bình, nhất là các bạn trẻ trong lực lượng vũ trang rất cần nhiều thông tin về các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, chống thế lực bành trướng phương Bắc để biết và kế thừa truyền thống oanh liệt của cha ông, dấn thân chiến đấu cho nền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà. Thành công của cuốn “Thẳm sâu miền ký ức” với những giá trị lịch sử và nhân văn của nó xứng đáng có chỗ đứng sang trọng, lâu dài trên kệ sách của mỗi nhà, các thư viện trong và ngoài quân đội. Mong là như thế!...
 Tp Hồ Chí Minh, mùa covid 2021 
----------------------------------

 NGHĨA NẶNG ƠN SÂU TRONG “ THẲM SÂU MIỀN KÝ ỨC”


                                                                                  Nhà thơ Hải Đường


 Có những trang hồi ký đọc lên thấy mình, thấy cả thế hệ, cả một giai đoạn lịch sử trong đó. Đương nhiên, rất cần sự tài hoa của “người dẫn chuyện”. Người dẫn hôm nay là một Trung tướng. Nhưng hình như ông rất ngại khi nói đến vị thế của mình. Có chỗ liên quan những vấn đề lịch sử, ông buộc phải nhắc đến cá nhân mình, nhưng lướt qua rất nhanh. Và cuốn sách 300 trang này ông cũng không xác định đây là cuốn hồi ký, dừng lại ở phần người lính thương binh được điều động về làm cán bộ Cục Chính sách, Tổng cục chính trị, với cấp hàm… trung úy. Tác giả Thẳm sâu miền ký ức (*) là Nguyễn Mạnh Đẩu. Về thể loại, không hẳn một cuốn hồi ký, hồi tưởng, hay hồi ức. Cốt truyện, mạch truyện, hành văn không khác mấy so với một cuốn tiểu thuyết. Nhân vật (tôi và đồng đội tôi) cũng có da có thịt, rõ tính cách, hình hài. Những mâu thuẫn, xung đột, bi kịch, cao trào nhiều đoạn được đẩy tới khiến người đọc hồi hộp, lo âu, thương cảm, ứa nước mắt. Thế đích thị là cấu trúc, văn phong tiểu thuyết. Nhưng chúng ta đành chấp nhận có sự giao thoa thể loại và xác định đó là thể ký, một cuốn sách phi hư cấu, lấy sự thật làm nền tảng để kể về cuộc đời, số phận của một người lính trận từng nhiều lần cận kề cái chết trong chiến tranh, từng viết di chúc gửi cha mình khi anh tròn 20 tuổi đời, bốn tuổi quân. Sách gồm chín phần, với hai mảng chủ đạo: quê hương, gia đình; cuộc chiến đấu trên các chiến trường ác liệt, từ trận đầu thử lửa ở Lào, đến Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đường 9-Nam Lào. Có thể nói đó là những mặt trận mặt ác liệt, trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất. Có những câu chuyện bi tráng tôi đã nghe, thậm chí đã học từ những năm còn là cậu học trò trên ghế nhà trường, nay được đọc từ lời kể của Nguyễn Mạnh Đẩu, về chính bản thân anh. Xin điểm qua: trốn cha đi bộ đội, viết đơn tình nguyện nhập ngũ khi mới 16 tuổi; cấp trên tuyên bố kết nạp Đảng ngay tại chiến hào sạm sầm khói lửa, sống chết trong gang tấc; lại chính là người cán bộ cấp phân đội ấy ấy có lần dám “cãi” cả cấp trên để bảo đảm an toàn, chắc thắng; rồi có lần “tao ngộ chiến” không chỉ cách địch 30 mét mà trận ấy khi đi tiềm nhập trong đêm tối chỉ cách tên lính địch mấy gang tay; chứng kiến sự hi sinh anh dũng, ôm xác đồng đội trong vòng tay; bị mảnh đạn xuyên thủng phổi, mũi, miệng ộc máu vẫn cố sức dặn lại đồng đội: “xốc lại đội hình, bằng mọi giá phải dứt điểm sớm, chập chờn là chết cả!”. Lại có cả chuyện buồn, cây bút chân thực của người lính đặc công đã không né tránh khi đơn vị có người không chịu nổi gian khổ đã ra chiêu hồi, tiếng loa ọt ẹt trên trực thăng kêu gọi anh em ra… hàng. Nhà văn Nam Cao tâm sự về nghề “sống đã rồi hãy viết”. Vốn sống chiến trường như những tảng đất còn sém lửa khói được Nguyễn Mạnh Đẩu vật lên trang giấy. Những tảng đất lấy từ Đông Trường Sơn, Tây Trường Sơn, từ đất bạn Lào, từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế; những địa danh ghi dấu bao chiến công đã đi vào thơ vào nhạc: Đường 9- Khe Sanh, Đông Hà, Ái Tử, Đầu Mầu, suối La La, sông Ba Lòng… Những tảng đất lấy từ những đêm trinh sát của người lính đặc công, vừa đi vừa xóa dấu vết. Có anh lính “ngược đời” sau khi trinh sát xong lúc quay ra đã nằm ngửa, đưa hai chân ra trước mà nhích dần. Ai hay đó chính là bài học ngược “đuôi xuôi – đầu lọt”, bài học được một người lính thông minh, gan dạ đúc kết. Những tảng đất bị rang bỏng thấm máu đồng đội. Trong một chiến đấu ác liệt, đồng chí chính trị viên tiểu đoàn đã ôm lấy hai vai người lính dũng cảm: “Còn mấy ngày nữa mới tổ chức lễ kết nạp, nhưng hôm nay với tư cách Bí thư Đảng ủy tiểu đoàn, tôi chính thức tuyên bố, từ giờ phút này, đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu trở thành đảng viên!” (tr 172). Còn rất nhiều những trang viết sống động như thế, cái sống động của thời khắc sinh tử, một mệnh lệnh ngắn, một cái khoát tay, một ánh mắt nhìn đều quyết định đến thắng lợi hay thất bại của trận đánh, đến sinh mạng của hàng trăm con người. Tác giả viết: “Một quả pháo nổ ngay cạnh hầm tôi, phía trước hầm chỉ huy. Chợt nghe tiếng kêu từ phía trước hầm chỉ huy, tôi nhảy ra khỏi hầm, giữa mịt mù khói đạn cay sè, khét lẹt. Tới cửa hầm, tôi thấy Thiên nằm sõng soài, đầu vỡ, máu lênh láng. Lao vào trong hầm tôi thấy Trần đã gục xuống tấm bản đồ. Cạnh đó, anh Lan, anh Cảnh, anh Đào đang lả đi vì bị sức ép, bị ngạt”, (tr188). Rồi đến lượt chính trị viên đại đội 20 đặc công Nguyễn Mạnh Đẩu bị thương nặng, không một ai nghĩ anh có thể qua khỏi. Trong lúc chỉ huy đơn vị tấn công vào hai lô cốt gần đầu cầu, một loạt đạn tiểu liên AR-15 của địch nhằm vào anh.Viên đạn găm vào phổi làm thủng phế quản. Thế rồi đồng đội kịp thời cầm máu, băng bó và đưa anh về tuyến sau, cáng bộ 10 ngày liền, qua 10 trạm giao liên. Không hiểu sức mạnh nào đã giúp anh vượt qua cái chết? Chiến tranh là thế. Dữ dội. Gấp gáp. Căng thẳng. Thiếu gạo, thiếu muối, thiếu nước. Nhưng không thiếu tình đồng đội. Không thiếu những phút giây thư thái, có phần lãng mạn của những người lính mới trên dưới 20 tuổi, chưa một lần cầm tay người con gái, “lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai”. Trong Thẳm sâu miền ký ức có những trang viết nhẹ nhõm, trong sáng, đậm dấu ấn của những chàng lính trẻ măng tơ. Nhiều đoạn, tác giả tả và kể khá sinh động về phong cảnh Trường Sơn, bến nước, bờ lau, đêm trăng, mái lán, câu hò, những bồi hồi nhung nhớ, những lá thư, những bài thơ tình vụng dại. Đây là khung cảnh Trường Sơn: “Mùa khô trời nắng chói chang. Đi giữa rừng khộc trụi lá, cành trơ xác xơ, gầy guộc. Những chiếc lá khộc khô giòn to như những chiếc bánh đa nhỏ, bước lên gãy vỡ vụn. Cả ngày đi có khi không tìm nổi một chỗ nước uống. Mùa mưa thì mưa xối xả suốt ngày đêm. Cây cối tốt tươi. Lính ta thỏa sức hái măng trên cây và đào măng củ… Có đêm hành quân trải bạt ngủ bên suối cạn. Đang đêm trời đổ mưa to, lũ tràn về, không kịp chạy dễ bị nước cuốn trôi. Mùa mưa đầy nhựa sống...” (tr130). Có bao câu chuyện bi tráng trên đường Trường Sơn? Bao nhiêu hi sinh và may mắn? Có một chi tiết về chiếc giường của bà mẹ Dương Thủy, bên sông Kiến Giang, Quảng Bình nghe như huyền thoại. Trên đường vào Nam, ra Bắc bao nhiêu người đã nghỉ lại đây? Trên chiếc giường gỗ đơn sơ ấy có ba người lính được mẹ nâng giấc, cùng ngủ trên chiếc giường ấy sau này đã trở thành tướng lĩnh. Đó là Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu – Thứ trưởng Bộ quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu – Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật và Trung tướng- Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu. Ai đó đã nói rằng, không có bảo tàng nào lưu giữ được hết thảy, ngoại trừ trí dân, lòng dân. Người dân ở các vùng đất bom cày đạn xới, nơi cửa ngõ chiến trường ghi sâu trong lòng biết bao câu chuyện cảm động, bao nhiêu bí mật của chiến tranh. Xuyên suốt câu chuyện trải dài 45 năm trong quân ngũ đọng lại ở hai chữ nghĩa tình, ở bài học làm người. Ở chiến trường và sau này khi đã có danh phận Nguyễn Mạnh Đẩu khôn nguôi nhớ về các bậc sinh thành. Người mẹ tảo tần quê làng Đại Xá, Nghi Hợp, Nghi Lộc, Nghệ An đã mất khi mới ngoài 40 tuổi vì nghèo khó, bệnh tật. Khi Đẩu đi bộ đội mẹ thương lắm, nuốt nước mắt vào lòng, đưa con 7 đồng bạc trong số 12 đồng mới bán trái cây trong vườn. Người cha vốn là chiến sĩ Điện Biên Phủ. Theo Giáo sư Nguyễn Đình Chú, một người trong họ, thì ông là người kết hợp hài hòa giữa tư đức và công đức. Ông thuộc nhiều danh ngôn truyền thế của Đạo Nho. Nhưng điều ông dặn đã thấm vào người con trưởng lúc nào không hay: “Phụ tử, tử hiếu” (Cha thì phải hiền từ. Con thì phải hiếu thảo); “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn thì chớ làm với người khác)…Đó là những bài học vỡ lòng về làm người, làm một người lính cho ra người lính. Nghĩa tình ấm áp, nghĩa tình trăn trở qua từng trang viết. Mỗi lần có dịp đi đến đâu, Nguyễn Mạnh Đẩu bao giờ cũng dành thời gian ghé thăm đồng đội cũ. Đồng đội đã hi sinh thì thăm con cháu họ. Cuối năm 1971 sau khi vết hương lành, sức khỏe hồi phục, anh mượn chiếc xe đạp cà tàng rong ruổi qua mấy huyện ở tỉnh Thái Bình, Hưng Yên thăm gia đình đồng đội. Có gia đình biết con đã hi sinh cứ ôm chầm lấy anh thương binh ấy mà khóc, dặn rằng, con ơi, bận đến đâu thì thi thoảng cũng nhớ về thăm thầy u. Thầy u coi con như em nó! Nhưng có lẽ điều ông day dứt nhất là cho đến giờ này còn nhiều ngôi mộ Liệt sĩ đồng đội chưa tìm được. Các anh ở đâu trong hoang vu rừng già, khe núi? Rồi ông nhớ đến Bác sĩ Lợi ở Binh trạm 559, người đã cứu ông trước ranh giới mong manh sương khói, đến bây giờ mỗi lần mảnh đạn trong phổi khiến lồng ngực đau buốt. Ông lại nhớ tới bác sĩ bác sĩ Thọ, bác sĩ Yến và rất nhiều thầy thuốc ở Quân y viện 108 đã cứu mình. Viết xong cuốn sách này, người thương binh ấy lòng đã nhẹ đôi phần. Xin gửi tới các anh chị, các đồng chí thân yêu một lời cảm tạ! Tôi đã nhiều năm làm ở Cục Chính sách mà chưa tìm ra được những lời hay nhất, đẹp nhất để nói về tình nghĩa của những ân nhân đã quên cả mạng sống của mình mang lại sự sống cho biết bao người. Xin gửi tới các anh chị,các đồng chsi thân yêu một lời cảm tạ. Biết bao nghĩa nặng ơn sâu trong Thẳm sâu miền ký ức!
 (*) NXB Quân đội nhân dân-2021 
 ------------------------------------------ 

 


 TRẢ NỢ KÝ ỨC 


                                                       Nhà thơ Hồng Thanh Quang


 Ai đó đã nói rằng, để viết ra sự thật về chiến tranh, cần phải có khoảng lùi về thời gian… Những cuộc chiến tranh càng khốc liệt, càng nghiệt ngã, càng đẫm máu thì càng cần có khoảng lùi về thời gian lớn hơn. Khi súng vẫn còn đang nổ, ở bất cứ bên chiến tuyến nào người ta cũng không cần sự thật như nó vốn có, lạnh lùng, nguyên vẹn, như thể dửng dưng trước những đầm đìa máu đổ và vật vã đớn đau, bởi lẽ, mỗi bên chiến tuyến đều cần những gì có thể động viên được lực lượng của mình cao nhất hướng tới chiến thắng. Bên phi nghĩa hay bị coi là phi nghĩa muốn thế. Bên chính nghĩa hay được xếp vào chính nghĩa cũng muốn thế… Và bởi vậy, những gì được coi là sự thật trong những nhiệm vụ tuyên tuyền thường được hiệu đính, nhiều khi thực ra cũng chỉ vì những mục đích được coi là trong sáng… Đó không hẳn là những sự nói dối, chỉ là những sự nói chưa hết ý, chưa đủ toàn diện, mang tính lâm thời. Đơn giản vì tư duy, dù sao thì một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì… Tuy nhiên, khi chinh chiến lùi xa, đối với bất cứ cộng đồng nào, dân tộc nào, xã hội nào cũng cần những sự thật trung thực nhất, đầy đủ nhất về quá khứ. Và mức độ văn minh càng được nâng cao thì càng xuất hiện nhiều những bài viết, những tác phẩm về chiến tranh nói được đầy đủ hơn, toàn diện hơn, chuẩn xác về quá khứ. Không phải để thanh toán “ân oán giang hồ” với dĩ vãng hay chỉ giúp xoa dịu những niềm riêng, mà để có thể giúp những người đương đại và các thế hệ tương lai rút ra được những bài học thiết thân, hữu ích thực sự cho chính mình… Để hiểu hơn những ngày đã qua và để phòng bị tốt hơn cho những ngày sắp tới… Bởi lẽ, ở đâu cũng thế, trong thời đại nào cũng thế, chiến tranh không phải trò đùa và cũng không dễ dàng mà gì mà “phơi phới” hy sinh vì nghĩa lớn… Đó là những suy nghĩ của tôi khi đọc tập ký “Thẳm sâu miền ký ức” của trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, do nhà xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành năm 2021. Một tập ký gần 300 trang, trong đó ngoài một phần ba để nói về quê hương và dòng tộc, có gần 200 trang thuật lại những kỷ niệm của tác giả về những năm tháng trên chiến trường, đầy những hy sinh và luôn toát lên một tinh thần quả cảm rất đáng ngưỡng mộ. Không có dụng ý làm văn, những trang viết của Nguyễn Mạnh Đẩu vẫn tạo nên sức lay động mạnh mẽ bởi những chi tiết thực có sức ám ảnh sâu sắc. Dù rằng, có thể tác giả vẫn chưa nói hết tất cả những sự éo le, bi tráng đã diễn ra trong cuộc đời lính chiến của mình… Rất mong là những cựu chiến binh như trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu càng ngày càng có thêm điều kiện để quảng bá những hồi ức của mình. Thế hệ hôm nay và mai sau rất cần được biết đến một cách trung thực và đầy đủ về những gì mà những người đi trước đã phải trải qua để đất nước được thống nhất, hòa bình và độc lập… Sự thật không bao giờ là có hại, nếu chúng ta biết cách tiếp nhận một cách lành mạnh… 
 31-1-2022
 ------------------------------------------------------------------------------- 
 KÝ ỨC CỦA MỘT CHIẾN BINH


                                  Nhà báo Huy Đức


 Chết hay sống không phải là lựa chọn của người lính. Có người "lao vào đánh nhau thì chẳng việc gì", có người run sợ, lui về phía sau thì trúng đạn. Ông, người mà đồng đội tưởng là đã hy sinh thì lại sống sót trong đường tơ, kẽ tóc; đồng đội, người nhận từ ông lời "trăng trối" thì vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Tác giả lên tới trung tướng khi về hưu nhưng trong cuốn sách này ông chủ yếu viết về 7 năm trưởng thành từ binh nhì tới cấp "đại đội bậc trưởng", khi bộ binh, khi đặc công; viết sẵn di chúc từ tuổi 20s và đến nay vẫn còn một viên đạn găm trong phổi. Bảy năm trở thành "Thẳm Sâu Miền Ký Ức". Nhiều trang viết về chiến tranh nghẹt thở nhưng nhiều hơn vẫn là những trang đi tìm đồng đội khiến mắt người đọc cay xè. Những đồng đội mà hàng chục năm sau dù vị trí trong xã hội đã rất khác nhau, khi gặp, khí chất chiến binh vẫn luôn trỗi dậy. Tôi rất thích đoạn đối thoại ngắn khi tác giả tìm về quê một người lính của mình. Người lính đặc công Tạ Ngọc Dũng thời tuổi 20 "da trắng, môi đỏ tươi như môi con gái" 30 năm sau là một "ông già khô đét, đen đúa..." đứng giữa ruộng tôm không thèm quay lại khi có người hỏi "ông Dũng đặc công", "Ôi dào, Công với queo gì." Cũng như ông Dũng, ở Gia Lai, ông Lê Văn Lướt, một chỉ huy của tác giả, năm 1963 tốt nghiệp sĩ quan Lục Quân với quân hàm thiếu úy, sau 12 năm ở chiến trường về hưu với quân hàm trung úy. "12 năm chỉ lên một bậc thôi ư..." Ông Lướt cười: "Nước có giặc thì đi đánh giặc, hết giặc thì về quê, tổ chức trao gì được nấy. Bao người thua thiệt hơn mình". Những chiến binh thật sự không so bì với những người thăng tiến hơn mình họ so với những đồng đội bỏ mình ngoài chiến trận. Lâu nay tôi đọc tiểu thuyết hư cấu rất khó khăn, có lẽ vì sau những thập niên chiến tranh, những câu chuyện bi tráng của đất nước ta "tiểu thuyết" hơn rất nhiều khả năng hư cấu. Thêm một cuốn tự truyện được viết rất giản dị mà lôi cuốn. Đọc thì thấy tác giả, trung tướng Mạnh Đẩu Nguyễn, rất có khả năng văn chương nhưng ông không viết văn cố ý. Ông cứ để những câu chuyện tuôn ra một cách tự nhiên, chân thật và xúc động. Những câu chuyện giúp ta hiểu thêm về tác giả và khiến ta kính trọng ông. 
 ---------------------------------

 


 Nguyễn Mạnh Đẩu với “ Thẳm sâu miền ký ức ”


                                                 Nhà báo Phan Thế Hải 


 Tôi biết đến tướng Nguyễn Mạnh Đẩu cách đây mấy năm. Trong một lần gặp mặt đồng hương xứ Nghệ, tướng Nguyễn Mạnh Đẩu ngồi cạnh lão tướng Nguyễn Quốc Thước, Ts Lê Doãn Hợp chỉ vào tướng Đẩu giới thiệu: Đây là Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, quê Nghi Lộc. Tướng Đẩu gật đầu chào rồi đáp: Trung sỹ! Vậy là chúng tôi tìm thấy ở nhau những điểm tương đồng. Anh hơn tôi gần giáp, thuộc thế hệ đàn anh, đều là dân xứ Nghệ, thích chữ nghĩa. Điều kỳ lạ là trong câu chuyện trao đổi, kể cả trong chuyến đi dài ngày về xứ Nghệ, anh ân cần, chân thành và bình dân, chưa bao giờ thể hiện là “Trung tướng”, là sếp của đám đàn em còn thua kém anh nhiều mặt. Rồi tôi cũng được anh tặng cuốn sách của anh: “Thẳm sâu miền ký ức” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. Cuối năm, thời gian không nhiều nhưng tôi cũng dành cả ngày trời để đọc gần 300 trang viết của anh và lập tức bị cuốn hút bởi giọng văn giản dị, chân thành, thể hiện sinh động một giai đoạn lịch sử cận đại của dân tộc. Bằng cách kể chuyện mộc mạc, tự sự, người đọc hình dung một người lính Nguyễn Mạnh Đẩu có tính cách, hình hài của một người xứ Nghệ với những ước mơ, khát vọng cống hiến, không ngần ngại dấn thân vào chốn mưa bom bão đạn của cuộc chiến khốc liệt nhất trong lịch sử nhân loại. Vượt lên trên những sự kiện của chiến tranh là tình yêu, tình bạn, tình làng nghĩa xóm, mối quan hệ giữa con người với con người. Phần anh viết về cái nôi gia đình khiến người đọc liên tưởng đến một vùng quê nghèo điển hình của xứ Nghệ, trong đó, cụ ngoại, ông ngoại anh từng là ông đồ nho hay chữ, giữ vững cốt cách gia phong, dạy con cháu với những câu ngắn gọn, sâu sắc: “Phụ từ, tử hiếu” (Cha thì phải hiền từ. Con thì phải hiếu thảo); “Huynh lương đệ đễ” (Anh tốt em kính nhường”; “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn thì chớ làm với người khác)… Ám ảnh hơn cả với người đọc là hình tượng của bố mẹ anh, những nông dân tần tảo ở vùng Nghi Lộc, Nghệ An nhưng không cam chịu đời sống thuần nông mà đã tham gia buôn bán từ rất sớm. Anh viết: “Năm 1945, cũng nghèo khó nhưng gia đình tôi qua được nạn đói là nhờ đi buôn. Năm đó cha mẹ tôi xấp xỉ 30 tuổi… suốt ngày hai vợ chồng đòn gánh đè vai, xuôi ngược Đông- Đoài, hết buôn thứ này xoay sang thứ khác…” “Những người thuần nông quanh năm vất vả một nắng hai sương bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Họ trực tiếp làm ra hạt gạo củ khoai nhưng khi gặp nạn đói, họ là những người thiếu đói đầu tiên và chết nhiều nhất”. Cũng tại thời điểm nạn đói kinh hoàng, bố mẹ anh đã bỏ tiền “mua” con nuôi. Anh viết: “…một phiên chợ Sơn, sau khi đã bán hết hàng, cha mẹ tôi gặp nhiều nhà đem con đi bán - chủ yếu là con trai. Họ bán con để lấy tiền đong gạo, cứu cả nhà thoát chết đói. Cha mẹ tôi bàn với nhau, nhà mình mới có con gái… thôi thì bớt ăn, mua một đứa con trai về nuôi để chơi với con cho có đôi. Âu đó cũng là việc làm phúc ở đời. Lượn qua một lượt, trông thấy một đứa trẻ trai độ 5 tuổi, mặt mày sáng sủa khôi ngô, nhưng đang lả đi, nhợt nhạt. Cha mẹ tôi thương quá bỏ tiền ra mua. Người bán là một đôi vợ chồng trẻ, ăn mặc rách rưới, mặt hiền lành chất phác, nghe giọng nói là người Đàng Ngoài. Thấy tội quá, hỏi bao nhiêu, trả bấy nhiêu, không mặc cả… Cuốn “Thẳm sâu miền ký ức” được tác giả chia làm chín phần. Mỗi trang viết đều đầy ắp những câu chuyện sinh động, ghi lại những chặng đường mà tác giả đã trải qua. Ba phần đầu anh dành những tình cảm ấm áp, sâu nặng cho quê hương, gia đình và thời thơ ấu. Năm phần tiếp theo anh kể chuyện về những hồi ức cá nhân từ ngày đầu trốn nhà nhập ngũ, hành quân vào miền Nam rồi qua các chiến trường Lào, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế và chiến dịch Đường 9- Nam Lào vô cùng ác liệt. Ở phần thứ tám, tác giả dành nhiều trang xúc động kể lại lần bị thương nặng chết đi sống lại mấy lần trong một trận đánh ở chiến dịch Đường 9- Nam Lào năm 1971. Hành trình gian nan vô cùng đau đớn của anh khi phải nằm trên cáng thương của giao liên khiêng bộ qua nhiều chặng ra miền Bắc để chữa trị khiến người đọc đôi lúc phải nghẹn ngào rơi lệ. Đó cũng là bước ngoặt lớn trong đời binh nghiệp của anh từ người lính trận mạc chuyển sang làm cán bộ chính sách ở Bộ Quốc phòng, một người uyên bác và thấu hiểu sâu sắc cuộc chiến. Điều thú vị là tác giả đã tái hiện lại một cậu bé nhà quê thông minh, nghịch ngợm và đã vướng phải không ít sai lầm thời tuổi trẻ: Chuyện đi bắt cá trộm rồi tấn công lại bảo vệ ao, chuyện thi trượt lên cấp 3 và cả chuyện thi vào trường Trung cấp mỹ thuật công nghiệp đỗ cả ba vòng nhưng không có giấy báo… Nhưng chuyện chỉ mỗi mình biết nay được anh kể lại một cách chân thành. Nhưng rồi vì khát khao cống hiến để “khai man” cho đủ tuổi để nhập ngũ, xả thân trong các chiến trường, trong mọi hoàn cảnh để trở thành vị tướng với 2 bằng đại học và được giao giữ những trọng trách trong quân đội để rồi khi về hưu có cơ hội thăm viếng nhiều nơi trong và ngoài nước để ngẫm về thế sự một cách có chiều sâu. Tôi bảo anh Đẩu: Những trang viết của bác đầy chất văn, bác vào Hội nhà văn chưa? Rằng chưa chú à. Tôi viết như một sự chia sẻ, qua đó bày tỏ lòng biết ơn với những người bạn thưở học trò, những đồng đội thời chiến chinh và hơn thế là những bạn trẻ đang loay hoay định hướng cho tương lai của mình. Nếu ai đó tìm được những điều gì hay ho thú vị là điều đáng mừng. Câu chuyện của Tướng Nguyễn Mạnh Đẩu đã truyền cảm hứng cho tôi và sẽ có chỗ xứng đáng trong lòng hàng triệu bạn đọc. Một câu nói tưởng như vui đùa của anh là “Trung sỹ”, không phải là “Trung tướng”, bởi sự hồn nhiên trong cách tự sự, trải lòng với người đọc. Chợt nhớ hai câu thơ của đại văn hào Lỗ Tấn: “Ngước mắt coi khinh ngàn lực sĩ Cúi đầu làm ngựa đứa hài nhi”. Khi anh tự nhún mình làm “Trung sỹ” ấy là cách ứng xử của kẻ sỹ. Người Nhật chào nhau bằng cúi đầu và cả hai bên cúi chào nhau nhiều lần khi gặp hoặc tiễn biệt. Đó là sự trọng thị, là sự cao thượng trong văn hóa ứng xử. Nguyễn Mạnh Đẩu xứng đáng là kẻ sỹ xứ Nghệ, dẫu anh vẫn nói vui mình là “Trung sỹ”.

Thứ Tư, 27 tháng 10, 2021

 QUÊ HƯƠNG & MẸ CHA

Con về quê một chiều chớm đông
Bãi biển vắng cát vàng nước biếc
Sóng vẫn vậy ngàn đời thao thiết
Hàng dừa reo trong nắng chan hoà.

Con vào lăng kính niệm mẹ cha
Làn hương thơm ảnh hình mờ tỏ
Ký ức vụt về miền xưa cũ
Đây Mẹ Cha - máu thịt đời con.

Trước bàn thờ thầm niệm tri ân
Công Mẹ Cha sinh thành dưỡng dục
Nuôi con lớn củ khoai hạt thóc
Cõng mồ hôi nắng đỏ quê nhà.

Con đã qua biết mấy nẻo đường
Về đây lòng xốn xang đến thế
Vẫn biết đời, nương dâu bãi bể
Quê, Mẹ Cha - chỉ một mà thôi !

Khánh Hợp, 24/10/2021

Thứ Bảy, 9 tháng 10, 2021

 

NẺO ĐƯỜNG CHIẾN TRẬN

                                                   Truyện ký  

                                           Nguyễn Mạnh Đẩu

 

    Quê hương, gia đình và thời thơ ấu

 

    Tôi quê ở làng Đại Xá, xã Nghi Hợp ( từ năm 2019, hợp nhất với xã Nghi Khánh thành xã Khánh Hợp ), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

    Nghệ An có diện tích 16.487 km2 là tỉnh lớn nhất Việt Nam, với số dân khoảng 3 triệu người (tính đến 1-4-2004). Theo sử sách, năm 628 vùng đất này gọi là châu Hoan rồi châu Diễn. Năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An, rồi năm 1040 lại đổi lại là xứ Nghệ An. Thời Tây Sơn gọi là Nghĩa An trấn. Thời Gia Long đặt lại là Nghệ An trấn. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An làm hai tỉnh Nghệ An (bắc sông Lam), Hà Tĩnh (nam sông Lam). Năm 1976, sau khi thống nhất đất nước, trong xu thế chung, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập lại thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Đến năm 1991 lại tách ra như cũ.

 Nghệ An nằm trong vùng khí hậu gió mùa, có bốn mùa rõ rệt Xuân, Hạ, Thu, Đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 âm lịch hàng năm chịu ảnh hưởng của gió tây nam (gió Lào) khô và nóng. Về mùa Đông chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt. Từ xa xưa, qua mọi thời đại, Nghệ An là quê hương của nhiều danh nhân tiêu biểu. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, Nghệ An đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,  bảo vệ Tổ quốc.

 Nghi Lộc là huyện ven biển, với diện tích gần 39.000 hécta, số dân hơn 20 vạn người, có 1 thị trấn và 32 xã. Theo lịch sử thì từ năm 1490 đến năm 1831 gọi là huyện Chân Phúc. Từ năm 1832 đến năm 1888 gọi là huyện Chân Lộc. Từ năm 1889 trở đi gọi là huyện Nghi Lộc. Là nơi có bờ biển dài với hai cửa lạch thông ra biển Đông và có các tuyến giao thông huyết mạch của quốc gia, nên mọi cuộc chiến tranh đều đi qua vùng đất Nghi Lộc. Bao đời nay, những người con ưu tú của Nghi Lộc đã nối gót nhau cống hiến cho giang sơn đất nước, tô thắm thêm truyền thống quê hương.

Xã Nghi Hợp ( cũ ) nằm ở phía đông huyện Nghi Lộc, có diện tích 386,52 hécta, với số dân 3.485 người; có ba làng: Đại Xá, Kỳ Sơn, Hợp Xá. Nghi Hợp có các đặc điểm lớn: Là xã duy nhất trong vùng không có người dân nào theo đạo Thiên Chúa. Trong kháng chiến chống Pháp chưa có lần nào giặc Pháp hoặc ngụy quân đặt chân đến. Trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, mặc dù nhân dân các xã trong vùng bị thương vong nhiều do máy bay Mỹ oanh tạc khốc liệt, bị pháo hạm từ tàu hải quân Mỹ bắn phá dữ dội, vậy mà ở đây không ai hề hấn gì. Duy chỉ một lần, năm 1968, máy bay Mỹ ném một quả bom trúng vào vườn ông Châu (Nguyễn Đình Mợi), cách nhà tôi khoảng 100 mét, nhưng lại chui sâu xuống lòng đất, không nổ. Mãi đến bây giờ cũng chưa ai đào lên. Suốt hai cuộc kháng chiến, ngay trên đất xã tôi không có người nào bị thương vong, không có cái nhà nào bị cháy - mặc dù thời đó Khu 4 là trọng điểm đánh phá của máy bay và tàu chiến Mỹ. Nhiều người cho rằng, sở dĩ có điều đó vì Nghi Hợp là quê hương của Nguyễn Xí, được Ngài che chở.

 Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí (1397 - 1465) - Công thần khai quốc thời Hậu Lê, là một đại thần của bốn đời vua Lê - từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông. Ông là một viên tướng trụ cột của Lê Lợi, có công lớn trong 10 năm trường kỳ kháng chiến chống quân Minh (1418 - 1428). Là người chủ xướng trong cuộc binh biến ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1460 phế vua Thiên Hưng (tức Lê Nghi Dân), rước Lê Tư Thành lên ngôi báu –tức vua Lê Thánh Tông nổi tiếng trong lịch sử dân tộc (1442-1497). Tiếp đó, ông đã phò tá vua Lê Thánh Tông gây dựng xã tắc, gìn gìữ và mở mang bờ cõi, chấn hưng đất nước. Đó là thời kỳ hưng thịnh, rực rỡ nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Hiện nay trong xã có đền thờ Nguyễn Xí là di tích lịch sử đã được xếp hạng. Trong đền có bài văn điếu của vua Lê Thánh Tông khắc bằng chữ Hán trên một tấm bia đá rất to. Dưới bài văn điếu ghi Trạng nguyên Nguyễn Trực thảo. Thật là công bằng rành rọt, lời điếu của Vua đối với một đại thần, vẫn còn ghi lại ai là người soạn thảo văn bản. Nguyễn Trực (1414- 1474) -  Lưỡng quốc Trạng nguyên, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai (Hà Nội), xuất thân trong một gia đình nho học nhiều đời, ông nội và cha đều là khoa bảng. Từ tấm văn bia ngẫm kỹ toát lên mấy điều: Một vị vua anh minh; Một đại thần trung nghĩa; Một trạng nguyên học giả tài ba. Năm 2014, khi Đại tá, AHLĐ Nguyễn Đăng Giáp Tổng giám đốc Tổng công ty 36 Bộ Quốc phòng cung tiến khu Đền thờ Nguyễn Xí xây dựng lại Lầu bia to đẹp khang trang hơn. Hàng cột trước Lầu bia có đề 2 câu đối bằng chữ Hán do Giáo sư Nguyễn Đình Chú soạn : “  Minh đế ân công bi hóa ngọc /  Trang nguyên văn bác bút tòng tâm “.

Làng Đại Xá quê tôi thuộc xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Không hoành tráng về địa lý, giàu có về kinh tế và  nổi tiếng về truyền thống văn hóa, lịch sử như nhiều làng tiêu biểu ở các vùng miền khác. Đại Xá là một làng nhỏ, bình dị như bao làng quê nghèo xứ Nghệ. Phía tây làng Đại Xá, cách một cánh đồng, qua cầu Ben là xã Nghi Xá. Nghe các cụ nói lại rằng, hồi trước có ông quan lớn Tham ( người họ Lê Cảnh, không biết tên thật là gì), người làng Xuân Tình (xã Nghi Thịnh). Khi vinh quy bái tổ, quan lớn Tham đã làm phúc xây mấy cái cầu trong vùng, bằng đá xanh phiến to, rất đẹp, trong đó có cầu Ben. Quan lớn Tham là cách gọi người giữ chức Tham tri trong triều đình Huế - tương tự như chức Thứ trưởng bây giờ. Những phiến đá xanh đẹp ở cầu Ben không còn nữa. Hiện nay là cầu  bê tông.

 Phía đông là Cồn Làng Đông - nghĩa trang khá to. Đó là nơi an nghỉ cuối cùng của rất nhiều thế hệ người Đại Xá. Trở về với cát bụi, bao lớp người, bất phân địa vị nơi trần thế, được sắp xếp theo thứ bậc trong từng chi họ. Hằng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, người Đại Xá ở quê hay công tác, định cư ở mọi phương trời đều về đây thắp hương tưởng niệm tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Từ nghĩa trang qua một cánh đồng nhỏ là đến làng Kỳ Sơn - trung tâm xã Nghi Hợp.

Phía nam cách một cách đồng là xã Nghi Thịnh. Trước đây ở phía nam còn có Cửa Nghè, Cồn Nhà Vàn, Cồn Hạ Lang. Không hiểu những tên gọi đó nói lên cái gì, xuất xứ từ đâu. Chỉ biết, sau này ở Cồn Hạ Lang có nhiều ngói vụn, gạch vụn, hình như đó là dấu tích của miếu mạo, đền chùa hoặc nhà ở từ thuở xa xưa.

 Phía bắc là hồ đập Xã và hồ đập Họ rộng hơn chục héc ta. Trước đây, hằng năm, các xã trong vùng cùng tổ chức đánh cá  một lần sau khi thu hoạch vụ chiêm (gọi là đánh đập). Ngày đánh đập vui lắm. Hiệu lệnh phát ra, cùng lúc kẻng gõ dồn dập, trống khua ầm ỹ, hàng nghìn người già trẻ, gái trai từ các làng đổ về đập, với đủ phương tiện đánh bắt cá. Một không khí rầm rộ, nhộn nhịp, nô nức, cứ như đi trẩy hội. Bây giờ không còn đánh đập nữa. Phía dưới đập Họ khoảng 500 mét là Nại, tức là cánh đồng muối ở cạnh làng Nại (xã Nghi Xá). Tương truyền, thủy tổ của nghề làm muối ở vùng này là Cụ Nguyễn Hợp, ông nội của Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí - đại thần đời Hậu Lê. Nguyên quán của Cụ Nguyễn Hợp ở làng Cương Gián (nay là xã Xuân Song, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh) dời nhà ra đây từ khoảng năm 1300.

 Về mặt địa lý, có thể, Đại Xá cũng như các làng trong vùng hình thành cách đây khoảng 700 năm. Đó là kết quả từ hiện tượng biển lùi trong lịch sử. Cánh đồng khá rộng phía đông nam của làng Đại Xá có tên là Cửa Bể. Phía xa hơn, khoảng 4 cây số, có làng Đông Chử ( xã Nghi Trường). Đông Chử, theo các bậc cao niên, thì từ Hán có nghĩa là cửa biển phía đông. Những năm sáu mươi của thế kỷ trước, khi hợp tác xã nông nghiệp Đại Xá đào mương thủy lợi, đến độ sâu khoảng hơn 5 mét, đã phát hiện các tấm ván thuyền và mái chèo chôn vùi dưới lòng đất, cát.

Không được thiên nhiên ưu đãi mưa thuận gió hòa, đồng ruộng phì nhiêu, Đại Xá là một vùng đất cát pha bạc mầu, khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Mùa hè nắng chói chang, gió Lào hầm hập, bỏng rát. Mùa thu thường mưa to, gió lớn. Mùa đông gió từ biển thổi vào, giá lạnh rét buốt. Trước đây, người Đại Xá ngoài nghề nông, còn có thêm nghề làm muối. Nhưng sau này, vì làm nghề muối thu nhập thấp, lại quá ư vất vả, nên đã bỏ. Là vùng thuần nông, bao đời nay người dân nơi đây quanh năm lam lũ làm ăn mà vẫn quanh năm đói nghèo.

 Theo lịch sử các dòng họ (gia phả), các chứng tích, có thể  Đại Xá hình thành muộn hơn so với các làng lân cận. Thuở ban đầu, Đại Xá chắc chỉ là một cái ấp nhỏ, do các cụ tổ của các dòng họ: Lê Văn, Nguyễn Văn, Nguyễn Gia, Phan Ngọc, Nguyễn Đình, Thạch Quang, Nguyễn Trọng, Nguyễn Kế, Hoàng Văn…khăn gói từ các vùng quê khác đến lập cơ nghiệp, sinh con đẻ cái. Tính đến nay, gia phả của các dòng họ trong làng cũng mới ghi được trên dưới 10 đời.

Ông tổ của họ Lê Văn là Cụ Lê Văn Diệu, nguyên quán ở một làng quê bên bờ sông Mã thuộc huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa), có thể là hậu duệ của Nhà Lê, vào làm ăn ở Đại Xá đã hơn 300 năm. Ông tổ của họ Nguyễn Văn là Cụ Nguyễn Đình Tín, hậu duệ đời thứ 11, thuộc Đại chi 14 ( Nhà thờ Tướng quân Nguyễn Nhân Thực con trai thứ 14 của Thái sư Cương Quốc Công Nguyễn Xí ). Họ Nguyễn Văn và họ Lê Văn là bà con nội ngoại. Cách đây khoảng 200 năm, có người con gái họ Nguyễn Văn là Cụ bà Nguyễn Thị Thu (còn gọi là Khán) lấy người con trai họ Lê Văn là Cụ Lê Văn Trường (tức Can Siêu). Vì họ Lê Văn từ trước đến đời Can Siêu là độc đinh, nên có thể nói, toàn bộ họ Lê Văn bây giờ là hậu duệ của cuộc hôn nhân đó. Về sau, vào một thời điểm, anh em nội ngoại có chuyện bất hòa. Chuyện kể rằng, khi chia ruộng hương hỏa (sau này gọi là ruộng Họ), ông bố họ Nguyễn Văn chia cho con trai phần lớn và một phần nhỏ hơn chia cho con gái lấy chồng họ Lê Văn. Mấy đời sau, hậu duệ họ Lê Văn tu chí làm ăn phát đạt; hậu duệ họ Nguyễn Văn ham chơi cờ bạc dẫn đến đói nghèo. Tộc trưởng họ Nguyễn Văn là cụ Nguyễn Văn Quảng đã bán độ phần ruộng hương hỏa cho tộc trưởng họ Lê Văn. Đến đời con cháu khá lên, có tiền muốn chuộc lại ruộng, thì phía họ Lê Văn không đồng thuận. Mâu thuẫn đến đỉnh điểm. Mọi việc cùng thì tắc biến, biến tắc thông. Sự tranh giành phải đụng đến vũ lực mới xong. Thế là, vào mùa hè năm Mậu Thìn (1928), hai họ “dàn trận”. Kịch bản là: ban đầu tạo cớ khiêu khích, rồi từng bước tung dần lực lượng tranh giành gay gắt, cuối cùng dùng gậy gộc đánh nhau quyết liệt. Ngày "xung trận", từng họ còn cho trai tráng lực điền uống rượu để kích thích tính liều. Lý trưởng và các công sai của xã phải đứng ra can ngăn và mời quan huyện về xử. Khi xét xử, chứng cứ họ Nguyễn Văn đưa ra là trước đây các cụ “bán độ” chứ không phải là “bán đoạn”. Nhờ vậy, họ Nguyễn Văn thắng kiện, chuộc lại được phần ruộng đã cầm cố. Thế đấy, từ bao đời nay, vì lợi ích miếng cơm manh áo, để giành giật ruộng đất làm ăn, người nông dân sẵn sàng choảng nhau đến sứt đầu mẻ trán - kể cả với họ hàng ruột thịt. "Cuộc chiến" giữa hai họ, nếu tính từ khi chuẩn bị đến khi kết thúc, chỉ diễn ra vỏn vẹn một buổi sáng. Hậu quả là có mấy người bị chấn thương nhẹ, không ai bị chết. Ấy vậy mà, hơn 80 năm nay, qua nhiều thế hệ, sự kiện đó thi thoảng gợn lên như một vết thương lòng trong quan hệ vẫn thuận hòa giữa con dân hai họ.

 Đất không rộng, người không đông, lại nghèo, nhưng xưa nay qua mọi thời kỳ lịch sử, dân làng Đại Xá luôn tỏ ra tự tôn, tự hào. Làm gì, ở đâu, người Đại Xá vẫn cố vươn lên, không bao giờ chịu lép vế người làng khác, vùng khác. Các cụ đời trước kể lại: Mấy năm đầu thế kỷ 20, làng tiến hành xây đền và lập chùa. Đền thờ Thành Hoàng. Khi đặt móng dựng đền, có người ở làng khác đến xem, có thể vì tức khí mà khích bác nói với thầy cúng: Người Đại Xá ghê gớm lắm. Thầy phải đặt bùa yếm kiểu gì đó để người làng này bớt đi tính hiếu thắng, tự đại. Nghe thấy vậy, các cụ lập tức đáp lại: Thách đấy! Điều đó là không thể! Đến bao giờ, ai chặt ngang một cây chuối rồi đem trồng mà sống được, thì làng Đại Xá mới hết người cương cường.

 Như mọi vùng quê xứ Nghệ, sau Cách mạng Tháng 8/1945 và tiếp đó là sau kháng chiến chống Pháp, tháng 7/1954, đền chùa, miếu mạo ở Đại Xá đều bị triệt phá. Có thể coi đó là một tai họa do sự ấu trĩ tả khuynh của một thời, để lại hậu quả to lớn, lâu dài.

 Từ xưa đến nay, nói chung, tính cách người làng Đại Xá là cương trực, cần cù, hiếu học, tiết kiệm và đoàn kết. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có khá nhiều trường hợp thái quá trên một số mặt: Cương trực đến mức nóng nẩy. Thẳng thắn đến mức thô tháp. Tự tin đến mức chủ quan. Tiết kiệm đến mức hạ tiện. Đùm bọc nhau đến mức cục bộ. Chịu khổ mà không chịu khó. Khí khái chẳng lụy bất cứ ai, với bất kỳ việc gì. Tất cả những đặc trưng đó đã thấm vào xương tủy, máu thịt, truyền từ đời này sang đời khác. Xét đến cùng, những điều đó là do điều kiện địa lý, kinh tế, lịch sử, văn hóa hun đúc nên. Âu đó cũng là truyền thống, là qui luật. Xưa nay, người Đại Xá đi ra thiên hạ mà hòa nhập, thích nghi và từng bước khẳng định được mình, là do biết chủ động khắc phục ba nhược điểm tiềm ẩn trong tính cách: hiếu thắng, cục bộ, hạ tiện (hà tiện). Tuy nhiên, ở đời, bất cứ ai, sửa đổi tính cách là việc khó vô cùng. Người xưa từng nói: "Giang sơn dị đảo, bản tính nan di ". Nghĩa là, sông núi có thể chuyển đổi được, nhưng bản chất, tính cách con người là khó thay đổi.

 Thời phong kiến, trong xưng hô thường đặt chức vụ hoặc học hàm, phẩm hàm trước tên gọi nên dễ phân biệt và dễ nhớ.

 Về nghiệp binh, Đại Xá có người tham gia quân đội Nam triều giữ chức Cai là cụ Cai Thực ( tức là Nguyễn Văn Thực, con trai cụ Pho). So với bây giờ, Cai là chức vụ ngang Tiểu đội trưởng. Vào khoảng năm 1935, thực dân Pháp mộ lính lê dương đi các thuộc địa ở Châu Phi. Cả xã Thượng Xá đi khám tuyển rất đông mà chỉ trúng được 2 người đều là trai Đại Xá: Nguyễn Văn Được và Nguyễn Văn Lưu. Vì sợ con trai chết trận, gia đình đã bố trí cho Nguyễn Văn Được trốn lính.

 Về chính quyền, người  Đại Xá có cụ Phó Khơng, tức là Lê Văn Khơng giữ chức Phó Chánh tổng Tổng Thượng Xá. Tổng là đơn vị hành chính thời trước, có qui mô dưới cấp huyện, nhưng to hơn cấp xã. Có hai người làng đã từng giữ chức lý trưởng, tức là cựu lý: Cụ cựu Sĩ (Nguyễn Văn Sĩ) và cụ cựu Kiêng (Lê Văn Kiêng). Cụ cựu Sĩ là cụ nội của ông Nguyễn Văn Vường sau này. Cụ Lê Văn Kiêng là thân phụ của ông Lê Văn Sâm, lão thành Cách mạng và ông Lê Văn Lẫm, Anh hùng LLVT. Nghe kể, có lần quan Tây đi thị sát vùng đập ở cuối xã, người dân để vật liệu ngổn ngang cản trở xe không qua được. Quan Tây cho triệu lý trưởng đến quát mắng thậm tệ. Uất quá, cụ Lê Văn Kiêng đã cự lại. Tức thì, quan Tây lệnh cho tri huyện Nghi Lộc cách chức lý trưởng đối với cụ Kiêng. Lại nói chuyện đánh Tây. Các cụ kể rằng, trong thời kỳ Pháp thuộc, dân Đại Xá đã đánh Tây. Sự thể là, có lần mấy người dân làm muối của làng Đại Xá gồm các ông: Lê Văn Tụy, Nguyễn Văn Đờn, Nguyễn Văn Tần, Nguyễn Văn Phùng, Hoàng Văn Ổn, chỉ bằng tay không và đòn gánh đã dũng cảm đánh nhau với mấy thằng Tây đoan có vũ khí. Tây đoan là người Pháp chuyên lo việc thu thuế của dân trong vùng.

 Người làng Đại Xá phần đông có tư chất khá thông minh, nhưng vì quá nghèo, không được đi học. Thời phong kiến đỗ đạt khoa bảng của huyện Nghi Lộc có đến hàng trăm người, có nhà mấy đời, nhưng không có ai là người làng Đại Xá. Duy chỉ có cụ Nguyễn Gia Thống không biết đỗ đạt đến mức nào mà đảm chức Tổng giáo nên gọi là Tổng giáo Thống. Xã Thượng Xá hồi trước có hai người đậu tú tài Hán học, được phong tước Hàn lâm Viện đại chiểu, đó là:  Cụ Hàn Xán, còn gọi là Hàn Cả ( tức Cụ Nguyễn Huy Côn, thân phụ Giáo sư Nguyễn Đình Chú) người làng Kỳ Sơn và Cụ Hàn Hai (thân phụ ông Nguyễn Trương Khoát, nguyên Bí thư tỉnh ủy Nghệ An) người làng Nại.

Thời nào cũng vậy, sự thành đạt trong việc học, việc làm của mỗi con người thường bắt nguồn từ mấy yếu tố: Tư chất thông minh, đức tính chuyên cần, thể chất khỏe mạnh và các điều kiện bảo đảm của gia đình, xã hội. Cũng dòng máu  Đại Xá, hậu thế có nhiều người học hành giỏi giang trở thành tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư, bác sĩ, cán bộ quản lý,... Và nhiều người phấn đấu thành đạt, đảm trách nhiều cương vị quan trọng trong xã hội. Nhưng đó là chuyện của các thế hệ sau này.

 Trước Cách mạng 1945, nói chung dân làng Đại Xá đều nghèo. Toàn là nhà tranh vách nứa. Cả làng có chưa đầy mười cái nhà ngói - trong đó có nhà kiêm luôn từ đường của Họ. Người giàu nhất làng, cũng có thể nhất nhì xã Thượng Xá, là Chánh dũng Xoan - tức Nguyễn Gia Xoan. Chánh dũng là một chức tước trong làng. Giàu hồi đó là dạng phú ông, với ruộng đất nhiều, trâu bò lắm. Ngoài số tá điền làm thuê theo mùa vụ khá đông, trong nhà Chánh dũng Xoan bao giờ cũng có đến chục gia nhân, đày tớ. Nghe nói, có lần mấy dãy nhà Chánh dũng Xoan bị cháy.  Sợ người nghèo mượn cớ chữa cháy, tràn vào hôi của, nên dù nhà cháy đang cháy to, Chánh dũng Xoan vẫn bắt gia nhân đóng chặt các cổng. Do đó, gia sản không bị mắt cắp nhưng bị thiêu trụi khá nhiều. Hòm đựng tiền bị cháy, tiền đồng, tiền chinh tung tóe, vung vãi. Mấy hôm sau có người đến xem, nhặt được nhiều đồng tiền bị lửa nung đổi mầu. Là nhà giàu nhưng mấy người con trai của Chánh dũng Xoan chẳng được đi học. Họ vẫn tham gia lao động chân lấm tay bùn như mọi nông dân khác.

 Trong phong trào Xô viết Nghệ An (1930 - 1931), làng Đại Xá đã có Chi bộ Cộng sản với các đảng viên: Lê Văn Sâm, Lê Văn Tời và Nguyễn Văn Oanh. Quần chúng trung kiên của phong trào thì nhiều. Các cụ kể lại rằng, năm Cộng sản (xưa  nay người ở đây vẫn gọi vậy), Đảng phát động quần chúng biểu tình vây đánh đồn Cồn Thông của Pháp ở cuối xã. Lực lượng tấn công chỉ có giáo mác, gậy gộc, thậm chí có người chỉ tay không. Khi quân Pháp ở trong đồn dùng súng bắn ra dữ dội, phản kích trở lại, quần chúng bị thương vong nhiều, phải rút lui. Năm đó, cụ cựu Kiêng (Lê Văn Kiêng) mặc dù rất căm thù giặc Pháp, nhưng không tin vào thắng lợi của lớp con cháu. Cụ cựu Kiêng đã nói với con trai là Lê Văn Sâm rằng: Không được đâu! Nếu các con thắng được Pháp, thì cha sẽ đi xách dép cho. Khi cách mạng thoái trào, thực dân Pháp và tay sai ráo riết lùng bắt các chiến sĩ Cộng sản và những quần chúng trung kiên. Ông Nguyễn Văn Oanh bị địch bắt đày đi Lao Bảo rồi Kon Tum. Nghe nói, ông Oanh là người cao to, quắc thước, lại có học nên khi bắt được, kẻ địch tuyên truyền đã bắt được lãnh tụ Cộng sản. Ông Oanh hy sinh trong nhà tù thực dân. Đến nay con cháu rất cố gắng mà vẫn chưa biết được phần mộ.

 Sau Cách mạng Tháng 8 - 1945, giặc Pháp gây hấn ở Nam Bộ. Có hai thanh niên Đại Xá tòng quân đợt đầu tiên, lên tàu hỏa cùng đơn vị đi Nam tiến chiến đấu, đó là: Nguyễn Văn Hòa và Lê Văn Hòa. Đợt nhập ngũ vào Giải phóng quân tiếp theo vào tháng 4/1946 có ba người là: Nguyễn Văn Được, Lê Văn Chưu và Lê Văn Lẫm. Lúc ấy, ông Lê Văn Lẫm tròn 20 tuổi - là người trẻ nhất. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông Lê Văn Lẫm giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo cao xạ bảo vệ Đường Chiến lược 559, bị hy sinh năm 1972 trong một trận chiến đấu quyết liệt với máy bay Mỹ, được Nhà nước truy tặng Danh hiệu Anh hùng LLVTND.

 Đại Xá có ông Lê Văn Cần được tổ chức tin tưởng chọn lựa trực tiếp phục vụ Bác Hồ từ trong kháng chiến chống Pháp cho tận đến ngày Bác Hồ từ trần. Tên thật ông là Lê Văn Nhợng, khi lên Việt Bắc, được Bác Hồ đặt tên mới: Lê Văn Cần. Ông là người đứng đầu bảng trong tổ phục vụ Bác Hồ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Sau khi Bác Hồ mất, ông Cần được Phủ Chủ tịch giao nhiệm vụ tiếp tục lưu giữ, bảo quản những kỷ vật trở thành di tích của Bác. Mãi hơn 70 tuổi ông mới được nghỉ hưu.  Được biết, với đạo đức thanh liêm, giản dị, sinh thời Bác Hồ chỉ có mấy bộ quần áo kaki sờn cũ. Để thay số quần áo cũ, nhiều lần cơ quan Văn phòng Phủ Chủ tịch đã dấu Bác giao cho ông Cần là người đóng thế Bác đo may quần áo. Vì số đo của ông Cần bằng số đo của Bác Hồ. Khi quần áo may xong, ông Cần lẳng lặng đặt vào tủ thay quần áo cũ. Tuy cùng kiểu, cùng mầu, nhưng Bác Hồ phát hiện được. Có lần Bác đã phê bình: Quần áo đang dùng được mà đã thay bộ mới là gây lãng phí công quĩ. Năm 1957 và năm 1961, Bác Hồ về thăm Nghệ An, ông Cần cùng đi nhưng tạt về Đại Xá thăm nhà kết hợp mua ít khoai lang và cà pháo mang ra Hà Nội. Đây là hai thứ "đặc sản" của quê nhà mà Bác Hồ vẫn thích.

 Cũng như bao làng quê Việt Nam, trải qua các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo về Tổ quốc và làm Nghĩa vụ quốc tế, nghe theo tiếng gọi non sông, lớp lớp trai tráng Đại Xá nối tiếp nhau lên đường chiến đấu trên các chiến trường. Trong đó có nhiều trai làng Đại mới qua tuổi thiếu niên, khai tăng tuổi để được tòng quân đánh giặc. Trước họa xâm lăng, cả nước lên đường, âu chuyện đó đâu có là hy hữu.  Trong cuộc chiến đấu cam go, quyết liệt với kẻ thù trên các chiến trường, nhiều người đã anh dũng hy sinh khi tuổi xuân còn phơi phới và nhiều người mang đầy thương tích, bệnh tật ngày trở về.

 Liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp là: Nguyễn Văn Oanh, Nguyễn Văn Ưu, Nguyễn Văn Ký, Nguyễn Văn Kiên, Lê Văn Thống, Nguyễn Đình Vị, Phan Ngọc Cường,…Thương binh trong kháng chiến chống Pháp là hai người con trai của Liệt sĩ Nguyễn Văn Oanh: Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Bá. Ngẫu nhiên trùng hợp là hai anh em đều bị cụt cánh tay phải. Nguyễn Văn Hòa bỏ lại cánh tay trong một trận chiến đấu với giặc Pháp ở chiến trường Nam Trung bộ. Nguyễn Văn Bá là dân quân bỏ lại cánh tay trên mảnh đất quê hương. Đó là lần ông Bá xung phong ném thử lựu đạn, chuẩn bị chặn đánh địch đổ bộ lên Cửa Lò. Khi dang tay ném thì lựu đạn nổ. Liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, từ chiến trường Trị Thiên đến chiến trường Nam Bộ, là : Lê Văn Minh, Lê Văn Lẫm, Lê Văn Ưng, Lê Văn Năm, Lê Văn Tư, Nguyễn Văn Nam, Nguyễn Quốc Thái,…Liệt sĩ hy sinh trong làm Nghĩa vụ quốc tế ở Cămpuchia có Lê Văn Quang,...Đại Xá là một làng quê bé nhỏ chỉ mấy trăm hộ dân mà đã có ngần ấy người hy sinh trong chiến tranh cách mạng. Thế mới biết, với cả nước, cái giá phải trả cho Độc lập Tự do của Tổ quốc, cho cuộc sống thanh bình của nhân dân là vô cùng to lớn.

Trong kháng chiến chống Pháp trên đất Đại Xá là yên lành. Không có người nào bị thương vong tại quê nhà. Năm 1953, ông Hương Danh (Nguyễn Gia Danh) gửi thư tay cho con trai là Nguyễn Gia Quang đang chiến đấu ngoài mặt trận có đoạn: “ Xóm làng ta vẫn bình yên mạnh khỏe. Riêng ông Thạch Quang Nhưng - tức Phợi - bị tàu bay xạ tệ tại Cồn Dê ”. Cồn Dê cạnh đường quốc lộ 1A, cách làng Đại Xá khoảng 5 cây số, bị máy bay Pháp oanh tạc năm 1953. Bây giờ đây là nơi tiếp giáp giữa ba xã: Nghi Long, Nghi Xá, Nghi Thuận.

 Mặc dù Khu 4 là trọng điểm đánh phá của không quân và hải quân Mỹ trong chiến tranh phá hoại, nhưng tại làng Đại Xá vẫn không ai hề hấn gì. Duy chỉ có một lần, năm 1968, máy bay Mỹ ném một quả bom trúng vườn ông Châu (Nguyễn Đình Mợi) nhưng lại chui sâu xuống lòng đất không nổ. Đến bây giờ nơi ấy là nhà bà Nhiên đang ở, chưa ai khai quật quả bom lên, chắc đã tịt ngòi.

Dọc theo thời gian, qua từng thế cuộc thăng trầm, Đại Xá - một làng quê bé nhỏ, nghèo khó, bình dị mà rất đỗi ấm áp, yêu thương. Trên mảnh đất này, còn có rất nhiều điều để kể về biết bao cuộc đời, biết bao số phận. Là quê cha đất tổ, nơi chôn rau cắt rốn, vườn ươm đầu đời trên nhiều phương diện của nhiều thế hệ. Chắc chắn rằng, làng Đại Xá là niềm tự hào, là điểm nhớ trong suốt cuộc đời của mỗi một người sinh ra ở đó. Và rồi cả con cháu họ nữa.  Nhà thơ Giáp Văn Thạch và Nhạc sĩ Đỗ Trung Quân thật đúng khi viết ca từ: “Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người…”.

Làng Đại Xá là một làng nhỏ. Sau này, khi lớn lên đã đi qua nhiều vùng quê, tôi cứ tự hỏi tại sao làng mình, một làng nhỏ như vậy mà lại gọi là làng Đại. Xem lịch sử các dòng họ (gia phả), các chứng tích còn lại, tôi nghĩ rằng làng Đại Xá hình thành khoảng 300 trăm năm nay. Thuở ban đầu chắc chỉ là một xóm trại (ấp) do các ông tổ của các dòng họ: Lê, Nguyễn Văn, Nguyễn Gia, Phan Ngọc,..khăn gói từ các vùng quê khác đến lập cơ nghiệp, sinh con đẻ cái. Tính đến nay gia phả của các dòng họ trong làng cũng mới ghi được trên dưới mười đời. Trong làng có một cây đa duy nhất được coi là cổ thụ. Nghe kể, cây đa này do cố Lê Văn Tế đi chợ Sơn mang về trồng. Mà từ cố Tế đến nay cũng mới chỉ bốn đời.

Làng Đại Xá trước đây có đền và chùa. Đền thờ Thành Hoàng. Cả đền, chùa mới có từ đầu thế kỷ 20, do những người cùng thế hệ ông nội tôi xây dựng. Được biết toàn bộ gỗ dựng đền được xẻ ra từ một cây lim to, các cụ mua tận Phủ Quỳ rồi chở bè về cách hơn trăm cây số. Khi tôi lớn lên đền, chùa còn đẹp lắm, đã trở thành nơi hội họp của làng và là chỗ học của học sinh. Ngày đó xung quanh đền, chùa là mấy lùm khá rộng rậm rạp với nhiều loại cây và đẹp tựa như hai vạt rừng nguyên sinh. Mùa hè đi dạo trong đó rất mát. Ở chùa còn có hai cây thị cao to, nhiều quả chín mọng thơm lựng.

 Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lệ làng là hàng năm cứ đến sáng mồng Một tết Nguyên đán, cả làng tập trung chúc Tết và chúc thọ Cụ Hồ ở đền. Các cụ già khăn áo chỉnh tề, chân đi guốc mộc đến cửa đền đều hô to một cách cung kính: “Chào làng, chào Cụ Hồ”.  Ăn cỗ ở làng bao giờ cũng chia phần cho các chiến sĩ đang tòng quân. Phần ít thôi, một đĩa xôi, một miếng thịt luộc, hoặc gà hoặc lợn. Nhưng là một miếng giữa làng hơn một sàng trong bếp. Gia đình binh sĩ được mang suất phần đó về. Một việc nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn, góp phần tôn vinh các gia đình quân nhân tại ngũ, động viên bộ đội đang ngày đêm chiến đấu trên các chiến trường. Đến năm 1957 đền và chùa bị dỡ ra để lấy vật liệu xây trường phổ thông cấp I của xã. Cả lùm chùa và lùm đền đều đã bị phá để lấy đất tăng gia. Đến nay chẳng còn dấu tích gì nữa.

Đất không rộng, người không đông, kinh tế khó khăn, khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Nói chung, tính cách người dân quê tôi cương trực, cần cù, hiếu học, tiết kiệm và đoàn kết. Những đặc trưng đó là do điều kiện địa lý, lịch sử, kinh tế và văn hóa hun đúc nên từ bao đời nay.

Không được thiên nhiên ưu đãi đồng ruộng phì nhiêu, mưa thuận gió hòa, quê tôi là vùng đất cát pha bạc mầu. Ruộng đồng chia làm hai mùa rõ rệt. Vụ mùa lúa được cấy ở ruộng nước và gieo hạt ở ruộng khô. Vụ chiêm thì chỉ cấy lúa ở ruộng nước, còn ruộng khô thì trồng khoai, ngô, đỗ, lạc, vừng,…Thu hoạch vụ chiêm vất vả lắm. Trời nắng chói chang. Gió Lào nóng bỏng. Công việc bộn bề. Phần đông người quê tôi, bất kể gái trai, da dẻ đều cháy đen trong những tháng hè. Xã tôi không có sông. Cách biển (Cửa Lò) khoảng hai cây số. Cách sông Cấm khoảng bốn cây số. Sông Cấm là con sông đào từ thời Hậu Lê.

Trong vùng có hai cái đập: đập Xã và đập Họ. Hai cái đập cách nhau một con đường, nói đúng hơn là một con đê. Nước đập Xã chảy sang đập Họ qua một cái cống (trẻn) để chảy ra biển. Trước đây cả hai đập còn sâu, rộng, nước trong xanh. Con trai, con gái lớn lên đều tập bơi và biết bơi từ hai cái đập này. Quanh năm đập được bảo vệ nghiêm ngặt không để bất cứ ai khai thác cá. Mỗi năm tổ chức đánh cá ở đập một lần (tiếng địa phương gọi là đánh đập) vào cuối tháng 6 âm lịch, sau khi đã thu hoạch xong vụ chiêm. Khi có hiệu lệnh phát ra, kẻng gõ dồn dập, trống khua ầm ỹ, hàng nghìn người trai, gái, già, trẻ đổ ra đập như đi trẩy hội. Có người dùng vó (chậm), lưới, nhủi. Còn phần đông là dùng nơm dàn hàng ngang hết đợt này đến đợt khác úp cá cứ như các khối duyệt binh, tuần hành trong các lễ hội. Đã qua hơn nửa thế kỷ, đến nay trong tôi cảm xúc vẫn còn tươi nguyên cái không khí vui  vẻ, nhộn nhịp, hối hả, nô nức của những lần đánh đập. Ở quê tôi bây giờ không còn đánh đập nữa.

Ông nội tôi  là Nguyễn Văn Hành, gọi trệch là Hiềng, sinh năm 1870, là con út trong một gia đình có ba anh em trai. Ông cả là Nguyễn Văn Ngơn (Xuơn), ông thứ hai là Nguyễn Văn Điền. Mặc dù như nhiều người cùng thế hệ, không được đi học, nhưng ông nội tôi lại thuộc rất nhiều câu thành ngữ, châm ngôn có tác dụng giáo dục sâu sắc, nhất là trong gia đình. Ông cũng thuộc lòng nhiều chuyện thơ nôm, nhiều điển tích lịch sử, cả ta lẫn Tàu. Bà nội tôi là Nguyễn Thị Thêu thua ông nội hơn mười tuổi. Sinh ra trong một gia đình không giàu có nhưng rất gia giáo. Bà là người siêng năng, tần tảo,đảm đang, chu toàn lo toan việc nhà, việc họ, việc làng. Bà giáo dục con cái rất khuôn phép, nghiêm khắc, mà lại rất công bằng và tình cảm.

Gia đình ông nội tôi theo nền nếp truyền thống nông thôn Việt Nam thuở đó. Nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng chung sống dưới một mái nhà, quan niệm rằng tam đại, tứ đại đồng đường mới là phúc đức. Trong nhà mặc dù  ba người con trai đã lấy vợ, sinh con mà vẫn ở chung, làm chung và ăn chung với ông bà. Mọi việc trong gia đình đều do bà nội tôi điều hành, xoay xở. Một gia đình lớn hơn mười người, nhiều thế hệ với nhu cầu và tính cách khác nhau, mấy gian nhà tranh chật chội, công việc bộn bề, đời sống khó khăn vất vả, nhưng chung sống với nhau  thuận hòa. Ông bà mẫu mực, công bằng, nghiêm khắc, tình cảm; con cái đoàn kết gắn bó, chịu khó, chịu thương. Nhờ biết lo liệu làm ăn, siêng năng, cần kiệm, từ chỗ nghèo túng, gia đình khá dần lên. Có được như vậy cũng là nhờ sự lo toan, đảm đang, tần tảo của bà nội tôi. Như người xưa từng nói:  phúc đức tại mẫu. Hạnh phúc của một gia đình, nhất là sự thành đạt của các người con, trước hết tùy thuộc vào vai trò của người mẹ. Trong gia đình, ảnh hưởng của người mẹ đến các con thường là chủ yếu.

Bà cô cả của tôi tên là Nguyễn Thị Tuệ, lấy chồng người làng Kỳ Sơn. Trước đây có lần tôi nghe kể khi cô sinh con, hàng ngày bà nội tôi cứ khoảng 8 giờ tối cơm nước xong vội vã tất tả vào làng Kỳ Sơn để chăm cháu ngoại. Đến khoảng 4 giờ sáng bà lại bươn bả trở về nhà cho kịp gánh bánh đi bán phiên chợ sáng. Trên đường về có chỗ nước sâu phải bơi một mình giữa trời đêm, có khi còn mưa gió, rét mướt. Tôi cho rằng, bà làm được việc đó là xuất phát từ trách nhiệm, tình cảm và bản năng nữa. Vợ chồng cô tôi dù nghèo nhưng rất tốt tính.

 Mọi người trong gia đình đều nói rằng, bác Tần là người cường tráng, phúc hậu. Tôi không biết mặt bác, vì bác mất ba năm rồi tôi  mới sinh. Cha tôi kể, trong phong trào Xô Viết Nghệ An năm 1930-1931, mặc dù chưa phải đảng viên cộng sản nhưng bác Tần là quần chúng trung kiên chí cốt của phong trào. Bác đã dũng cảm hăng hái tham gia rải truyền đơn, biểu tình, trấn áp bọn phản cách mạng. Bác thường giấu truyền đơn trong gáng hàng mang đến rải ở chợ Sơn, chợ Quán, chợ Đình. Bác tham gia biểu tình, cùng nhân dân vây đánh đồn Pháp ở núi Cồn Thông (cuối xã tôi). Khi quân Pháp trong đồn dùng súng bắn dữ dội, phản kích trở lại, đoàn biểu tình chỉ có giáo mác, gậy gộc, thậm chí nhiều người chỉ tay không, bị thương vong nhiều và rút lui. Sau đó mấy tháng trong thoái trào của cách mạng, thực dân Pháp và tay sai ráo riết bắt bớ, đàn áp dã man những người tham gia. Ông bà tôi đã phải bố trí cho bác Tần trốn lên miền ngược một thời gian. Trong họ tôi có ông Nguyễn Văn Oanh, tôi gọi bằng chú, bị địch bắt. Ông Oanh là người có học lại cường tráng, kẻ địch tuyên truyền đã bắt được lãnh tụ Cộng sản. Ông bị giải đi tù ở Lao Bảo, Kon Tum, rồi bị hy sinh trong nhà tù. Đến nay mặc dù con cháu đã tìm mọi cách mà vẫn chưa tìm thấy mộ.

Anh Tần là con trai cả của bác Tần. Quê tôi trước đây là vậy, bố thường mang tên người con đầu. Anh Tần là người hiếu học, thông minh. Anh coi đọc sách là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống. Tính cách anh Tần thẳng thắn, trung thực, thậm chí có lúc hơi thái quá. Tôi được anh Tần chăm sóc, bảo ban từ khi còn bé. Trọn đời anh em chúng tôi thương quí nhau như anh em ruột.

Chú Cát được ông bà nội tôi cho ăn học nhiều năm từ trường làng đến trường xã, cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ. Chính khi học ở trường xã, chú được giác ngộ cách mạng trong phong trào học sinh. Ông Nguyễn Trường Khoát, sau này làm Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An trong kháng chiến chống Pháp, là thầy học đồng thời là người giác ngộ cách mạng cho chú. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 chú Cát nhập ngũ. Kết thúc chiến tranh chú chuyển ngành rồi nghỉ hưu ở thị trấn Vĩnh Trụ, tỉnh Hà Nam. So với những người cùng thời, chú Cát là người có học, giao lưu rộng, trải nghiệm nhiều, vốn sống phong phú. Chú rất quan tâm đến chúng tôi. Khi bày dạy các cháu, chú thường dẫn dụ giảng giải sâu sắc. Tôi nhớ hồi tôi lên mười tuổi, trong nhà treo tranh tứ bình. Chú đọc và giải thích rành rõ từng bức tranh:

“ Xuân thiên mai nhụy phô thanh bạch

Hạ nhật hồng hoa đấu hảo kỳ

Cúc ngạo thu tình hương vạn hộc

Tùng lăng đông tuyết ngọc thiên chi”.

 Nghĩa là: Giữa trời Xuân những bông mai vàng phô lên sự thanh bạch.Vào ngày Hè những bông hồng đua nhau đẹp như màu cờ. Những bông cúc cười tình tứ, tỏa hương giữa mùa Thu. Giữa mùa Đông tuyết trắng phủ, những cây tùng đẹp đẽ như những viên ngọc trời cho.

Quả là hay thật, thơ tả theo tranh, tranh họa theo thơ. Mãi đến bây giờ tôi vẫn nhớ, mặc dù tôi không biết tác giả bài thơ thất ngôn tứ tuyệt và những bức tranh tứ bình từ xưa là ai.

 Cha tôi là Nguyễn Văn Được, tên thường gọi là Hòe, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1914. Đến tuổi trưởng thành cha tôi rất khỏe. Sau này nhiều người trong làng kể lại rằng, hồi đó có một ông thầy cúng (có thể là thầy phù thủy) đi cả vùng mới chọn tìm được một người ngồi đồng. Khi lên đồng chẳng biết phép thuật của thầy cách nào mà cha tôi chân trần có thể bước lên giàn than lửa, lưỡi cày, lưỡi dao nung đỏ rồi nhảy phắt lên một cái bàn cao, miệng đọc sớ, tay cầm bút lông kê đơn thuốc chữa bệnh. Mặc dù không biết chữ nho, cũng không biết nghề thuốc, vậy mà cha tôi lại kê đơn thuốc chữa bệnh được cho nhiều người. Việc này, cả người kể, người nghe và cả cha tôi đều không giải thích được. Chỉ biết đó là một việc có thật. Dù không biết vì sao nhưng chắc chắn rằng, để làm được điều đó phải là người khỏe mạnh và có một năng lực nào đó, mà người bình thường không thể làm được.

Cha tôi kể, vào khoảng năm 1935, thực dân Pháp tuyển lính lê dương đi Ma- rốc, An-giê- ri, Tuy- ni- di. Cả xã Thượng Xá bắt đi khám tuyển rất đông mà chỉ trúng được hai người: ông Lưu - con trai cố Cu Trường và cha tôi. Bà nội tôi sợ con trai đi lính chết trận, nên đã bố trí cho cha tôi trốn lính. Ông Nguyễn Gia Khánh (Thựu) là hương bản cho người truy bắt không được, đã mắng te tát bà nội tôi:

- Bà đẻ ra con trai. Phận nam nhi hoặc là học lên để sau này đỗ đạt ra làm quan, hoặc đi lính sau này lập nên công trạng có thể làm tướng. Con bà đã không đi học để làm quan, chỉ còn mỗi con đường đi lính để may ra làm tướng. Tại sao bà không cho đi lính?

Bà tôi dõng dạc trả lời:

- Tôi không ước ao con làm quan, làm tướng gì cả! Mong được làm dân sống yên thân thôi. Đi lính làm tướng đâu chẳng thấy nhưng dễ phải chết trận lắm.

Vào đầu những năm 1940, thực dân Pháp và hào lý ở địa phương hà hiếp dân mình. Sưu cao, thuế nặng, phu phen, tạp dịch triền miên. Trong một lần cùng thanh niên trai tráng địa phương đấu tranh quyết liệt chống đi phu, cha tôi cùng ông Nguyễn Đình Phát và ông Lê Văn Tửu là ba người hăng hái trung kiên nhất, bị lính lệ bắt trói giải lên huyện đường, đánh đập tra tấn dã man. Xót con bị đòn đau, ông nội tôi cùng ông Nguyễn Đình Chía và ông Lê Văn Tế lên huyện đường xin được tha. Huyện đường cách nhà 7 cây số. Tới nơi gặp cả ông hương bản Nguyễn Gia Khánh (Thựu) đang khúm núm tấu trình tri huyện. Ông Khánh quay sang quát mắng ông nội tôi và các bô lão:

- Các người là phụ bất năng giáo tử (tức là cha không dạy được con). Chúng nó làm làm loạn, phải trị bằng được. Không trị để chúng nó làm giặc à?

 Một câu nói vừa lấy uy với dân lành, vừa tâng công lấy lòng thượng cấp. Cha tôi và mấy thanh niên bị giam ở nhà lao huyện mất một thời gian thì được tha.

Cũng thật lạ, làm hương bản cho chế độ cũ bao nhiêu năm, vậy mà đến ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông Khánh lại là Đảng viên Cộng sản quay sang giữ chức Phó Chủ tịch xã Xá Lệnh (gồm 3 xã ngày nay : Nghi Hợp, Nghi Xá, Nghi Quang). Còn cha tôi được đoàn thể cử giữ chức Đội phó Đội Tự vệ của xã. Đội Tự vệ ngày đó có chức năng bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, với nhiệm vụ gần như công an và xã đội bây giờ gộp lại.

Mãi đến bây giờ tôi vẫn băn khoăn và chưa kịp hỏi cha tôi, phong trào đấu tranh lúc đó do quần chúng tự phát hay do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nếu do quần chúng tự phát thì thật đáng kính trọng và cũng thuận theo quy luật: có áp bức là có đấu tranh. Còn nếu do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thì nghiễm nhiên theo chính sách hiện hành, cha tôi được suy tôn là lão thành cách mạng, hưởng chính sách ưu đãi người có công.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cha tôi đi Giải phóng quân. Ông nhập ngũ ngày 6 tháng 4 năm 1946 vào Trung đoàn Nghệ An, còn gọi là Trung đoàn Đội Cung ( sau này đổi tên là Trung đoàn 57). Cùng tòng quân với ông, trong làng còn có ông Lê Văn Chưu và ông Lê Văn Lẫm. Gọi là trong làng nhưng thực ra ba nhà cách nhau trong vòng 50 mét. Ông Chưu sau giải phóng Miền Bắc chuyển ngành làm Bí thư Đảng ủy Nông trường Quyết Thắng ở Vĩnh Linh rồi về hưu ở quê, mất năm 2000. Ông Lê Văn Lẫm ở bộ đội liên tục. Trong chống Mỹ, ông Lẫm làm trung đoàn trưởng pháo cao xạ ở Bộ Tư lệnh Trường Sơn, hy sinh năm 1972, được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngày lên đường, cả ba gia đình đều đưa tiễn ở ga Cầu Cấm (bây giờ không còn ga này nữa). Gia đình ông Chưu có bà Chưu, ông Chương, ông Bằng. Gia đình ông Lẫm có bà Lẫm, ông Dụ (Dũng). Gia đình tôi có mẹ tôi và chú Cát. Mọi người chia tay nhau trong bịn rịn, lưu luyến nhớ thương. Tàu chuyển bánh, mỗi người đưa tiễn cầm một cành thông để vẫy cho đến khi đoàn tàu khuất bóng .

Bà Lẫm lúc đó 19 tuổi, mới cưới mấy tháng, chưa có con. Bà Chưu đã có hai con trai, anh Trân và anh Minh. Mẹ tôi mới có chị Hòe.

Trên đường quay về, bà Lẫm nói:

- Khổ thân chị Hoe! Từ nay anh ấy đi rồi, chị phải tự đi cày.

Mẹ tôi tủi thân, khóc nức nở.

Quê tôi trước đây có tục phụ nữ khi lập gia đình thì gọi theo tên chồng, với nhà bình dân sinh con trai đầu gọi bằng cu, sinh con gái đầu gọi bằng hoe, đặt trước tên người chồng. Mẹ tôi lúc đó gọi là chị Hoe Được.

Huấn luyện xong cha tôi được điều động vào Bộ đội Tiếp phòng quân đóng ở Hải Phòng do ông Lê Thiết Hùng làm Chỉ huy trưởng, ông Trần Văn Quang làm Chính ủy.

 Ông Lê Thiết Hùng quê ở xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, hoạt động cách mạng từ rất sớm, là con rể cụ Hồ Học Lãm, quê ở làng Quỳnh Đôi - nhà Cách mạng Việt Nam đồng thời là Tướng quân trong quân đội Quốc Dân Đảng. Ông Lê Thiết Hùng được Bác Hồ gửi đi học ở Trường Hoàng Phố. Thời kỳ Quốc Cộng liên minh chống Nhật, ông được tổ chức cử vào quân đội Tưởng Giới Thạch, với quân hàm Đại tá, giữ chức Sư đoàn trưởng. Sau khi về nước tham gia giành chính quyền, ngày 24 tháng 9 năm 1946 ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Đây là vị tướng đầu tiên của quân đội ta. Ông Trần Văn Quang sinh ra trong một gia đình cách mạng ở xã Nghi Hoa, huyện Nghi Lộc; sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam nhiều năm.

 Tiếp phòng quân được tổ chức sau Hiệp định sơ bộ  6-3 giữa ta và Pháp, có nhiệm vụ canh gác đối xứng với quân Pháp ở các căn cứ, các công sở, ở các thành phố, thị xã. Sau một thời gian ngắn, Pháp trở mặt không thi hành Hiệp định, bắt đầu quay lại xâm lược nước ta. Các đơn vị Tiếp phòng quân đánh nhau với quân Pháp ngay từ đầu. Sau này cùng ông trở lại Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Nam Định, tôi được cha tôi kể lại những ngày oanh liệt đó. Sau khi thất thủ ở Hải Phòng, các đơn vị của ta lùi dần về phía sau để bảo toàn lực lượng. Vừa rút lui vừa phá hoại giao thông để cản bước làm chậm tốc độ tiến công của quân Pháp. Các cụ lùi dần qua Cầu Rào, về Kiến An, Đồ Sơn, rồi Thái Bình, Nam Định. Thời gian trụ lại chiến đấu ở Thái Bình là lâu nhất. Chính thời gian đó cha tôi được Ủy ban Kháng chiến tỉnh Thái Bình tặng bằng khen về thành tích chiến đấu bắn cháy ca nô địch trên sông Thái Bình.

Cha tôi thuộc lòng từng địa danh vùng Đông Hưng, Vũ Thư cho đến cầu Tân Đệ. Có sự trùng hợp ngẫu nhiên, sau này con gái tôi, cháu Nguyễn Trần Thùy Vinh lấy chồng quê ở Thái Bình. Năm 2002, ông và vợ chồng tôi về thăm nhà thông gia lại đến đúng làng Ký Con, xã Đông Xuân - cái làng mà từ năm 1946 - 1947, cha tôi đã từng chiến đấu. Gần 60 năm trở lại, mặc dù cảnh vật đã có nhiều thay đổi, nhưng cha tôi vẫn nhận ra được những mốc chính từ Cầu Bo đến ngã ba Gia Lễ. Hỏi lại người xưa, lớp cũ chẳng ai còn. Lớp sau, những cụ già 70-80 tuổi khi nghe cha tôi nhắc lại những sự kiện, tên người, tên đất đều mừng mừng, tủi tủi. Cha tôi về lại Thái Bình, về làng Ký Con được ba lần.

Gần 2 năm chiến đấu, vì sức khỏe yếu (bị sốt rét, bị ngã đau lưng trong một lần vượt tường ), ngày 6 tháng 12 âm lịch năm 1947, cha tôi được đơn vị cho về nhà chữa bệnh. Mẹ tôi mang thai và sinh ra tôi trong dịp đó. Sau gần một năm cha tôi trở lại đơn vị.

Sau khi trở lại đơn vị cha tôi tham gia nhiều chiến dịch. Lúc đầu ông được biên chế vào đơn vị xung kích. Xung kích ngày đó, theo ông kể, mỗi tiểu đội có 7 người thì có 1 khẩu súng tuyn, 3 khẩu súng trường, còn lại là mã tấu, kiếm, giáo mác. Chỉ khi đánh nhau giáp la cà thì kiếm, mã tấu, giáo mác mới phát huy tác dụng. Còn khi địch ở xa, chỉ nằm nhìn mấy người có súng bắn thôi. Mấy năm sau ông được điều về làm tiểu đội trưởng thông tin điện thoại của Đại đội 164, Trung đoàn 57 Đại đoàn 304. Làm lính thông tin điện thoại trong chiến đấu theo ông rất vất vả, nguy hiểm.

Thông tin điện thoại là người luôn đi trước về sau trong mọi trận đánh. Trận đánh phát triển thuận lợi, kết thúc gọn gàng, thắng lợi giòn giã thì suôn sẻ. Trận đánh lùng nhùng, dở dang hoặc thất bại thì lính thông tin đi thu lại đường dây rất dễ thương vong, thậm chí có khi bị bắt. Cha tôi kể, có lần ông đi thu hồi đường giây, bị địch phát hiện và đuổi bắt. Ông chạy dọc bờ đê, may chui xuống cống ngầm mới thoát.

Năm 1950, cha tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông tham gia các chiến dịch Hòa Bình, Hoàng Hoa Thám, Hà - Nam - Ninh và đến đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông giữ chức trung đội phó, chi ủy viên của Đại đội 164 Trung đoàn 57 Đại đoàn 304. Đại đội 164 do ông Hoàng Như Ấm làm chính trị viên. Trung đoàn 57 vây đánh cứ điểm Hồng Cúm giành thắng lợi lớn nhưng thương vong nhiều. Nói chung, chiến dịch Điện Biên Phủ là vậy. Sau này, cha tôi ra chơi với gia đình tôi ở Khu tập thể gia đình quân nhân ở 1A - Hoàng Văn Thụ - Hà Nội. Gần nhà tôi có ông Hoàng Như Ấm công tác ở Cục Khoa học quân sự - Bộ Tổng Tham mưu. Tình cờ một buổi sáng trông  thấy cha tôi đi dạo bộ,  ông Ấm reo lên:

- Ôi! anh Được! Anh đi mô đó ?

Cha tôi thốt lên:

- Ôi! Hoàng Như Ấm! Ở đây à? Mình ra chơi nhà con trai.

Ông Ấm cảm động nói:

-  Trời! ở đây bao nhiêu năm, biết nó lâu rồi mà đâu biết là con anh.

 Cha tôi kể ông Ấm là người Huế, ngày đó gầy gò bé nhỏ. Khi ông Ấm bị thương, cha tôi cõng ông bê bết máu với bùn.

Cuối năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cha tôi về phép.Tôi nhớ một buổi chiều tháng Mười, trên cánh đồng Nạy đã gặt và cắt rạ xong, lũ chúng tôi  trần truồng như nhộng khoảng dăm, bảy đứa, mặt bê bết bùn, đang bốc đất be bờ ngăn ruộng để tát cá. Chơi là chính chứ thực ra chỉ bắt được mấy con cá rô, cá diếc bé tý tẹo để nướng và chấm muối ăn tại chỗ. Đang say sưa vừa tát cá vừa đùa nghịch thì có một chú bộ đội vai khoác ba lô đi qua, nửa như hỏi đường nửa như xem xét:

- Các cháu là con cháu người làng Đại Xá phải không?

 Một đứa lớn nhất bọn, hình như là anh Dần con bác Thuần, trả lời:

- Đúng đấy ạ, nhưng mà chú hỏi về nhà ai?

- Chú hỏi về nhà chị Hoe Được.

 Tự nhiên nghe có người nói tên mẹ mình, tôi nhanh nhẩu nói:

- Thế thì là nhà cháu.

Chú bộ đội giật mình, với ánh mắt vừa phảng phất đăm chiêu cảm động, vừa thẫn thờ mừng rỡ:

- Thế ra, con là Đấu đấy à. Dẫn cha về nhà đi con.

Nói rồi, cha tôi ôm choàng lấy tôi:

- Ôi! Con trai tôi đây rồi!

Tôi ngơ ngác trong vòng tay của ông. Rồi cả bọn trẻ cứ thế trần truồng lục tục dắt díu nhau kéo về nhà tôi.

 Đây là lần đầu tiên trong đời tôi biết mặt cha tôi. Một người trung niên đen xạm, quắc thước, khỏe mạnh, chân đi dép lốp, đầu đội mũ nan lợp vải, phía trước có quân hiệu. Lúc đó tôi tròn 6 tuổi. Về tới nhà, cha đưa tôi sang giếng cố Vận bên cạnh nhà múc nước kỳ cọ tắm gội. Ông xát xà phòng tắm lên khắp cả người tôi thơm phức. Đó là loại xà phòng Pháp, chiến lợi phẩm thu được ở trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Mãi đến bây giờ tôi vẫn nhớ mùi thơm đặc trưng của loại xà phòng đó. Cha tôi mang về nhiều thứ : ba lô, võng dù, màn tuyn, ca uống nước, bi đông, đèn pin, khăn mặt, máy lửa, dây dù các loại. Tất cả đều là chiến lợi phẩm. Cái gì cũng lạ đối với chúng tôi lúc đó.

  Ông nói:

- Đây là hàng tiếp tế của Mỹ, thả dù xuống cho lính Pháp bị vây hãm ở Điện Biên Phủ. Dù theo gió bay sang trận địa ta, bộ đội thu được.

Sau mấy bữa quan sát tôi thấy cứ mỗi buổi sáng ngủ dậy cha tôi đánh răng. Mà quê tôi thuở đó có ai biết đánh răng là thế nào đâu. Một lần tôi tò mò mở ra xem, đưa lên mũi ngửi thử thấy thơm, thè lưỡi liếm thử thấy ngọt, tôi đậy nắp lại  chạy vội sang nhà đứa bạn thân tên là Năm khoe:

- Cha tao mang về có loại kẹo gì vừa ngọt, vừa thơm, vừa cay, mày sang hai đứa ta cùng ăn.

Năm và tôi đi tắt qua mấy vạt vườn quay về nhà tôi. Tôi mang hộp thuốc đánh răng của cha tôi ra bóp cho mỗi đứa ăn một khúc. Ôi thôi! Cả hai đứa bị đau bụng và đi lỏng suốt một ngày vì ăn phải xà phòng. Phan Ngọc Năm là con trai út của ông Phan Ngọc Cường, người cùng làng. Ông Cường đi dân công ở Thượng Lào, bị sốt rét hy sinh năm 1953, được xác nhận liệt sỹ. Hồi nhỏ Năm cùng học và chơi thân với tôi. Học hết phổ thông trung học, Năm đi bộ đội, là con liệt sĩ được ưu tiên cử đi học khóa 1 Đại học Quân y. Năm học cùng khóa, cùng lớp với vợ tôi. Sau này mỗi lần gặp nhau ở Sài Gòn, kể lại chuyện ăn thuốc đánh răng, chúng tôi vừa buồn cười, vừa thấy tủi, thấy thương cho một thời.

Một lần khác, mấy đứa trẻ chúng tôi cãi nhau là dây dù Mỹ đốt có cháy không. Đứa bảo rằng cháy, đứa bảo không. Giữa buổi trưa anh Nam con bác Hưng dắt díu em sang chơi - em là anh Bắc, anh Bảy bây giờ - hăng hái đề xuất ý kiến, để tao thử xem sao. Vậy là đang lúc cha tôi ngủ say trên võng, anh Nam bò lại dùng một que lửa đốt thử. Tức thì, dây cháy queo, võng đứt phựt, cha tôi ngã uỵch xuống nền nhà. Giật mình, bị ngã đau bất ngờ, mất giấc ngủ trưa, cha tôi bực lắm nhưng vì mới về, lại là trò nghịch dại của con cháu trong nhà nên ông cố nén giận. Anh Nam sau này lớn lên vào bộ đội, tháng 8 năm 1964, đi chiến đấu ở chiến trường Miền Nam hy sinh  năm 1966 tại A Sầu, A Lưới tây Thừa Thiên.

Mấy ngày đầu cha tôi mới về, bà con, làng xóm thường tụ tập ở nhà tôi vừa ăn kẹo, ăn lạc rang, uống nước chè, vừa nghe cha tôi kể chuyện trong bộ đội, chuyện đánh giặc. Có bữa ngồi chơi đến khuya. Hồi đó quê tôi vẫn vậy. Hễ có một người đi thoát ly về phép là bà con hàng xóm đến thăm hỏi, chuyện trò rôm rả mấy đêm liền.

Nửa thế kỷ sau, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ ( 07/5/1954 – 07/5/2004 ), Trường Sĩ quan Lục quân 1 tổ chức một đoàn cán bộ do tôi dẫn đầu lên tham quan. Đêm đầu tiên ngủ tại doanh trại Tiểu đoàn 1 thuộc BCHQS tỉnh Điện Biên. Bắt đầu sang mùa hè, nhưng trời miền Tây Bắc về đêm se lạnh. Tôi bồi hồi nhớ về cha mình. Với niềm cảm xúc dâng trào khi trở lại mảnh đất lịch sử nơi đã cha tôi đã trải qua 56 ngày đêm chiến đấu trong ác liệt, gian nan, tôi đã viết bài thơ để sáng hôm sau lên đọc trước hàng quân khi vào viếng Nghĩa trang Đồi A1:

“ VỀ ĐIÊN BIÊN

(   Kính tặng Cha và các đồng đội của Cha )

 

Con về thăm Điện Biên

Chiến tích anh hùng

Tỏa sáng ngàn năm bất hủ.

Những chiến binh băng mình trong máu lửa

Đã tạc ghi lịch sử một trang vàng.

 

Con  vào thăm Chỉ huy sở Mường Phăng

Nơi Đại tướng cùng Bộ Tham mưu Chiến dịch

Ôi! Trí tuệ tuyệt vời, quyết tâm bằng thép

Vạch trúng con đường xuyên thẳng tới trung tâm.

 

Con vào thăm A1, Hồng Cúm, Him Lam

Những chiến công vô cùng oanh liệt

Giành giật đêm ngày

Máu thấm từng thước đất

Có chiến công nào

Chẳng đổi những hy sinh!

 

Con đã về đây từ dốc ấy, Pha Đin

Nhớ thuở ông cha bàn chân trần khứa máu

Từ muôn ngả non sông về đây hội tụ

Vực thẳm đèo cao in dấu những đoàn quân…

 

Chúng con về đây xin dâng nén hương thơm

Kính cẩn tâm linh những hàng bia thẳng lối

Di tích trầm hùng chất chứa điều nhắn gửi

Từ Điện Biên rọi sáng tới tương lai! ”.

 

Cuối năm 1956, sau Cải cách ruộng đất cha tôi về phép. Ngày trả phép cha  mang tôi đi theo để trực tiếp chăm sóc dạy dỗ. Lúc đầu mẹ tôi không chịu vì sợ phải xa con trai. Cha tôi nói mãi mới được. Mẹ và chị Hòe đưa tiễn hai cha con. Cả nhà đi bộ vào Vinh, gần 20 cây số. Tôi chỉ tự đi được một vài quãng ngắn, còn lại là cha mẹ thay nhau cõng. Chị Hòe lon ton chạy theo sau. Đây là lần đầu tiên được đến Vinh, tôi thích lắm. Đường nhựa, ô tô, xe ngựa, phố xá, nhà lầu, đèn điện, nước máy - với tôi cái gì cũng mới lạ. Cha tôi thuê nhà trọ ngủ qua đêm để sáng ngày mai hai cha con đi ô tô ra Thanh Hóa, hai mẹ con đi bộ trở về nhà. Nhưng khi vào nhà trọ, chẳng hiểu sao, chị Hòe khăng khăng không chịu ngủ lại, nằng nặc đòi về nhà ngay. Chị kêu toáng lên, nếu mẹ không về, chị sẽ bỏ về một mình. Cha mẹ tôi đành chịu thua, tần ngần bịn rịn chia tay nhau. Mẹ ôm lấy tôi, khóc òa lên. Cái nhà trọ nhỏ bên cái hồ nhỏ, gần bến xe Vinh, cách đây đã hơn nửa thế kỷ, sau này mỗi dịp qua đó, tôi vẫn ngoái lại nhìn. Ký ức tuổi ấu thơ hằn sâu trong trí nhớ.

Sáng ngày hôm sau hai cha con mua vé ô tô đi Thanh Hóa. Gần 9 giờ xe mới chuyển bánh. Từ Vinh ra Thị xã Thanh Hóa chưa đầy 150 km, như bây giờ xe tốt chỉ chạy hơn 2 giờ đồng hồ. Nhưng ngày đó đường rất xấu, nhiều ổ gà, ổ trâu, lại còn phải qua bốn phà: Cấm, Giát, Hoàng Mai, Ghép. Mỗi lần qua phà, xe nối đuôi nhau xếp hàng dài, hành khách phải xuống xe. Là đứa trẻ hiếu kỳ, hiếu động, với lại cái gì cũng mới lạ, tôi chạy lung tung giữa đoàn người tứ xứ. Cha tôi sợ con bị lạc, cứ phải chạy theo. Khi đến bến phà Ghép, mưa phùn, trời lạnh, tôi trèo lên một mô đất cao bị trơn trượt ngã, mặt mũi quần áo lấm lem. Cha tôi phải dùng khăn mặt nhúng nước sông để lau cho tôi. Gần tối xe mới tới được Thị xã Thanh Hóa. Sau khi đã thuê được nhà trọ, hai cha con đi ăn tối. Dạo qua mấy dãy phố dưới ánh điện mờ, nhìn thấy nhiều nhà hàng treo lủng lẳng những con gà luộc, những bộ lòng lợn luộc béo ngậy, đang đói meo tôi thèm, đòi ăn. Hồi nhỏ ở quê, tôi chỉ được ăn thịt vào những bữa giỗ, Tết. Mà cũng chẳng nhiều nhặn gì. Mặc dù trong túi tiền rất ít, nhưng cha vẫn chiều tôi ăn uống no nê.

Sáng ngủ dậy, hai cha con đi tiếp ô tô về đơn vị của ông. Ngày đó cha tôi đang an dưỡng tại Đoàn điều dưỡng của Đại đoàn 304, đóng trong nhà dân ở huyện Hà Trung, Thanh Hóa, gần chợ Bình Lâm, cách Đò Lèn khoảng 5 km. Khi tới nơi tôi thấy một số cán bộ cũng mang con đến đơn vị. Các chú bộ đội trong đơn vị thương quí tôi, nhất là các chú cùng quê. Cả đơn vị ăn cơm trong một cái đình làng rất rộng. Cơm ăn chung còn thức ăn chia theo khẩu phần: đại táo, trung táo. Đại táo là suất ăn của cán bộ đại đội trở xuống. Trung táo là suất ăn của cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn. Đến bữa ăn nhiều chú kéo tôi về mâm, hoặc gắp thức ăn sang mâm hai cha con. Hàng ngày, tôi được cha tôi và các chú dẫn đi chơi trong vùng. Khi ra chợ Bình Lâm, khi ra xem thợ đang thi công cầu Đò Lèn, khi leo núi, khi vãn cảnh chùa.

Vùng này cò nhiều cây vải cao to, sai quả. Quả to mà hạt cũng to. Không nhỏ hạt và ngọt như vải thiều bây giờ, nhưng cũng ngon. Có chú tên là Thắng quê ở xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An là dân vùng biển rất giỏi bơi lặn. Chú đưa tôi ra tập bơi ở bến sông Lèn. Chú nói rằng, tập sơ bộ thôi, cứ quẳng xuống nước tự khắc biết bơi. Con chó, con trâu có tập bao giờ đâu mà cũng biết bơi. Chính vì vậy, có lần chú bế tôi ra giữa sông rồi thả ra. Tôi đã vùng vẫy, uống no nước, suýt chết đuối. Chú Thắng vội lao ra cứu. Về nhà, cha tôi quát chú Thắng một trận. Bà chủ nhà sợ tôi mất vía, đã lấy sàng gạo làm phép chao vía. Đi chơi với các chú bộ đội trẻ, tôi được bày dạy nhiều điều.

Cuối năm 1957, giống như hàng loạt nông dân mặc áo lính tham gia kháng chiến chống Pháp hồi đó, cha tôi được quân đội cho giải ngũ theo chế độ phục viên. Trước đó đơn vị giải quyết cho ông chuyển về Nông trường quân đội, nhưng ông không thích. Ông cho rằng ở nông trường cũng làm ruộng mà lại xa vợ con, về quê vẫn hơn. Ông phục viên trong đợt 8 vạn quân chuyển ra.

Quả thật, đó là một lớp người có công lao lớn mà chính sách đãi ngộ rất ít. Nhưng biết làm sao được. Buổi ấy đất nước mới thoát ra khỏi chiến tranh. Kinh tế tài chính còn khó khăn trăm bề. Người nông dân tòng binh đánh giặc. Giặc tan họ trở về ruộng đồng. “Tĩnh vi nông, động vi binh””. Triết lý sống của người Việt Nam ta tự ngàn xưa là vậy.

Ngày đó cha tôi đã 43 tuổi, văn hóa chưa hết lớp 4, mắt đã phải đeo kính lão, không còn đáp ứng được yêu cầu xây dựng quân đội chính qui trong thời bình. Ông trở về là phải. Ông tự nguyện hăng hái trở về như ngày nào ông hăm hở tình nguyện tòng quân, dẫu biết rằng rất có thể bỏ mình trong chiến trận. Ngày khoác ba lô về làng, thuở đó chưa có hợp tác xã, nghĩa là mọi người còn tự do làm ăn trên mảnh đất của mình. Cầm 350.000đồng tiền trợ cấp phục viên cha tôi nuôi chí làm giàu. Việc đầu tiên là ông mua cái sân gạch ở xã Nghi Thịnh. Vì đất ở hiện tại quá chật, không chăn nuôi được, ông có ý định chuyển nhà lên vạt ruộng ở Cửa Nghè đầu làng tôi. Ông trồng tre, trồng phi lao thành bờ bao đẹp lắm. Hồi đó từ cây đa đầu làng đến Cửa Nghè còn vắng vẻ. Vì thế mẹ tôi dứt khoát không đồng ý chuyển nhà lên ở giữa đồng.

Việc chuyển nhà không thành, cha tôi quay sang đầu tư sản xuất. Ông cho rằng, với hơn 1,2 mẫu đất ruộng cộng với đất vườn, hai vợ chồng, hai con  (chị tôi và tôi, ngày đó chưa có các em sau), với sức khỏe tốt, siêng năng, cần cù, tiết kiệm, làm ăn có kế hoạch lại có một lưng vốn tương đối khá, chắc là đời sống gia đình được cải thiện và từng bước đi lên. Nào ngờ, sự thể cuộc đời không như ông dự liệu.

 Năm 1958, quê tôi mọi nông dân đều vào hợp tác xã nông nghiệp. Tất cả ruộng vườn, trâu bò, nông cụ đều đưa vào hợp tác xã hết. Ai không vào hợp tâc xã thì chính quyền địa phương và nhân dân coi là phần tử xấu, chống lại chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Con cái đi học bị dị nghị. Thậm chí đi học, học nghề, đi thoát ly không được Ủy ban hành chinh xã xác nhận lý lịch, hoặc có xác nhận thì cũng nhận xét không ra gì.Trong Đội thiếu niên, trong Đoàn thanh niên có em nào cha mẹ không vào hợp tác xã thì bị để ý, bị cản trở đủ điều. Là gia đình đảng viên, dĩ nhiên cha mẹ tôi phải vào hợp tác ngay đợt đầu tiên.

Đúng là những năm đầu mới vào hợp tác xã quê tôi vui lắm. Làm ăn tập thể, sáng, trưa, chiều, tối đều có kẻng ra đồng và về làng. Ngày đó chưa có khoán. Sau từng buổi làm, từng đội xã viên tập trung ngồi ở bờ ruộng để tính công, bình công, chia điểm.Từ chỗ làm ăn riêng lẻ, lặng lẽ tùy nghi đi sớm về khuya mặc lòng, nay đi về có giờ giấc qui củ. Làm ăn tập thể, chuyện trạng, chuyện tiếu lâm ồn ào. Vui thì có vui nhưng vẫn nghèo. Thậm chí nghèo hơn trước.Cái nghèo được chia đều cho mọi người. Động lực không được khêu gợi và phát huy, kỹ thuật không có gì mới, thậm chí không cải tiến mà là cải lùi trong một số khâu sản xuất, dẫn đến năng suất lao động rất thấp.Thêm vào đó tệ quan liêu và nạn tham nhũng bắt đầu xuất hiện trong sản xuất, phân phối và lưu thông sản phẩm.

 Khi động lực lợi ích không được kích thích thì việc chây lười, làm ẩu, làm dối nổi lên. Dân số ngày càng tăng theo qui luật sau chiến tranh. Đất đai canh tác bị thu hẹp lại, vì phải dành cho đất ở, đất giao thông, đất thủy lợi và các công trình công cộng khác…Tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến miếng cơm, manh áo người nông dân một nắng hai sương. Cũng may dù đời sống vật chất có khó khăn, thiếu thốn nhưng đời sống tinh thần, tình làng nghĩa xóm rất mặn nồng. Các tệ nạn hầu như không có. Thuở đó, quê tôi mọi người ra đồng, đồ đạc để ở nhà không cần khóa. Lúa, khoai, lạc, ngô phơi ở sân, nếu trời mưa bất chợt mà không kịp về thì đã có người hàng xóm sang thu dọn, cất đặt hộ.

 Điều đáng tiếc là sau năm 1954, hầu như quê tôi không còn đền, chùa. Tất cả đều đã bị dỡ bỏ. Theo đó, mọi tục lệ từ ngàn xưa đều bị xóa dần. Sau này nghĩ lại, tôi thấy cũng lạ lùng. Chống mê tín, dị đoan là đúng. Nhưng lại chống cả tín ngưỡng, phong tục văn hóa đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ bao đời thì thật là sai lầm. Không có niềm tin, không ước mơ, thì con người dễ phân tâm, đời sống tâm linh sẽ nghèo nàn, tâm hồn khô cứng, tình cảm chai sạn. Đặc biệt là, con người sẽ không biết sợ. Ở đời sợ nhất là sống chung với những người không biết sợ. Một khi đã không biết sợ, thì dễ làm càn, làm ẩu, bất chấp qui luật, gây hậu quả xấu cho mình và cho xung quanh. Cũng may việc thờ phụng tổ tiên, ông bà ông vải trong các ngày giỗ, tết ở mỗi gia đình vẫn còn. Luân lý, đạo đức, thuần phong, mỹ tục còn được giữ lại và phát huy trong điều kiện mới. Những năm về già, cha tôi thường ra Hà Nội ở với chúng tôi. Mặc dù tuổi đã cao nhưng ông vẫn còn khỏe, minh mẫn. Chúng tôi đưa ông đi tham quan nhiều nơi, cả ngoài Bắc và trong Nam. Hàng năm vào dịp hè, chúng tôi thường đưa ông đi nghỉ mát ở Cửa Lò, Đồ Sơn, Hạ Long. Cha tôi phát bệnh tiểu đường từ cuối năm 2006. Điều trị nhiều ngày, cả đông y và tây y, nhưng không khỏi, bệnh tình ngày một nặng hơn. Theo ý ông, ngày 14 tháng 5 năm 2008 (tức ngày 10 tháng 4 Mậu Tý), chúng tôi chuyển cha tôi về quê. Hơn một tháng sau, ngày 20 tháng 6 năm 2008 (tức ngày 17 tháng 5 Mậu Tý) cha tôi từ trần. Dù đã biết trước, nhưng chúng tôi hẫng hụt và tiếc thương ông vô cùng. Giữa một ngày hè nắng chói chang, gia đình, họ hàng, chính quyền đoàn thể ở địa phương, các đơn vị và bạn hữu của các con ông, từ nhiều nơi về dự lễ tang ông đông đủ, chu đáo, nghĩa tình.

 Mẹ tôi  tên là Trần Thị Tuấn, tiếng địa phương gọi là Tuớn,  sinh năm 1919, thua cha tôi 5 tuổi. Ông ngoại tôi là Trần Bá Huấn, thuở nhỏ là nho sinh. Nghe nói những người học chữ Nho thuở đó nếu thành đạt thì vào đời làm được bốn nghề: nho, y, lý, số (nho là làm thầy giáo; y là làm thầy thuốc; lý là địa lý; số là thầy xem tướng số). Ông ngoại tôi vừa làm thầy đồ vừa đi bắt mạch bốc thuốc vào tận Huế, Sài Gòn và ra Hà Nội. Ông thường đưa mẹ tôi theo trong những chuyến đi xa. Mẹ tôi có dáng người tầm thước, gương mặt đẹp, phúc hậu. Bà là người hiền lành tốt tính, trong quan hệ luôn lấy hòa khí làm trọng. Họ hàng nội ngoại, làng trên xóm dưới, cả một đời, mẹ tôi không mất lòng ai.

Khi sinh tôi được mấy tháng, cha tôi trở lại đơn vị, trong nhà chỉ còn ba mẹ con. Lúc đó chị Hòe mới hơn 5 tuổi, tôi thì còn ẵm ngửa. Mấy gian nhà tranh trống trếnh, thường bị dột lúc trời mưa to, tốc mái khi gió bão. Nhà nuôi một con bò, một miếng vườn nhỏ, mấy vạt ruộng độ dăm sào. Có ruộng được ông bà nội chia cho. Có ruộng do cha mẹ tôi mới tậu sau khi ra ở riêng.

 Một mình mẹ tôi lo việc cấy cày đồng áng. Bốn, năm tuổi, tôi đã lẽo đẽo bám theo mẹ ra đồng.  Mẹ tôi thường đặt tôi ở góc bờ ruộng trong lúc cày cấy. Mãi đến trưa, đến tối lại lẽo đẽo cõng về. Có bữa làm ở ruộng Cửa Nghè trời nắng quá, mẹ tôi bẻ một cành cây lá to để che cho tôi. Có bữa làm ở đồng Hạ Lang, mẹ gửi tôi ở nhà bà Hội Tuynh là dì ruột của mẹ. Thuở đó hầu như trẻ con quê tôi thường có tật đi theo cha mẹ ra đồng. Dù ngăn trở thế nào cũng đi theo bằng được. Có lẽ do ở nhà chẳng biết chơi với ai và cũng chẳng có gì để chơi cả. Ra đồng thoáng đãng, mát mẻ hơn.

Trong kháng chiến chống Pháp và những năm sau hòa bình lập lại ở Miền Bắc, cha tôi còn tại ngũ, mẹ tôi vừa làm lụng nuôi con vừa tham gia việc xã hội. Bà làm cán bộ phụ nữ xã Nghi Hợp. Năm 1955, Cải cách ruộng đất như một cơn bão bất thần tràn đến quê tôi. Mặc dù nhà nghèo, nhưng là cán bộ phụ nữ xã, mẹ tôi bị qui là đảng viên Quốc Dân đảng. Thực ra, không riêng gì mẹ tôi, không hiểu sao ngày đó hầu hết cán bộ ở địa phương đều bị quy là đảng viên Quốc Dân đảng. Những cán bộ chủ chốt của xã đều bị bắt giữ. Tôi còn nhớ hồi đó nhà bác Thuần cạnh nhà tôi có một con chó mực to tự nhiên bị chết. Chó đã được chôn ở vườn Cố Hợi được hai ngày rồi nhưng chẳng biết ai vu cáo, Đội Cải cách bắt đào bới lên, mổ ra khám nghiệm. Kết quả khám nghiệm là chó chết do thuốc độc ( sau này, khi đã lớn, tôi nghĩ, chắc là chó ăn phải bả chuột). Đội Cải cách cho rằng, mẹ tôi cùng mấy đảng viên khác dùng loại thuốc độc đó để mưu sát cán bộ Đội. Bà bị bắt giam giữ, xét hỏi mất mấy ngày. Tôi chẳng biết người ta xét hỏi cái gì và mẹ tôi khai báo thế nào cả, vì mãi về sau không thấy bà nói về chuyện đó.

Tôi còn bé bơ vơ, sang chơi với bạn bè nhà hàng xóm, kể cả một vài nhà bà con, đều bị xua đuổi. Một mình tha thẩn, tôi quay về nhà tủi thân òa khóc. Thực ra chẳng ai ghét tôi nhưng ngày đó họ sợ bị liên lụy bản thân. Với một đứa trẻ lên  bảy tuổi thì biết gì, làm được gì cơ chứ.

Hồi Cải cách ruộng đất quê tôi có nhiều trường hợp bị qui sai oan uổng. Có gia đình cũng nghèo, nhà tranh, vách nứa, có vài mẫu ruộng do cả một đời, thậm chí mấy đời cần mẫn và tằn tiện mới tậu được, con cái chẳng được học hành, quanh năm làm lụng vất vả lại là đảng viên, chẳng hiểu sao vẫn qui là địa chủ. Tương tự, nhà có người đi bộ đội, đi thoát ly làm cán bộ thì gọi là địa chủ kháng chiến.

Mãi sau này tôi mới biết vì chạy theo tỉ lệ do trên xác định, lại không dựa vào cấp ủy địa phương, chỉ dựa vào cốt cán xâu chuỗi rễ và mấy ông Đội điều từ nơi khác đến, không hiểu rõ tình hình thực tế, nên qui chụp lung tung. Hình như càng qui chụp được nhiều càng có thành tích, càng chứng tỏ “lập trương giai cấp vững vàng”. Ai đã qui là địa chủ, lập túc bị tịch thu toàn bộ gia tài điền sản. Có người bị chết oan, bị xử bắn, bị bức tử, bị tra tấn đến chết, hoặc có người quá căng thẳng mà tự vẫn. Xã tôi có hai người bị bắn trong cải cách.

Nếu nói trong mấy chục năm qua, cách mạng có lúc tả  khuynh,thì quả thật quê tôi luôn dẫn đầu của sự tả khuynh đó. Có một vấn đề hình như có tính qui luật: Ở đâu nghèo, ở đó có phong trào cách mạng cao, có nhiều cống hiến hy sinh trong chiến tranh, lại hay tả khuynh trên nhiều phương diện, và kết cục nơi đó  mãi mãi nghèo hơn vùng khác.

Tôi sinh rằm tháng Chín năm Mậu Tý (tức ngày 17 tháng 10 năm 1948). Tính ra là sau 9 tháng 9 ngày, kể từ khi cha tôi đặt chân về làng. Vì tôi là con trai (trước đó sinh ba chị gái) cha mẹ tôi và nói chung cả hai bên nội ngoại đều mừng lắm. Thật ra, tên tôi lúc còn nhỏ là Đấu chứ không phải là Đẩu như sau này. Cha tôi nói đặt tên Đấu là để kỷ niệm đi chiến đấu về sinh con. Còn tên là Đẩu là vì ngày đầu tiên vào bộ đội, anh Trợ lý quân lực khi lập danh sách quân nhân hỏi tên gì, tôi trả lời là Đấu. Khổ thay, tiếng Nghi Lộc phát âm không rõ, Đấu nghe thành Đẩu. Anh quân lực vào sổ và từ đó suốt đời tôi mang tên là Đẩu. Lúc đó với tôi được nhập ngũ là mừng rồi, mọi việc không lấy gì làm quan trọng. Bởi, có về quê mọi người vẫn gọi tôi là Đấu. Người Nghi Lộc gốc khi phát âm không phân biệt dấu sắc với dấu hỏi, cũng như không phân biệt dấu nặng với dấu ngã.

 Năm 1953, có tin quân Pháp đổ bộ lên cảng Cửa Lò, lực lượng dân quân du kích ở lại bám trụ bảo vệ quê hương. Trung đội dân quân tiến hành tổ chức kiểm tra vũ khí đạn dược sẵn sàng chiến đấu. Chú Nguyễn Văn Bá - người bà con trong họ, ở cạnh nhà tôi - được cử ra ném thử lựu đạn. Hồi đó, dân quân mới được trang bị lựu đạn do công binh xưởng của ta chế tạo. Loại lựu đạn này khi ném phải dùng tay đập về phía sau ( hình như là để đập hạt nổ ) rồi ném lên phía trước. Chú Bá vừa đập lựu đạn vào phía sau đang dang tay để ném, không ngờ lựu đạn nổ ngay làm cụt cánh tay phải.

Ngoài lực lượng ở lại bám trụ chiến đấu, còn lại dân làng tôi gồng gánh, dắt díu bồng bế nhau đi tản cư lên mạn phía tây của huyện. Mẹ tôi quyết định sẽ tản cư lên nhà cậu Long (em trai út của mẹ) ở gần làng Đồn Kiều - cách nhà tôi khoảng 25 cây số. Mẹ tôi quẩy một gánh gồm lương thực, quần áo, nồi niêu, bát đĩa,…Mẹ nhờ anh Thuân, con anh cả của mẹ, quẩy một gánh khác. Gánh của anh Thuân, một đầu là tôi ngồi trong  một cái thúng với một tấm chăn mỏng để lót. Đầu kia là một hũ đựng mắm cua đồng. Chị gái tôi lọc cọc đi bộ phía sau. Mẹ con, cô cháu dắt díu nhau chạy giặc. Khi mới qua cầu Phương Tích (xã Nghi Phương bây giờ), đường gồ ghề mấp mô, gióng thì dài, anh Thuân thì thấp, sơ ý vấp phải hòn đá ở vệ đường làm tôi rơi lăn kềnh xuống đất, đầu bên kia hũ mắm cũng rơi uỵch vỡ tan, mắm chảy lênh láng ra đường. Vừa đau, vừa sợ, tôi khóc òa lên.  Mẹ tôi xuýt xoa trách anh Thuân vô ý. Anh Thuân lóng ngóng thanh minh là tại gióng cô dài. Năm đó anh Thuân chừng 16, 17 tuổi. Sau này nhiều lần về phép lên nhà  bên ngoại chơi, tôi được anh Thuân kể lại chuyện này như một kỷ niệm không bao giờ quên.

Năm lên 7 tuổi tôi bắt đầu đi học vỡ lòng. Thầy dạy chữ đầu tiên là ông Lê Văn Nhựa ở cạnh nhà tôi. Lớp học vỡ lòng ở nhà thờ họ Lê, trong nhà ông Nga Huỳnh. Ông Nhựa rèn chữ rất nghiêm khắc. Hễ trò nào viết sai, viết cẩu thả, viết xấu, tức thì ông bắt đưa tay lên bàn, dùng thước gỗ lim đánh khá đau. Chẳng riêng gì ông Nhựa, các cụ dạy học xưa là vậy. Nhờ thế mới có người viết chữ đẹp. Phần vì sợ thầy, phần vì chán học, tôi thường trốn. Hàng ngày, mẹ tôi cõng tôi đến lớp, mẹ quay về trước, tôi lẻn về sau, cứ thế mất một thời gian.

Cuối năm 1956, khi tôi đang ở với cha tôi tại Thanh Hóa, mẹ tôi viết thư khẩn thiết đòi cha cho tôi về quê để đi học. Ngày xin vào học, sau khi nghe cha tôi trình bày, cô giáo Nguyễn Thị Hiệp xếp tôi vào học lớp một. Cha tôi thì  xin được vào thẳng lớp hai. Nói mãi cô Hiệp đành chịu nhưng với một điều kiện là nếu không theo được thì phải xuống lớp dưới. Bởi thế, ngay từ bé tôi đã cùng học với các anh, các chị hơn tuổi. Với sĩ số 47 học sinh, tháng đầu tiên tôi được cô giáo xếp đội sổ, đứng thứ 47. Cô Hiệp định cho tôi xuống lớp, cha tôi năn nỉ xin cho ở lại vì cho rằng tôi mới về chưa quen. Từ tháng thứ hai trở đi tôi quen dần và học tốt hơn. Khi tôi học xong lớp 2 thì tất cả các lớp được chuyển vào Trường cấp I của xã ở làng Kỳ Sơn. Cô giáo Hiệp dạy tôi năm lớp 2, hơn 50 năm sau, tôi đến thăm nhà cô ở Hà Nội, cô vẫn nhớ ra.

Lúc còn nhỏ, như mọi đứa trẻ ở quê, tôi háo hức mong chờ Tết đến. Tết đến thêm một tuổi, được vui chơi, được mặc quần áo đẹp và đặc biệt là được ăn ngon hơn ngày thường. Trước Tết đến cả tháng đã có sự chuẩn bị khá rộn ràng trong từng ngõ xóm. Thường thì, dăm ba nhà bà con láng giềng rủ nhau “đụng lợn”. Tức là chọn một con lợn ưng ý để nuôi ở một nhà, chờ đến ngày áp Tết mổ thịt chia phần. Những năm đó cha tôi còn ở bộ đội, ít khi được về ăn Tết cùng gia đình. Ở nhà chỉ có mẹ, chị Hòe và tôi. Không có đàn ông trong nhà, mẹ tôi thường hay đụng lợn với các chú, các bác trong xóm. Năm thì đụng với chú Chiếng, chú Tụy, chú Ngọc; năm thì với bác Thuần, chú Ước,… Ngày mổ lợn thật vui. Mọi người dậy từ rõ sớm. Trời mù sương, giá lạnh. Một không khí ấm áp trong âm thanh hỗn tạp đan xen : Tiếng cối xay lúa miệt mài. Tiếng chày giã gạo theo nhịp rền vang. Tiếng người rộn rã nói cười, gọi nhau ý ới. Rồi thì lợn kêu, chó sủa, gà đua nhau gáy vang. Người già và trẻ nhỏ quây quần bên bếp lửa hồng luộc bánh. Tôi dậy rất sớm, lò dò xem các ông bắt lợn, chọc tiết, cạo lông, làm lòng, xẻ thịt. Khi lòng lợn đã luộc chín, vớt ra, đổ một ít gạo tẻ vào nước luộc lòng để nấu cháo. Tan cuộc, mọi người già trẻ chia nhau xì xụp húp bát cháo loãng nóng hổi, thật ngon và ấm bụng. Và cuối cùng, thế nào tôi cũng nài nỉ xin bằng được cái bong bóng lợn. Mang về rửa sạch, sấy khô để thổi lên làm bóng. Tựa như trẻ nhỏ chơi bóng bay bây giờ.

Ngày 27 tháng Chạp là phiên chợ Sơn - chợ lớn nhất trong vùng - cách nhà tôi chừng 3 cây số. Tôi thường lẽo đẽo theo mẹ đi chợ Sơn. Chợ rộng, rất đông người và đủ loại hàng hóa. Tôi mới lên bảy, tám tuổi, mẹ tôi chưa đầy 40 tuổi. Giữa buổi chợ đông hai mẹ con dắt díu nhau. Tôi là đứa trẻ trai hiếu động, hiếu kỳ, mẹ sợ tôi lạc, có lúc phải cầm tay. Hai mẹ con lòng vòng đi ngắm chợ, xem người là chính. Mẹ tôi chẳng có gì để bán và không có nhiều tiền để mua. Tôi thường sà vào các chỗ bán bánh kẹo và đồ chơi. Đồ chơi đủ loại: cu cò, trống bỏi, pháo các loại, hoa giấy nhiều màu, cái gì trông cũng thích. Mẹ tôi mua mấy bó hương trầm, vài lạng đường phên, một chai mật mía, một ít miến, mấy miếng cá thu nướng, một chai nước mắm…Cuối cùng là vài ống giang tươi để chẻ làm lạt, mấy tệp lá dong và các thứ khác về đùm bánh chưng, bánh tét. ( Lớn lên tôi mới biết: Ngày Tết trong Nam thường gói bánh tét. Ngoài Bắc thường gói bánh chưng. Quê tôi - miền Trung -  dung hòa, gói cả chưng lẫn tét). Tôi thường xin mẹ vào hàng thuốc Bắc mua cho một miếng quế chi để thỉnh thoảng nhâm nhi và còn cho bạn bè. Quế vừa ngọt, vừa thơm, vừa cay, trời lạnh gặm nhấm một miếng rất nhỏ cũng ấm người. Hai mẹ con thường dừng lại lâu hơn ở quầy bán quần áo may sẵn. Thứ tôi thích thì mẹ không đủ tiền. Thứ mẹ vừa tiền thì tôi lại không thích. Lật đi lật lại mãi. Dẫu rất thương con, nhưng túi tiến eo hẹp, mẹ tôi chỉ mua được một bộ quần áo vừa phải. Về nhà, quần áo gấp bỏ vào một cái rương gỗ màu đỏ, cất trong buồng. Phải đợi đến sáng Mồng một Tết tôi mới được mặc quần áo mới. Thuở ấy ai cũng vậy thôi. Quần áo cũ mặc đi làm. Bộ mới nhất để dành đến Tết.

Chiều 30 Tết hằng năm, như một sự mặc định, ở quê tôi, mọi gia đình bất kể giàu nghèo đều sắm cỗ về cúng rước ông vải ở nhà con trai trưởng. Mẹ và chị em tôi đội mâm sang cúng ở nhà bác Tần. Hôm đó trên bàn thờ gia tiên có 3 mâm, đại diện cho 3 nhà con con trai của ông nội tôi: bác Tần là trưởng nam, cha tôi, chú Cát là con trai áp út. Sau khi bày xong mâm cỗ, mọi người từ lớn đến bé, lần lượt thắp hương khấn vái. Phía trước bàn thờ trải một tấm chiếu. Từng người thắp hương rồi chắp tay khấn vái. Cách khấn vái không giản đơn như bây giờ. Sau khi vái 3 lạy, người cúng phải gập đầu nằm úp mặt sát tận đất duỗi chân thẳng ra rồi đứng dậy. Cứ thế, đứng lên sụp xuống 3 lần, trong lúc miệng vẫn đọc lời khấn. Cách cúng ấy, theo tôi, dẫu có cầu kỳ nhưng biểu thị sự thành kính rất cao. Cúng xong, chờ hương cháy gần hết, mọi người theo ngôi thứ, ngồi vào các mâm. Tết nào cũng vậy, cúng tại nhà con trưởng 2 lần: Chiều tối 30, gọi là rước ông vải; chiều mồng 2, gọi là đưa ông vải. Với chúng tôi, bữa ăn chiều tối 30 Tết là ngon nhất trong năm. Quê nghèo quanh năm ăn uống đạm bạc. Nhưng dẫu nghèo khó đến đâu, chiều tối 30 Tết mọi nhà đều tổ chức ăn uống tươm tất, thịnh soạn. Cái ngon không chỉ vì thức ăn. Hơn thế, đó là bữa ăn sum vầy ấm cúng giữa những người ruột thịt trong gia đình, trong nội tộc. Tôi cho rằng, ngày Tết, phong tục cúng tại nhà con trưởng là một truyền thống văn hóa đẹp. Qua đó, trong bầu không khí huyết thống ấm cúng, là một dịp nhắc nhở, thắt chặt sự đoàn kết, động viên con cháu học tập và làm ăn tốt hơn.

Sáng Mồng một, sau khi súng sính trong bộ quần áo mới, tôi được mẹ dẫn sang nhà bác Tần cúng tổ tiên. Trước khi đi bao giờ cũng được mẹ tôi dặn kỹ nói lời chúc Tết. Lời chúc đầu năm ngắn, không dài cầu kỳ, đầy đủ như bây giờ. Chỉ vỏn vẹn một câu thôi: “Năm mới, cháu mừng tuổi ông (hoặc bà, bác, chú,...) ạ”. Kể ra, một câu ngắn như vậy cũng đã nói lên mọi điều.  Chiều Mồng một hoặc sáng Mồng hai,  ba mẹ con chúng tôi đội mâm về cúng và chúc Tết bên ngoại ở làng Xuân Tình, xã Nghi Thịnh, cách nhà hơn 2 cây số. Xong mọi thủ tục lễ nghĩa, phần còn lại đối với lũ trẻ chúng tôi là vui chơi thỏa thích trong mấy ngày Tết.

Sau khi tốt nghiệp cấp I, tôi thi đậu vào Trường cấp II Nghi Khánh. Cha mẹ tôi rất mừng. Vì trong vùng hơn mười xã mà chỉ có một trường cấp II, người dự thi đông, số được nhận vào học ít. Cả lớp 4 của tôi ở Trường cấp I xã Nghi Hợp chỉ đậu có mấy người. Từ nhà tôi đến trường hơn 2 km. Ngày đó trường chỉ có mấy dãy nhà tranh vách nứa ở gần hai cây lim to. Giữa các lớp ngăn ra bằng một tấm vách, lớp bên này đọc bài , lớp bên kia nghe hết. Hình như đó vốn là doanh trại  của một đơn vị bộ đội Miền Nam tập kết vào năm 1955.

 Khi tôi còn bé ở quê có nhiều bạn. Trong làng có lớp ít hơn tôi vài ba tuổi gồm:  Bảy, Phượng, Lam, Tấn, Ưng, Mai, Ba, Dinh, Thìn…Lớp cùng lứa có: Bắc, Hiền, Châu, Vĩnh, Anh, Thịnh, Liễu, Ngữ, Sĩ,…và có cả lớp trên như các anh:  Cần, Duệ, Dần, Nam, Ba, Tư, Minh, Dinh... Chúng tôi chơi với nhau hồn nhiên, vô tư bằng nhiều trò chơi: đá bóng, chơi khăng, nhiều hơn cả là chơi đánh trận giả. Lớn lên, bước vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, hầu như tất cả bạn bè cùng trang lứa với tôi đều gia nhập bộ đội, đi chiến đấu ở các chiến trường. Trong số ấy có nhiều người đã hy sinh hoặc bị thương. Bạn bè thuở đó, ngoài những người họ hàng ruột thịt, có Lê Văn Hiền là người gắn bó, thân thiết với tôi từ khi còn học vỡ lòng cho đến tận bây giờ. Từ tấm văn bia ngẫm kỹ toát lên mấy điều: Một vị vua anh minh; Một đại thần trung nghĩa; Một trạng nguyên học giả tài ba.

 Đội Thiếu niên ở làng được tổ chức qui củ, chặt chẽ và cũng vui lắm. Mỗi tháng một lần sinh hoạt đội. Mỗi tháng một lần Đội thiếu niên tập trung rước đuốc đi cổ động trong làng. Trước khi đi toàn đội tập trung ở Hội quán để kiểm tra quân số, phổ biến nội dung cổ động và cung đường đi. Trên đường đi, người đội trưởng cầm một tờ giấy trên đó ghi các câu khẩu hiệu và hô to.Các em thiếu niên đồng thanh hô, hòa theo tiếng trống ếch. Cả đoàn đuốc sáng trưng, tiếng hô rầm rộ đến từng ngõ xóm, bọn trẻ chúng tôi thích lắm. Sau khi rước đuốc mấy vòng trong làng, cũng là lúc đuốc tàn, toàn đội tập trung trở lại Hội quán để rút kinh nghiệm: quân số đủ không, ai không đi, tại sao, có xin phép không, đuốc đủ sáng không, hô khẩu hiệu đều không, to không. Khi các phương tiện thông tin chưa có nhiều như ngày nay, việc tổ chức cho thiếu niên đi rước đuốc cổ động vừa giúp ích cho việc tuyên truyên các chủ trương chính sách của lãnh đạo các cấp, vừa tạo ra ý thức tập thể cho thiếu niên ngay từ bé. Đội thiếu niên có tổ chức hợp tác xã măng non: trồng rau, nuôi lợn, nuôi gà. Dưới gốc đa làng là một dãy chuồng gà của hợp tác xã măng non. Hàng ngày từng đội viên được phân công cho gà, lợn ăn. Đến phiên trực em nào cũng lo lắng đến trách nhiệm, nhất là những ngày mưa gió, rét mướt. Hoạt động của Đội thiếu niên thường tập trung vào hai ngày trong năm: Mồng một tháng Sáu và Tết Trung thu, nhất là Tết Trung Thu.

Vào những ngày rằm, nhất là rằm tháng Tám, ánh trăng nơi thôn dã quê tôi đẹp lạ lùng. Trăng tròn vành vạnh giữa trời cao không một gợn mây. Ánh sáng vàng ruộm rắc xuống từng ngõ xóm, những lũy tre xanh, những bãi cát trắng phau, mịn màng. Gió thổi nhẹ, trời mát dịu, chúng tôi vui chơi hồn nhiên, thỏa thích. Vào hai ngày 1 - 6 và Tết Trung Thu, thiếu niên toàn xã tổ chức cắm trại, hội thi, hội thao, vui chơi, ngủ tập trung, ăn cơm tập đoàn, thích lắm. Thường tổ chức thi các môn: đồng diễn thể dục, các môn thể thao, thi cắm trại đẹp, thi báo tường, thi tín hiệu còi, cờ mooc-xờ. Công việc chuẩn bị được triển khai từ rất sớm, trước cả tháng. Một không khí vui tươi, thi đua sôi nổi tràn ngập trong các làng. Các cán bộ, bà con cô bác, các bậc phụ huynh ở từng làng đầu tư công sức cho việc luyện thi.  Các anh chị phụ trách rất quan tâm lo lắng.Việc chấm điểm trong các Hội đồng thi cũng gắt gao, nghiêm túc và công bằng. Trong các lần cắm trại, làng Đại Xá thường dẫn đầu tất cả các môn thi và đứng thứ nhất của xã Nghi Hợp. Đó là niềm vinh dự tự hào của thiếu niên làng chúng tôi qua nhiều thế hệ.

Năm tôi đang học lớp 6 thì được đi đón Bác Hồ về thăm quê lần thứ hai. Từ sáng sớm ngày 8 tháng 12 năm 1961, học sinh chúng tôi  đi bộ vào Vinh, xếp hàng ở cổng sân bay Chợ Dâu (bây giờ gọi là sân bay Vinh) để đón Bác. Đến 12giờ30 phút một chiếc máy bay Đa-cô-ta cánh  bạc xuyên  mây hạ cánh. Bác rời máy bay lên xe com-măng-ca mui trần. Chúng tôi ùa ra, tay vẫy cờ, hoa và đồng thanh hô to : Hồ Chủ tịch muôn năm. Bác giơ tay vẫy lại. Được biết ngày đó lãnh đạo tỉnh Nghệ An bố trí một chiếc xe du lịch mui trần kết hoa để đón Bác. Nhưng khi xuống máy bay, Bác lại lên chiếc xe mui bạt của Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Ngồi vào xe, Bác bảo tháo bạt ra để Bác còn vẫy chào nhân dân ra đón. Xe kết hoa chạy sau để cụ Lê Nhu nguyên chủ tịch Uỷ ban kháng chiến tỉnh Nghệ An ngồi. Cụ Lê Nhu râu tóc bạc phơ, da dẻ hồng hào, nhiều người tưởng nhầm là Bác. Có người lại nói là đó là người đóng thế Bác, để nghi trang. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi vinh dự được tận mắt nhìn thấy Bác Hồ. Ngày đó Bác còn khỏe nhưng tôi đứng rất gần nhìn kỹ, thấy da mặt Bác đã có mấy chấm tím đen.Về nhà, hỏi người lớn thì biết đó là chấm đồi mồi - người già vẫn vậy. Không ngờ rằng, đó cũng là lần duy nhất tôi nhìn thấy Bác Hồ. Ngay sau đó mấy hôm, thầy Hoàng Văn Bàng, dạy văn lớp chúng tôi ra một bài thi kiểm tra :”Em hãy tường thuật buổi đón Bác Hồ về thăm quê”. Bài văn tôi được chấm điểm cao nhất lớp. Được thầy yêu cầu đọc cho cả lớp nghe chung. Chỉ là thành tích nhỏ nhưng tôi cảm thấy vinh dự, tự hào.

Mặc dù học giỏi năm lớp 7 ở Trường cấp II Nghi Khánh nhưng khi thi vào cấp III Nghi Lộc, tôi bị trượt. Tôi buồn vô cùng. Các thầy, cô và bạn bè tôi đều không nghĩ là tôi trượt. Mọi người động viên tôi, thôi thì học tài thi phận, khuyên tôi về nhà ôn, sang năm thi tiếp. Cả đời tôi, qua các trường, các bậc học, đây là lần thi trượt đầu tiên và duy nhất. Vừa buồn vừa xấu hổ, sĩ diện với bè bạn, lại cho rằng học bổ túc cũng được, miễn là tốt nghiệp được lớp 10 để đi xin việc, tôi quyết định xin vào học lớp 8 bổ túc văn hóa của Trường cấp III Nghi Lộc.

Chương trình Bổ túc văn hóa cũng cùng trường, cùng giáo viên, cùng giáo khoa như trường Phổ thông. Chỉ khác là chúng tôi chỉ học ba môn tự nhiên Toán, Lý, Hóa. Thời gian học là vào các buổi tối trong tuần. Hồi đó chưa có điện, lớp học được thắp sáng bằng đèn măng xông. Cùng học với tôi một lớp có Lê Văn Ba ngay cạnh nhà. Trường  cấp III  Nghi Lộc hồi đó ở thị trấn Quán Hành, gần chỗ huyện đội bây giờ, cách nhà khoảng 7 cây số, đi bộ hơn 1 tiếng đồng hồ. Hàng ngày, cứ đến 5 giờ chiều, tôi và Ba cắp sách đến trường. Học xong về đến nhà khoảng 10 giờ rưỡi đêm. Có bữa trời mưa, không về, ngủ lại trên bàn. Đêm rét quá, lấy tấm ni lông đắp.Vì đắp ni lông, mồ hôi hai anh em tụ lại chảy ròng ròng như người xông hơi.

Học xong lớp 8, tôi học tiếp lên lớp 9. Trong lý lịch bây giờ của tôi có ghi  hai bằng đại học: Kinh tế, Chính trị. Nhưng đó là chuyện sau này.

 Sinh ra, lớn lên bữa no bữa đói bằng hạt gạo, củ khoai, củ sắn ở một miền quê nghèo khó, nhưng bù lại tôi được nuôi dưỡng bằng một đời sống văn hóa tinh thần bình dị mà phong phú. Quê tôi từ năm 1945 đã được giải phóng. Hình ảnh những cánh đồng trải rộng thẳng cánh cò bay, những lũy tre xanh rợp mát những trưa hè; những câu ca dao thấm đẫm tình người bên chiếc võng tre qua lời ru của mẹ :

 

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một đời thờ mẹ, kính cha

Mới tròn chữ hiếu, mới là đạo con”

 

 “Nhiễu điều phủ lấy giá hương

Người trong một nước phải thương nhau cùng”.

 Khi đến tuổi cắp sách tới trường đi học, từng bước đã đưa tôi đến những trang lịch sử chống ngoại xâm oai hùng của dân tộc. Từ khởi nghĩa hai Bà Trưng, khởi nghĩa Phùng Hưng, Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan, rồi đến Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán ở Bạch Đằng Giang năm 938 chấm dứt 1.000 Bắc thuộc. Lý Thường Kiệt đánh thắng quân Tống trên sông Như Nguyệt, với bài thơ bất hủ được coi như Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất :

 “Nam quốc sơn hà Nam đế cư

 Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư

 Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

 Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.

 Với khí phách Đông A, thời Trần đã ba lần đánh thắng đế quốc Nguyên Mông mà vó ngựa xâm lăng của chúng đã từng chinh phạt nhiều quốc gia từ Á sang Âu. Bằng tài thao lược của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và chí khí quật cường của trăm họ đã lập nên những võ công oanh liệt ở thế kỷ XIII.  Đến thế kỷ XV, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã phất cao ngọn cờ đại nghĩa, mười năm trường kỳ nếm mật nằm gai lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi huy hoàng. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải cờ đào lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thu giang sơn về một mối sau hơn 200 trăm bị chia cắt; tiếp đến, lên ngôi Hoàng đế Quang Trung đã xuất quân thần tốc từ Phú Xuân ra Bắc Hà đại thắng 20 vạn quân Thanh chỉ trong mấy ngày Tết năm Kỷ Dậu (1789). Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, những cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra : Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân, Nguyễn Hữu Cầu, Phan Đình Phùng rồi Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học. Dẫu lần lượt thất bại, nhưng khí phách quật cường của phong trào, chí khí lẫm liệt của những người anh hùng sống mãi với sử xanh.

Ngày đó thầy giáo yêu cầu chúng tôi học thuộc lòng Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo:

“…Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi tai ương. Nhìn sứ giặc nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ…Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ tức một nỗi chưa xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân giặc; dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng…”.

 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được coi như Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai:

 ” Việc nhân nghĩa cốt để yên dân

 Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

 Như nước Đại Việt ta thuở trước

 Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

 Nước non bờ cõi đã chia

 Phong tục Bắc Nam cũng khác

 Trải Triệu, Đinh, Lý , Trần; bao đời xây nền độc lập

 Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương…”.

 Những trang lịch sử oanh liệt cùng những áng hùng văn bất hủ đó đã thấm đậm vào tình cảm và tâm hồn non trẻ của chúng tôi mà đến trọn đời không bao giờ quên. Những bài thơ hào sảng của Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Tố Hữu và nhiều nhà thơ khác đã khắc sâu vào tâm trí của chúng tôi. Ngay từ khi chúng tôi học cấp I, thầy giáo yêu cầu học thuộc lòng những bài văn hay như Đêm Trung thu gác trại, Cây tre Việt Nam của Thép Mới, bài thơ Chú đi tuần của Trần Ngọc…

Hồi đó, đất nước mới giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi được học, được nghe kể về những tấm gương anh hùng tiêu biểu : Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Tô Vĩnh Diện chèn thân cứu pháo, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai. Rồi đến những câu chuyện người thật, việc thật của các bậc cha chú trong làng tham gia chiến đấu trên các chiến trường đánh Pháp từ Việt Bắc, Tây Bắc đến Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ. Đế quốc Mỹ xâm lược Miền Nam, lập ra chính quyền bù nhìn tay sai, chúng tôi được nghe kể về tội ác của Mỹ - Diệm đang thực hiện chính sách đàn áp dã man bằng Luật 10 / 59 và được học những bài thơ, bài văn ca ngợi tinh thần đấu tranh bất khuất của đồng bào Miền Nam.

 Tình yêu quê hương, tình yêu Tổ quốc, niềm tự hào dân tộc được nhen nhóm từ thuở nhỏ và được vun đắp qua sự giáo dục bằng nhiều con đường đã hình thành nên đời sống tinh thần và sự xác định lý tưởng sống, lẽ sống của thế hệ chúng tôi là vậy. Tôi nghĩ rằng, đó chính là nền tảng ban đầu và cũng là hành trang của lớp thanh niên thời kỳ đầu lên đường chống Mỹ, cứu nước.

             

 

Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau “ Sự kiện vịnh Bắc Bộ ”, đế quốc Mỹ cho không quân ồ ạt ném bom bắn phá Miền Bắc. Nhiều nơi ở thành phố Vinh và Bến Thủy bị máy bay oanh kích. Rất bất ngờ, chẳng ai biết trước. Cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của giặc Mỹ kéo dài gần một thập kỉ với biết bao đổ nát, tang tóc, ập đến những người dân lành đầu trần, chân đất quê tôi là vậy đó. Giữa trời nắng chói chang, nhiều nhà vừa ăn cơm xong đang nghỉ trưa, thấy máy bay nhào liệng vun vút giữa trời cao, nhiều người thấy lạ, hiếu kỳ xúm xít đứng xem, gọi nhau, hỏi nhau í ới. Sau đó nghe tiếng nổ rất to đanh rền của bom, tiếng nổ lụp bụp của pháo cao xạ, biết là máy bay Mỹ ném bom, mọi người  nháo nhác hoảng loạn. Nhìn lên phía Vinh thấy một cột khói đen kịt bốc cao lên tận trời. Mấy ngày sau mới biết, đó là kho xăng dầu mỡ bị trúng bom, bốc cháy dữ dội, kéo dài.

 Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy máy bay phản lực Mỹ. Hầm hố trú ẩn chưa có, mọi người hốt hoảng chạy nhào xuống rào, nhảy đại xuống mương thủy lợi ở mép làng. Hễ có chỗ nào thấp và có cây cối  rậm rạp là chạy rạt xuống. Chưa có kinh nghiệm gì. Mọi người cứ nghĩ là,  những chỗ đó máy bay không thấy hoặc bom nổ cũng đỡ thương vong hơn. Nghe kể, có người chui đầu vào một cái hố, khi hết máy bay, kêu toáng lên vì không ra được. Đầu mắc kẹt trong hố, chân tay vùng vẫy, khua khoắng ở ngoài. Mọi người đến kéo ra, hỏi tại sao làm vậy. Thì người đó trả lời: “ Khi máy bay ném bom, cố giữ lấy cái “gáo”. Chân tay có trúng đạn, chỉ bị thương thôi, cùng lắm là cụt. Còn cái đầu mà trúng thì chỉ có chết. Hơn nữa cho đầu vào trong, nghe tiếng bom nhỏ hơn, đỡ sợ hơn”.

Sau này tôi được biết, sự thực của “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” là:  Trước thất bại nặng nề trên chiến trường Miền Nam, từ giữa năm 1964, đế quốc Mỹ có dã tâm dùng không quân và hải quân đánh phá ác liệt Miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn Miền Bắc đối với tiền tuyến lớn Miến Nam. Các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ đã tạo cớ bằng một kịch bản là cho tàu hải quân của Hạm đội 7 xâm phạm, khiêu khích, khiêu chiến trong vùng biển Miền Bắc Việt Nam. Trưa Chủ nhật ngày 2 tháng 8 năm 1964, một phân đội tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam được lệnh xuất kích tiến công tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ đang xâm phạm vùng biển ta ở gần đảo Hòn Mê (Thanh Hóa), buộc tầu Ma-đốc vừa dùng pháo bắn chặn vừa bỏ chạy ra vùng biển quốc tế. Đêm 4 tháng 8 năm 1964, chính quyền Giôn - xơn đã cho dựng lên một vở kịch là: cho tàu chiến Mỹ đang ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ bỗng nhiên bắn pháo sáng lên trời và bắn pháo cấp tập ra xung quanh để vu khống là tàu chiến Mỹ bị tàu chiến của Hải quân Việt Nam tiến công ở vùng biển quốc tế. ( Nhớ lần, tôi dẫn đầu một đoàn cán bộ sang công tác ở Mỹ vào tháng 9 năm 1999. Một hôm đến thăm Viện Lịch sử hải quân Mỹ, khi phía họ nói rằng:  đêm 04/8/1964, tàu Hải quân Việt Nam tấn công Tuần dương hạm Ma Đốc của Mỹ đang đậu ở vùng biển quốc tế. Do đó, buộc Mỹ phải đáp trả máy bay ném bom vào trưa ngày 05/8/1964. Bằng chứng cứ và lý lẽ kiên quyết với thái độ đối ngoại mềm mỏng, tôi nói rằng: đó chẳng qua là môt kịch bản của các ông được dàn dựng để vu cáo chúng tôi và tạo cớ ném bom miền Bắc Việt Nam mà thôi. Nghe xong, họ không có phản ứng gì. ).

Dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”, Giôn-xơn lấy cớ dùng không quân với 64 lần chiếc máy bay bắt đầu đánh phá miền Bắc từ 12 giò 30 phút trưa ngày 5 tháng 8 năm 1964. Quân và dân ta ở Vinh, Bến Thủy (Nghệ An), cửa sông Gianh (Quảng Bình), Lạch Trường (Thanh Hóa), thị xã Hòn Gai ( Quảng Ninh) đã sẵn sàng và chiến đấu rất dũng cảm bắn rơi 8 máy bay hiện đại của Mỹ, bắt sống tên giặc lái đầu tiên là Ê-vơ-rét An-va-rê ở Hòn Gai.

Ngày 5 tháng 8 năm 1964 là cột mốc mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Từ ngày đó quê tôi bắt đầu bước vào cuộc sống thời chiến. Các gia đình đào hố phòng không trong nhà, trong vườn. Hố đào sơ sài đơn giản. Nhiều hố trống không. Có hố gác mấy tấm ván mỏng dính lên làm nắp. Dân quân luyện tập, canh gác trực chiến suốt ngày, từ trong xã ra tận bãi biển Cửa Lò. Mọi người được quán triệt, cùng với việc phòng tránh, đánh trả máy bay Mỹ, còn phải sẵn sàng đánh tàu chiến khi cập gần bờ. Đặc biệt là, sẵn sàng đánh quân địch đổ bộ bằng đường không và đường biển. Tháng 9 năm đó, gần tròn 16 tuổi, tôi được các chú, các anh cho vào dân quân. Súng ít thôi, phần nhiều là súng cũ từ hồi đánh Pháp, được trên cấp thêm mấy khẩu K44 gọi là súng trường kỵ binh Nga còn mới tinh. Súng đạn chỉ trang bị cho những người đã qua kháng chiến chống Pháp và những người được coi là nòng cốt. Theo qui định chung, tôi xin mẹ mấy đồng bạc mua một cây đòng và một cuộn dây thừng. Mẹ tôi cười:

- Con còn bé, sức vóc thiếu niên ấy trói được ai, bắt được ai. Mẹ nghe nói thằng Mỹ cao to lắm. Hơn cả thằng Pháp cơ.

Ban ngày tôi  tập dân quân, có nhiều khoa mục: Kỹ thuật thì xạ kích, đâm lê, ném lựu đạn, gói bộc phá, đào công sự,…Chiến thuật thì học phòng ngự, phục kích, tập kích, bao vây, truy kích. Thao trường là sân kho hợp tác xã, cồn Làng Đông và các phía bìa làng. Tình huống giả định là, sau khi chiếm được Cửa Lò, địch cho quân tấn công làng Đại Xá, trung đội dân quân có nhiệm vụ bám trụ phòng ngự cản bước tiến, tiêu hao sinh lực địch, giữ bàn đạp cho bộ đội chủ lực cơ động phản công tiêu diệt địch. Giáo viên huấn luyện là các chú bộ đội phục viên sau kháng chiến chống Pháp dùng tài liệu hướng dẫn của trên. Ban đêm thì thay phiên nhau canh gác. Nhiều bữa tôi cùng các anh, các chị ra gác tận Cảng Cửa Lò. Tuổi trẻ cộng hưởng với không khí chung, háo hức lắm. Chiến tranh ác liệt đang  tới gần nhưng chúng tôi thấy rất vui. Thời gian đi tập dân quân được tính công điểm trong hợp tác xã nông nghiệp như đi làm.

Tập dân quân chừng nửa tháng, tôi được chọn làm liên lạc cho trung đội dân quân của làng. Liên lạc có nhiệm vụ truyền đạt mọi chỉ thị, mệnh lệnh từ trung đội xuống các tiểu đội và các báo cáo từ trung đội lên xã đội. Có lần, đang nửa đêm, Chú Lê Văn Ngọc trung đội trưởng giao tôi  ra Cửa Lò để truyền đạt mệnh lệnh cho tiểu đội canh gác ngoài đó. Mệnh lệnh thì dài, nhiều khoản mục, nhưng không được phép ghi lại bằng giấy.

Chú Ngọc nói :

- Tập cho quen, ngộ nhỡ trên đường đi “kẻ địch” bắt được. Việc quân cơ, sống để  dạ chết mang đi, không để lại dấu tích gì cả.

Tôi phải nhập tâm, một mình đi bộ gần 5 cây số ra truyền đạt lại với chú Thanh Tùng không sót một chữ. Mọi người khen tôi vừa gan vừa có trí nhớ tốt. Ngày đó đi đêm từ làng này sang làng khác giữa đồng không mông quạnh, lại qua nhiều nghĩa địa, ai cũng sợ ma chứ không sợ trấn lột như bây giờ.

Ngày đó ở quê tôi rầm rộ phong trào tòng quân đi chiến đấu ở chiến trường. Trong năm mấy lần tuyển quân: đợt 1 tháng 4, đợt 2 tháng 8, tiếp đến đợt 3 là tháng 10. Tôi trúng tuyển đợt 3. Đúng ra, vì tôi bị viêm amidan không qua được phòng khám tai mũi họng. Tôi xin phiếu khám khác và nhờ Phan Ngọc Thịnh, bạn cùng làng, khám thế ở phòng đó. Còn các phòng khác, tôi qua được. Đến phòng kết luận cuối cùng của Hội đồng Nghĩa vụ quân sự, tôi gặp anh Hoàng Văn Lượng, là anh  vợ của anh Thuần, con ông bác họ. Anh Lượng bảo tôi:

- Em chưa đủ tuổi, không đi được đợt này.

Tôi năn nỉ xin và được anh đồng ý khai tăng thêm cho tôi một tuổi.Thế là từ đó, trong lý lịch quân nhân của tôi đều ghi sinh  năm 1947.

 Tròn 16 tuổi, nặng 48 kg, cao 1,62 m, tôi lên đường nhập ngũ. Thực ra, tôi đã trốn cha tôi để đi bộ đội. Ngày đó ông đang tham gia khai hoang ở xã Nghi Kiều, cách nhà khoảng 30 cây số. Tôi sợ nói ra cha tôi không cho đi. Bằng cách là ông sẽ kiện lãnh đạo địa phương, vì tôi chưa đến tuổi. Tôi trốn đi, ông có biết cũng không thay đổi được nữa. Vì lúc đó tôi đã vào tận chiến trường Miền Nam rồi.

 Đêm trước ngày lên đường, Ủy ban hành chính xã Nghi Hợp mời các thanh niên trúng tuyển dự liên hoan chia tay. Đợt đó trong xã tôi có bốn người tòng quân: Làng Kỳ Sơn có anh Trần Văn Hợi con cố Tý Bờng, anh Nguyễn Đình Siêu con ông Siêu Sáng. Làng Đại Xá có anh Hoàng Quốc Định con ông Ổn và tôi. Sau Ngày toàn thắng 30-4, thì anh Hợi và anh Siêu hy sinh; Anh Định và tôi bị thương. Sau buổi liên hoan, trên đường về nhà, tôi cùng đi với chú Bá, lúc đó là cán bộ Văn phòng Ủy ban xã. Chú Bá hỏi tôi:

- Thế anh không tin cho bác trai biết à?

         Tôi trả lời:

           - Thôi chú ạ, không kịp nữa rồi. Vào trong đó, tôi sẽ viết thư về xin phép. Và sau này, nếu  còn sống trở về,  tôi tạ lỗi cha tôi cũng được. Nhờ chú ở nhà động viên hai ông bà hộ.

Như phần trên tôi có nói, chú Nguyễn Văn Bá là dân quân bị thương năm 1953 do ném thử lựu đạn khi quân Pháp đổ bộ lên Cửa Lò. Chú là con ông Nguyễn Văn Oanh, theo thứ bậc trong họ, chú gọi tôi bằng anh, mặc dù chú hơn tôi 21 tuổi.

Đêm dự liên hoan ở xã về, tôi tâm sự với mẹ. Mẹ tôi đã khóc rất nhiều. Suốt cả đêm hai mẹ con không tài nào ngủ được. Cha thì chưa về, chị thì thoát ly ở xa. Mẹ ở nhà với ba em còn nhỏ dại, thơ ngây. Em Đào lên 6 tuổi. Em Loan lên 4 tuổi. Em Phượng mới hơn 1 tuổi. Kinh tế gia đình túng bấn. Sáng dậy, mẹ đưa cho tôi 7 đồng bạc trong số 12 đồng mẹ mới bán trái cây trong vườn. Phụ cấp binh nhì ngày đó là 5 đồng. Như vậy, số tiền mẹ cho tôi còn hơn một tháng phụ cấp. Tôi mặc một cái áo xanh, một quần ka-ki. Nhét vội 7 đồng bạc vào túi quần, tôi ôm choàng lấy mẹ trước giờ chia tay trong nước mắt.

Tôi thật không ngờ, cái ngày 15 tháng 10 năm 1964 là cột mốc bắt đầu sự nghiệp cuộc đời tôi -  mở đầu quãng đời đằng đẵng 45 năm quân ngũ, cũng là ngày cuối cùng tôi chia ly vĩnh viễn mẹ tôi, không bao giờ gặp lại. Tôi đi chiến trường được hai năm thì mẹ tôi mất. Bà mất ngày 21 tháng giêng âm lịch năm 1966, khi mới 47 tuổi. So với bây giờ, phụ nữ ở tuổi đó còn trẻ lắm. Tin mẹ mất đến với tôi rất muộn. Trong chiến tranh thư từ vô cùng khó khăn. Cả đời tôi và cả gia đình tôi đều xót thương mẹ. Bà sinh thành, dưỡng dục năm người con trong bần hàn. Bà ra đi quá sớm chưa hề được một chút gì của con cái báo đáp.

Ngày tôi lên đường không một người đưa tiễn. Đầu không mũ, chân đi đôi dép lốp, tay cầm một quyển sách, tắt qua vạt vườn lên ngang nhà mự Doãn, mọi người đang lăn lúa ở sân hỏi tôi:

- Đấu đi đâu đó?

Tôi trả lời:

- Cháu đi bộ đội.

Mọi người nghĩ là tôi đùa.

Cứ thế, tôi lẳng lặng một mình đi lên thị trấn Quán Hành, nơi tập trung tân binh. Tới nơi, tôi thấy nhiều gia đình tiễn con em đi bộ đội rất nhộn nhịp. Anh Ổn, anh Vĩnh làng tôi đi tiễn anh Định. Anh Tý người làng Kỳ Sơn đi tiễn anh Hợi. Đến trưa mọi người mở cơm nếp, thịt gà ra ăn. Tôi chẳng có gì. Thấy thế, các anh xẻ cho tôi một nắm xôi và một miếng thịt gà luộc. Tôi cầm ăn, không nuốt nổi vì tủi thân, mũi cay xè, nước mắt rơi lã chã, lòng nghẹn ngào khôn tả.

Đêm đầu tiên ngủ lại nhà dân ở xã Nghi Trung. Sáng ngủ dậy, chúng tôi tập trung  ở thị trấn Quán Hành và lần lượt được cán bộ nhận quân gọi tên từng người lên xe ô tô. Những chiếc xe ca, trên đầu cắm cờ đỏ, hai bên thành xe là hai khẩu hiệu lớn, nền đỏ chữ vàng: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” và“Chào mừng thanh niên lên đường nhập ngũ”. Đúng 7 giờ xe chuyển bánh. Trước đó mấy phút, nhìn xuống vệ đường, tôi nhìn thấy mự Việt là bà con trong làng, quẩy gánh, hình như đi Chợ Cầu. Tôi thò đầu qua cửa kính,gọi thật to:

- Mự Việt ơi! Xin chào mự. Cháu đi bộ đội đây nhé. Mự về nói lại với mẹ cháu là cháu đã lên đường rồi.

 Chẳng biết có nghe không, tôi thấy mự gật gật đầu.

  Xe qua cầu Bến Thủy, chạy bon bon dọc đất Hà Tĩnh rất dài. Đến Đèo Ngang xe chạy chầm chậm, tôi quan sát kỹ hai bên đường thấy quả là nơi đây đẹp thật - một danh lam thắng cảnh, non nước hữu tình. Qua văn học, tôi được biết đây là nơi dừng chân ngắm cảnh, đề thơ của các tao nhân mặc khách. Tôi nhớ lại và se sẽ đọc bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan:

"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

 Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

 Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nước  đau lòng con cuốc cuốc

 Thương nhà mỏi miệng cái da da

 Dừng chân nhìn lại trời non nước

 Một mảnh tình riêng ta với ta."

 Lòng tôi ngổn ngang cảm xúc vừa vui, lại vừa buồn. Vui vì được tòng quân lên đường chiến đấu như ý muốn. Buồn vì xa gia đình, quê hương, bè bạn, đặc biệt là xa mẹ tôi.

  Đến thị trấn Ba Đồn (Quảng Trạch, Quảng Bình), xe rẽ phải theo quốc lộ 20 đi về phía tây. Qua phà Minh Cầm, xe dừng lại đổ quân xuống. Trời mưa tầm tã, chẳng có áo mưa vì chưa được phát quân trang. Mỗi đứa chúng tôi cầm một cành lá cọ, bắt đầu hành quân bộ. Trời mưa rét, đường trơn, chúng tôi xuyên rừng vượt Đèo Khế. Đây là con đường mòn của thợ sơn tràng. Đèo cao lắm, leo dốc mệt vô cùng. Giữa trời rét mà mô hôi cứ túa ra, ướt cả áo. Lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là vượt dốc, trèo đèo, mưa rừng, gió núi. Chân đạp lên những mỏm đá tai mèo sắc nhọn, chảy cả máu. Ngửi thấy mùi máu, vắt bám theo tua tủa. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy cảnh này, ghê lắm.

 Tối mịt, chúng tôi đến một làng khá rộng dưới chân đèo, giữa thung lũng, phía trước là một con sông. Cả đơn vị dừng lại đóng quân trong nhà dân. Đó là làng Cổ Liêm, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Cán bộ chỉ huy phổ biến: “Tại đây, các đồng chí được cấp quân trang, biên chế chính thức vào từng tiểu đội, trung đội, đại đội và tiến hành huấn luyện tân binh. Vừa huấn luyện vừa ăn bồi dưỡng. Thời gian khoảng 1 tháng nữa sẽ hành quân đi B dài”.

Hàng ngày, sáng ngủ dậy chúng tôi ra bờ sông đánh răng, rửa mặt. Nước sông trong xanh, chảy xiết, cát trắng mịn. Dưới ánh bình minh, bóng núi chiếu xuống lòng sông, trông thật đẹp. Hồi đó nghe nói ở đại đội bên có người đi đánh răng, sơ ý  trượt chân ngã bị nước lũ cuốn chết đuối.

 Đồng bào nơi đây ở nhà sàn. Hình như là người dân tộc. Tối về chúng tôi ngủ trên sàn lát nứa cùng đồng bào. Dưới sàn là mấy con trâu buộc ở chân cột nhà. Đêm đông miền núi, cạnh lèn đá vôi, rét lắm. Không ngủ được, mấy anh em ngồi dậy quây quần bên bếp lửa. Bếp lửa là cả những cây gỗ khô to bằng cổ chân để dài cứ thế đốt suốt ngày. Trên giàn bếp đầy bồ hóng, tôi thấy những chiếc đầu bò, chân bò, đầu trâu, chân trâu đen kịt và cả những xâu ngô treo lủng lẳng. Ở đây ngô gọi bằng sạo. Tôi được biết, những thứ đó đều là thực phẩm, lương thực dự trữ quanh năm của đồng bào. Khi mổ trâu bò, chặt chân và đầu cứ để tươi thế đem gác bếp đến khô quắt lại. Không hề bị hỏng. Những ngày mưa gió không có thức ăn tươi, họ lấy những thứ đó ra, đẽo lấy mấy miếng ngâm nước gạo, rửa sạch, đem xào nấu, hoặc nấu canh ăn.

 Tôi được biên chế vào Tiểu đội 1, Trung đội 2, Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 101, Sư đoàn 325B. Được biết, trước đó, Sư đoàn 325A đã vào B. Sư đoàn 325 (thời kỳ đầu gọi  là Đại đoàn) thành lập ở Bình Trị Thiên từ trong kháng chiến chống Pháp, trên cơ sở ba trung đoàn: Trung đoàn 18 Quảng Bình, Trung đoàn 95 Quảng Trị và Trung đoàn 101 Thừa Thiên. Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Sư đoàn là ông Trần Quí Hai, quê Quảng Ngãi, một trong những người lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ. Sau này Ông Trần Quí Hai là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu phó, kiêm Trưởng ban Cơ yếu Trung ương). Sư đoàn 325B lúc đó do ông Trần Văn Trân làm Tư lệnh, ông Trần Xuân Lư làm Chính ủy. Trung đoàn 101 do ông Nguyễn Xuân Lực, Anh hùng quân đội, làm Trung đoàn trưởng. Tiểu đoàn 4 của chúng tôi do ông Nguyễn Văn Thoại làm Tiểu đoàn trưởng.

 Ngày hai buổi chúng tôi được tập trung ở các bãi cỏ cạnh chân núi để huấn luyện quân sự. Tập bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, mắc tăng võng, đào bếp Hoàng Cầm…Nhiều hơn cả là tập hành quân mang vác nặng, trèo đèo, lội suối. Ngoài ra, còn làm nhiều việc khác như đi vào rừng đốn củi, xuống bếp thay nhau làm cấp dưỡng,…Với tôi, việc gì cũng khó, cũng lạ vì ở nhà tôi chưa bao giờ làm những việc đó. Các anh lớn tuổi hơn coi tôi như đứa em út trong tiểu đội, thương và thường xuyên giúp đỡ tôi mọi việc từ nhỏ đến lớn.

 Cùng với việc huấn luyện quân sự, hậu cần, kỹ thuật, chúng tôi còn được phổ biến thời sự, học tập chính trị nhằm quán triệt tình hình, nhiệm vụ, xác định quyết tâm lên đường chiến đấu. Cán bộ chính trị của đơn vị tuyên truyền về hai sự tích anh hùng còn tươi rói trong năm 1964 là: Gương liệt sỹ Nguyễn Văn Trổi, chiến sỹ biệt động Sài Gòn đặt mìn ám sát Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mac-na-ma-ra ở cầu Công Lý ngày 9-5-1964 không thành, bị địch bắt. Và, những giây phút lịch sử cuối cùng của anh ở pháp trường trước giờ địch xử bắn ngày 15-10-1964. Gương liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân, chính trị viên Đại đội 3, Tiểu đoàn 14 cao xạ, Sư đoàn 325B, trong trận chiến đấu khốc liệt với máy bay Mỹ, ngày 18-11-1964, tại khu vực Cha Lo miền tây Quảng Bình, với khẩu lệnh bất hủ: “Nhằm thẳng quân thù, bắn”. Chúng tôi chăm chú nghe không sót một câu, lòng ngưỡng mộ vô cùng. Toàn đơn vị  được khích lệ trong không khí sôi nổi, hăng hái, sẵn sàng lên đường thi đua giết giặc lập công.  Mỗi người đều viết quyết tâm thư, có người viết bằng máu.

 Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước phải hơn 10 năm sau, với biết bao xương máu, gian khổ hy sinh chồng chất, mới giành được thắng lợi cuối cùng. Vậy mà ngày đó, đám lính trẻ chúng tôi cứ lạc quan, hăm hở, háo hức như thể, không đi nhanh vào B sẽ không kịp góp mặt trong ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Mà cũng chẳng phải riêng chúng tôi, có lẽ cả đất nước đều vậy. Đi bộ đội là một niềm vinh dự. Càng vinh dự hơn là được vào Nam chiến đấu. Cách tuyên truyền như nhà văn Bảo Ninh đã viết trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, là: " Ta thắng, địch thua, Miền Bắc được mùa, thế giới chia làm hai phe rõ rệt ”.

Cách tuyên truyền ngày đó, có mặt tích cực là khơi gợi, phát huy lòng nồng nàn yêu nước, chí căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta; cổ vũ động viên cả nước lên đường, mọi người ra trận. Đồng thời có mặt hạn chế, sau này chúng tôi mới nhận ra, đó là cách tuyên truyền đơn điệu, phiến diện, một chiều, chỉ thấy thuận lợi không thấy khó khăn, gây tâm lý ảo tưởng, chủ quan, nóng vội. Chỉ thấy mặt hào hùng, không thấy sự khốc liệt của cuộc chiến. Vì thế, đến khi đối mặt với thực tế khốc liệt, đầy gian khổ hy sinh, khó khăn phức tạp trăm bề, thậm chí không ít lần thất bại, thoái trào, thì tưởng như đây là sự phũ phàng, bị dối lừa, dễ dao động, hoang mang, ngờ vực. Thậm chí, có người quay lưng lại phủ nhận tất cả. Cá biệt có người chiêu hồi, đầu hàng địch.

 Ban ngày tôi hăm hở say mê làm mọi việc khẩn trương, gấp rút theo không khí chung. Lợi thế của tuổi trẻ và sức khỏe giúp con người ta dễ thích nghi với hoàn cảnh sống. Đêm về, trời rét đậm, hình như cái giá lạnh từ trong lèn đá lan tỏa sang. Thao thức không ngủ được, nghe tiếng vượn kêu thảm thiết vọng từ trong núi ra, tôi nhớ nhà, nhớ quê hương kinh khủng, đặc biệt là nhớ mẹ da diết. Nhiều hôm đứng gác giữa trời đêm, mưa phùn, gió lạnh, cô quạnh quá, tôi ôm súng thút thít khóc một mình.

 Có lần tôi được cử đi thị trấn Qui Đạt để nhận khiêng lợn về cho đơn vị. Đến bến sông nước lũ đục ngầu chảy xiết. Thỉnh thoảng nhìn thấy những cây gỗ to từ thượng nguồn lao vun vút theo dòng nước chảy xiết. Mọi người trèo lên ngồi  trên một cái thuyền độc mộc, từ một thân cây gỗ đục ra. Một dây song rất dài, to bằng cổ tay nối vào hai gốc cây hai bên bờ. Chúng tôi cùng bám vào hợp sức kéo dây song thật mạnh, đưa thuyền sang bờ bên kia. Tôi hình dung, nếu giữa dòng, dây song bị đứt thì chắc chắn cả cái thuyền độc mộc sẽ bị nhấn chìm và tất cả chúng tôi bị nước cuốn chết đuối hết. May cả đi lẫn về, chúng tôi đều trót lọt.

Hồi huấn luyện ở vùng Qui Đạt, trước khi đi B, ngoài anh Định cùng nhập ngũ, tôi còn gặp hai người cùng làng: Chú Lê Văn Kỷ và anh Phan Ngọc Mai. Mới thoát ly, lúc xa nhà trên miền đất lạ gặp được đồng hương, lại là đồng hương làng, thật là quí hiếm. Chú Kỷ làm trung đội trưởng trong cùng đại đội. Anh Mai làm văn thư quân lực tiểu đoàn. Anh Mai hơn tôi 4 tuổi, học trên tôi 1 lớp, đi bộ đội trước tôi 1 năm. Ngày đó giữa đám tân binh quân phục còn thơm mùi hồ, nhìn thấy anh Mai rắn rỏi trong bộ quân phục bạc màu, tôi nể phục lắm.

Hết thời gian huấn luyện và bồi dưỡng sức khỏe, chúng tôi hoàn tất mọi công việc chuẩn bị lên đường đi B. Mọi người được trang bị đầy đủ:  ba lô con cóc, quần áo, chăn màn, mũ tai bèo, tăng võng, ni lông, bi đông, túi đựng cơm, lương khô, mắm kem, bao gạo (ruột tượng), hộp thuốc cá nhân, thuốc pha với nước lã uống trực tiếp, băng cá nhân. Trên danh nghĩa, chúng tôi sẽ là chiến sĩ Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Do đó, theo qui định bắt buộc, tất cả những thứ tư trang, đồ dùng cá nhân, từ tấm ảnh, giấy tờ tùy thân, sổ lưu bút, nhật ký, có cái gì liên quan đến Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đều phải gửi lại, bỏ lại, không được mang theo người. Phát hiện ra ai không chấp hành, cố tình mang đi là bị xử lý kỷ luật.

 Ngày đó tôi là đứa trẻ mới lớn, chưa có người yêu. Những anh lớn tuổi hơn, có người yêu, thậm chí có vợ con rồi, khi bỏ lại những tấm ảnh của người thân, tần ngần, xúc động, tiếc lắm. Mà ảnh thì có phải nhiều như bây giờ đâu. Có người cả đời chưa chụp ảnh. Nhiều người trước lúc chia tay, vội vàng chụp một pô ảnh đen trắng để làm kỷ niệm, nên rất quí. Có người dùng túi ni lon bọc ảnh rất kỹ, cố giấu ảnh tận đáy ba lô. Trên đường hành quân đi B và khi ở chiến trường sau này, thi thoảng một mình nhớ nhà quá, mở ra xem. Tiền thừa còn lại và tư trang đều phải gửi về nhà qua đường bưu điện. Từng người kê khai, đóng gói, tập trung lại do đơn vị cử người đi gửi. Tôi gom góp lại được 100 đồng, gồm tiền ăn bồi bưỡng còn thừa được thanh toán cộng với tiền trong túi còn lại. Đồng thời giặt sạch bộ quần áo ngày mặc lên đường gấp lại kèm một bức thư gửi về cho mẹ.

 Chúng tôi được lãnh đạo, chỉ huy đơn vị phổ biến là theo mệnh lệnh của trên, đơn vị sẽ đi “B dài”. “B dài” nghĩa là, đơn vị sẽ vào chiến đấu lâu dài ở Miền Nam từ nam Đường 9 cho tới tận cùng Nam Bộ. Còn “B ngắn” là chiến đấu ngắn ngày, thường là một chiến dịch, trên chiến trường Bắc Quảng Trị, còn gọi là “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam”. Hoặc những cán bộ được cử vào chiến trưòng “B dài” công tác một thời gian rồi trở ra Bắc. Đi “B dài”, gia đình ở hậu phương sẽ  được địa phương đăng ký, quản lý, cấp phát tiền trợ cấp B cho những thân nhân chủ yếu (cha, mẹ, vợ, con) chưa đến hoặc đã hết tuổi lao động; được hợp tác xã , trường phổ thông, cơ sở y tế,…thực hiện đầy đủ mọi chính sách hậu phương quân đội theo qui định của Nhà nước. Còn “B ngắn” thì gia đình không được hưởng trợ cấp B. Thời gian ở chiến trường “B ngắn” quân nhân được bảo đảm toàn bộ chế độ cung cấp; đồng thời được hưởng chế độ tiền lương, phụ cấp cao hơn khi ở Miền Bắc- khoảng gần  gấp rưỡi. Sau từng đợt chiến dịch, trên dưới 1 năm, đơn vị rút ra Miền Bắc để cung cố, an dưỡng, huấn luyện. Thường đóng ở Quảng Bình, Hà Tĩnh. Từng người được thanh toán truy lĩnh toàn bộ tiền lương, phụ cấp trong thời gian đi chiến đấu ở chiến trường. Mỗi người dồn lại một cục gửi về gia đình.

 Ngày 25 tháng 12 năm 1964, toàn đơn vị nhập trạm giao liên bắt đầu lên đường đi B. Chúng tôi được biết, lộ trình hành quân sẽ là từ miền tây Quảng Bình  vào Nông trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh), lên Làng Ho, vượt qua Đường 9 vào Trường Sơn sang Lào. Từ vùng giải phóng Lào đi dọc theo tuyến tây Trường Sơn thẳng về Nam. Tùy theo nhiệm vụ của từng đơn vị bổ sung cho từng chiến trường mà rẽ ngang về Trị Thiên, về Khu 5, vào Tây Nguyên, hoặc đi thẳng qua đất Cămpuchia vào tận Nam Bộ.

Ngày đó, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ mới giới hạn ở những trọng điểm nhất định, chưa lan rộng như 1 - 2 năm sau. Đông và Tây Trường Sơn vẫn là những cánh rừng nguyên sinh nhiệt đới bạt ngàn rậm rạp, nhiều tầng, có nơi lâu lắm rồi hình như chưa có dấu chân người. Đường hành quân bộ là đường mòn Hồ Chí Minh. Một lối đi  nhỏ thôi, hàng một, vươn ra, vươn xa dưới những khu rừng đại ngàn được phủ kín bóng cây cao bóng mát, vượt qua nhiều con suối nước trong  xanh. Sau này, khi nghe bài hát Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây, nhạc của Hoàng Hiệp, lời thơ của Phạm Tiến Duật, có câu “ Đường ra trận mùa này đẹp lắm”, đám lính trẻ chúng tôi tranh luận với nhau sôi nổi. Có người lập luận, nhà thơ đã lãng mạn hóa, thi vị hóa để cổ động tuyên truyền mọi người ra trận, chứ  thực ra đường ra trận có gì đâu mà đẹp. Hơn nữa, bất cứ ở đâu, lúc nào, mọi cuộc chiến tranh, kể cả chiến tranh chính nghĩa, đều là điều bất đắc dĩ đối với con người. Chiến tranh là một biện pháp giải quyết tình thế giữa các tập đoàn xã hội, khi không còn phương cách nào khác, thì hãy đừng coi đó là đẹp. Có người lại nói, kể ra nếu dùng từ “vui” thay cho từ “đẹp” thì đúng hơn. Vì ngày đó với khí thế hừng hực, như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, trong không khí rộn rịp, thì dùng  từ “vui” hợp lý hơn. Với tôi, tôi cho rằng ở thời điểm cuối năm 1964 đầu năm 1965, đường hành quân đi B chưa bị bom đạn địch cày xới, cây rừng còn xanh tươi, chưa bị chất độc làm trụi lá, non nước hữu tình, cộng với khí thế hào hùng sôi nổi hăm hở của những chàng trai trẻ đi chiến đấu, trùng điệp những đoàn quân ra trận, thì quả thật, đường ra trận vừa vui, vừa đẹp.

Trên đường hành quân mỗi người mang theo trên mình khoảng 30 kg. Trong đó riêng bao gạo đủ ăn được 10 ngày. Đến từng trạm bổ sung dần lương thực, thực phẩm. Mỗi ngày chúng tôi hành quân qua một cung trạm. Từ trạm này sang trạm khác khoảng 30 cây số. Trên đường đi cứ bình quân 1 tiếng đồng hồ nghỉ giải lao độ 10 phút. Thường là sau khi đã ăn sáng, đổ đầy nước sôi vào bi đông, được lệnh xuất phát từ 5 giờ thì đến trạm tiếp theo khoảng 5 giờ chiều. Ở rừng trời mau tối. Hơn 5 giò chiều đã nhá nhem, mọi người chuẩn bị nấu cơm ăn, mắc tăng võng để ngủ. Bếp ăn tiểu đội, mọi người chuẩn bị củi đuốc, che lại ánh sáng, khơi lại bếp để nấu cơm tối và chuẩn bị bữa sáng mai, trưa mai.

Để bảo đảm bí mật, chỉ huy đơn vị  phổ biến yêu cầu mọi người thực hiện nghiêm ngặt mọi qui định. Thực hiện đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng. Đúng như các cụ xưa thường nói: “Lai vô ảnh, khứ vô hình”. Đi không dấu là rời khỏi nơi trú quân tuyệt đối không để lại dấu tích gì, dù là nhỏ nhất. Khi chặt cây rừng để làm cột mắc võng hoặc lấy củi, phải rút hết toàn bộ cành lá xuống. Nếu để lại, cành cây bị chết khô, từ trên cao, máy bay địch sẽ phát hiện được dấu hiệu khả nghi. Nấu không khói là để tránh máy bay Mỹ phát hiện, khi nấu cơm phải đào bếp Hoàng Cầm. Ban ngày thì không có khói. Ban đêm thì không phát ra ánh sáng. Chúng tôi được biết bếp Hoàng Cầm xuất hiện từ hồi kháng chiến chống Pháp do một chiến sỹ nuôi quân tên là Hoàng Cầm đã có sáng kiến đào đường hầm dẫn khói đi trong lòng đất rồi lan tỏa dần. Như vậy là, ở nước ta có ba ông Hoàng Cầm thành danh: Tướng Hoàng Cầm, nhà thơ Hoàng Cầm và chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm. Nói không tiếng là nói đủ nghe, không ồn ào, sợ biệt kích địch phát hiện. Ngày đó Mỹ đã nghiên cứu chế tạo ra một loại máy thu phát tín hiệu, vỏ bằng cao su, nhựa, bề ngoài không tinh mắt nhìn như một loại cây rừng - gọi là cây nhiệt đới. Máy bay Mỹ thả cây nhiệt đới vào các khu rừng trên tuyến hành quân của ta để thu thập và phát thông tin về các căn cứ của chúng.

Cứ thế, ngày đi đêm nghỉ. Đến một ngày cả đơn vị vượt qua một con sông nhỏ trên một cái cầu mấy cây tre ghép lại, có tay vịn. Tới giữa dòng, anh chính trị viên đại đội ngoái lại nói nhỏ với tôi rằng, đây là sông Sê Pôn. Sang bên kia là  huyện Mường Phìn, tỉnh Savanakhet đất Lào rồi. Qua cầu, tôi ngoảnh lại bờ đông là một rừng tre cao vút dưới nắng vàng, đẹp lắm. Nơi ấy là Tổ quốc mình. Lòng tôi bồi hồi xúc động. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đi ra nước ngoài. Đi ra nước ngoài mà không có hộ chiếu, không có giấy tờ tùy thân. Với bộ quân phục Quân Giải phóng và chiếc mũ tai bèo, mà như nhà thơ Tố Hữu sau này đã viết, chẳng làm đau một chiếc lá trên cành, đã thay cho hộ chiếu. Trong túi áo của mỗi người chỉ vỏn vẹn một tờ giấy bìa cứng, rộng bằng cái chứng minh thư, trên đó đề  là Giấy chứng nhận XYZ, họ và tên, được cử đi Bác Ái. Lúc đó tôi cũng chẳng biết giấy XYZ  là cái gì, để làm gì, cất giữ ra sao, tại sao lại lấy 3 ký hiệu toán học đặt tên cho nó. Đi Bác Ái nghĩa là đi đâu. Chỉ biết rằng, mỗi người đi “B dài” đều được cấp giấy XYZ. Nhưng khi đã vào chiến đấu ở chiến trường rồi chẳng còn quan tâm đến miếng giấy đó nữa. Sau này, khi ra Bắc, nghe đâu cần có giấy chứng nhận XYZ để làm khen thưởng thì phải. Ai nghĩ ra việc đó kể cũng lạ. Người lính bao năm lăn lộn vào sinh ra tử ở chiến trường, ai còn giữ được một cái miếng giấy nhỏ bằng nửa lòng bàn tay!

 Đêm dừng lại trú quân ở một cánh rừng tre, trời mưa phùn, se lạnh, cơm nước xong,  trèo lên võng nằm, lòng bồi hồi cảm xúc, tôi viết mấy câu thơ làm kỷ niệm sau này:

         “ Ra đi chiều ấy cuối mùa Đông

          Biên giới là đây một nhánh sông

         Qua cầu tre nhỏ sang đất Bạn

         Ngoảnh lại giang san chốn Lạc Hồng”.

 Hành quân được bốn  ngày, đến bữa ăn tôi thấy rất ngon miệng, cảm giác như ăn bao nhiêu cũng hết, không biết no. Sau này mới biết đó là dấu hiệu ban đầu của bệnh sốt rét rừng. Người bị bệnh sốt rét có hai thời điểm ăn rất nhiều: trước khi bị ngả bệnh mấy hôm và sau khi hết bệnh ăn giả bữa. Sang ngày thứ 5 khi đến trạm giao liên tôi  bị sốt li bì. Bên ngoài thì người đỏ lừ sốt cao, mà trong bụng thì rét kinh khủng. Rét tận đáy lòng, thấu tận sống lưng. Tôi vơ bao nhiêu thứ đắp vào mà vẫn run cầm cập, chui vào bếp đốt lửa sưởi cũng không hết rét. Lúc đầu tôi cứ nghĩ là bị cảm lạnh nhưng không phải, chẳng hiểu bị bệnh gì. Đêm đến, anh tiểu đội phó lên đại đội báo y tá xuống xem. Anh Soạn y tá đại đội, quê ở vùng Qui Đạt- Quảng Bình đến gặp tôi sờ trán, hỏi han, cặp nhiệt kế đo nhiệt độ lên tới 39,5 độ. Anh vừa mỉm cười, vừa nói :

- Như thế này là bị sốt rét rồi, em ạ. Không sao đâu, chịu khó uống thuốc đủ liều,  rồi mấy bữa là khỏi thôi. Người ta nói, phi sốt rét bất thành Quân Giải phóng mà. Sống ở rừng, trước sau thì ai cũng bị sốt rét cả, không ai thoát được đâu. Có điều, em bị sốt rét hơi sớm. Mới hành quân được 5 ngày thôi đấy.Vào tận cùng, nghe đâu,  phải hành quân bộ mất những 3 tháng nữa cơ.

Nói rồi, anh đưa tôi mấy viên thuốc quinin và một bát nước. Tôi uống vào đắng lắm. Đến khuya thì tôi hạ sốt nhưng vẫn rét run người.

  Sáng ngày ngủ dậy tôi đau ê ẩm toàn thân, đầu đau như búa bổ, miệng đắng ngắt, lưng đau nhừ, chân tay bủn rủn. Đến giờ hành quân, anh tiểu đội trưởng san hết đồ đạc của tôi cho toàn tiểu đội. Người thì mang khẩu súng, người khoác hộ ba lô, người quàng thêm bao gạo. Tôi chỉ chống một cây gậy thất thểu lên đường, chân bước liêu xiêu. Cứ thế, mấy ngày sau, bệnh tình tôi không thuyên giảm, thậm chí còn nặng thêm. Mấy bữa liền không ăn uống được gì, người tôi gầy rộc và khuỵu xuống không đi được nữa. Anh em trong tiểu đội phải chặt một khúc tre làm đòn khiêng cột võng vào làm cáng  để cáng tôi tiếp tục hành quân. Nằm trên võng lắc lư khi lên dốc, lúc xuống đèo, vượt suối, người bị sốt li bì, tôi chẳng biết gì. Khi tỉnh dậy tôi thương anh em đồng đội vô cùng. Cáng được tôi trên đường hành quân anh em đồng đội vất vả lắm.

 Ba ngày sau, theo đề đạt của tiểu đội, trung đội, thủ trưởng đại đội xét thấy, tôi không còn đủ sức đi tiếp mà để anh em cáng, thì làm chậm tốc độ hành quân của đơn vị. Vì vậy, đề nghị lên tiểu đoàn gửi tôi lại trạm giao liên, đợi đến lúc khỏe sẽ vào sau. Tôi cứ nằm trên võng, từng anh em trong tiểu đội đến  cầm tay tôi nồng ấm bịn rịn chia tay:

- Em ở lại nhé, đi sau.

 Tôi giàn giũa nước mắt lưu luyến giã từ đồng đội. Đó là những người vừa là đồng đội, vừa là bạn học, vừa là đồng hương. Chúng tôi không chỉ gắn bó với nhau bằng nhiều kỷ niệm trong thời gian mới vào quân ngũ mà còn thân thiết với nhau từ khi còn ở quê. Tôi linh cảm, cuộc chia ly này khó có ngày hội ngộ.

Quả thật, trong suốt thời gian ở chiến trường và hơn thế, đằng đẵng 45 năm quân ngũ, trải qua nhiều cương vị, nhiều đơn vị, nhiều địa bàn, tôi chưa bao giờ gặp lại những người cùng nhập ngũ, cùng đơn vị ngày đó. Sau này tôi được biết, đơn vị đó hành quân vào Tây Nguyên chiến đấu một thời gian rồi đi tiếp vào Nam Bộ. Sau hơn 10 năm chiến đấu, cùng nhập ngũ với tôi ngày đó, rất nhiều người đã hy sinh, bị thương, số còn lại  hầu hết phục viên về quê sau ngày toàn thắng, số rất ít phục vụ quân đội đến  tuổi nghỉ hưu. Mãi tới sau này, tôi mới gặp lại hai người cùng ở đơn vị, đó là anh Nguyễn Công Dung, Đại tá, Chỉ huy trưởng Quân sự Thị xã Cửa Lò- Nghệ An và anh Lương Tiến Đại, Đại tá, Chỉ huy phó về Chính trị Tỉnh đội Quảng Bình, nghỉ hưu làm Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Quảng Bình.

Khi anh em cáng tôi đến bàn giao cho trạm xá của trạm giao liên hay của binh trạm, tôi mê man chẳng biết gì. Hôm sau tỉnh dậy, tôi thấy cùng cảnh mới đến như tôi độ khoảng 10 người nữa. Cũng đều là đám lính trẻ hành quân đi B bị sốt rét rừng, không chịu nổi, phải gửi lại. Còn lại là số thương hinh, bệnh binh đã điều trị ở đây từ trước.

Trạm xá ở một khu rừng nước bạn Lào bằng phẳng, cây cối  tốt tươi, rậm rạp và đẹp. Nép dưới tán lá cây rừng là mấy dãy nhà lợp cỏ tranh, xung quanh che chắn bằng phên nứa. Các dãy lán dài trải bằng sạp nứa. Nằm trên đó có cả thương binh lẫn bệnh binh. Chúng tôi được phổ biến rằng, đây là trạm xá dã chiến để thu dung thương binh, bênh binh trên tuyến hành quân. Ai nhẹ thì điều trị một thời gian rồi trả về đơn vị cũ hoặc bổ sung cho đơn vị khác theo quyết định của cấp trên. Ai nặng thì chuyển về phía sau, nặng hơn nữa thì chuyển hẳn ra Bắc. Hàng ngày, sau giờ ăn sáng, cấp thuốc uống hoặc tiêm, ai không bị lên cơn sốt thì, hoặc là chơi tú lơ khơ, đánh cờ tướng, hoặc tha thẩn dạo chơi xung quanh trạm xá. Cũng có khi chúng tôi ra suối câu cá hoặc vào rừng hái rau tàu bay, hoặc đào hái măng đưa về cho nhà bếp cải thiện thêm bữa ăn.

 Điều trị ở trạm xá được hơn mười ngày, dứt cơn sốt, sức khỏe bình phục dần, tôi háo hức xin trạm xá cho lên đường đuổi theo đơn vị. Nhưng các thủ trưởng ở trạm xá nói rằng, 10 ngày qua, đơn vị đó đã đi xa lắm rồi, không thể theo kịp nữa, hãy chờ lệnh cấp trên bổ sung cho đơn vị khác. Tôi lại phải tiếp tục ở đó thêm mấy hôm nữa.

 

 

 

  Chiến đấu trên chiến trường Lào

 

  Đến một buổi sáng, tôi và ba người nữa được thông báo có cán bộ đến nhận về đơn vị mới. Tất cả bốn anh em chúng tôi tập trung lại nghe một anh cán bộ trung tuổi, người tầm thước, thái độ niềm nở, vui vẻ, nói tiếng Nghệ Tĩnh, tự giới thiệu là Hồ Chư, Thiếu úy, Trợ lý chính trị của Tiểu đoàn 929 Quân khu 4, được đơn vị cử đến đón chúng tôi về. Chúng tôi cảm ơn, bịn rịn chia tay bác sĩ, y sĩ, cán bộ và các anh chị nhân viên, y tá của trạm xá để lên đường. Chỉ hơn mười ngày thôi nhưng các cán bộ, nhân viên trạm xá đã dành cho chúng tôi trách nhiệm và tình cảm thân thương. Cảm động lắm, nhiều người đã nhiều đêm thức trắng bên lán, chăm sóc cho chúng tôi từng viên thuốc, từng thìa cháo. Chắc chắn là, trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt ở chiến trường, tình cảm giữa con người với nhau gắn bó sâu nặng hơn.

 Theo sự chỉ huy của anh Hồ Chư, chúng tôi bốn người gồm: Nguyễn Văn Kiu, Trần Công Thuận, Nguyễn Trọng Năm và tôi hành quân về đơn vị là Tiểu đoàn 929.  Chúng tôi cùng lứa tuổi, là đồng hương, cùng nhập ngũ,cùng hoàn cảnh hành quân đi B bị sốt rét gửi lại trạm xá giao liên, cùng được bổ sung về một đơn vị lại cùng chiến đấu nên thân thương nhau lắm. Anh Kiu quê ở xã Nghi Hưng, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, năm 1965, trong một trận chiến đấu ở tây Savanakhet (Lào), bị cụt một chân, sau đó phục viên về quê. Anh Thuận quê ở xã Thanh Cát, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, năm 1968, làm trung đội trưởng, hy sinh ở khu vực Bình Điền tây Thừa Thiên - Huế. Anh Năm quê ở xã Thanh Khai, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, năm 1969, làm chính trị viên phó đại đội hy sinh ở Đường 12 tây Thừa Thiên-Huế. Còn anh Hồ Chư, quê ở xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, năm 1969, làm chính trị viên Tiểu đoàn 9, rồi Trưởng tiểu ban tổ chức Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, sau giải phóng Miền Nam nghỉ hưu, đã từ trần năm 2000.

Đang giữa mùa khô, trời nắng chói chang, chúng tôi đi bộ trọn một ngày dưới rừng cây khộc khô khốc mới tới được đơn vị. Tiểu đoàn bộ đóng quân ở một con suối cạn nằm ở phía tây huyện Mường Phìn, tỉnh Savanakhet. Người ra tiếp chúng tôi là anh Võ Vượng, Trung úy, Trợ lý tác huấn tiểu đoàn. Anh Vượng giới thiệu sơ bộ về đơn vị. Tiểu đoàn 929 là một trong 3 tiểu đoàn biên phòng của Quân khu 4 thành lập sau khi miền Bắc được giải phóng. Tiểu đoàn 925 đóng ở biên giới phía tây tỉnh Nghệ An. Tiểu đoàn 927 đóng ở biên giới phía tây tỉnh Hà Tĩnh. Tiểu đoàn 929 đóng ở biên giới phía tây tỉnh Quảng Bình. Những năm huấn luyện trong thời bình, Tiểu đoàn 929 đóng quân ở Thanh Lạng, xã Trung Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Địa bàn hoạt động lên tận cửa khẩu Cha Lo. Từ năm 1961 đến lúc đó, đơn vị liên tục hoạt động ở Lào, từ Khăm Muộn đến Savanakhet. Ở thời điểm chúng tôi có mặt, đơn vị đang chiến đấu trên trục Đường 9 nhằm bảo vệ hành lang phía tây của Đường dây 559. Tiểu đoàn trưởng là anh Hoàng Nhiên. Chính trị viên tiểu đoàn là anh Nguyễn Khuốc. Chính trị phó tiểu đoàn là anh Lê Văn Dánh.

Cùng Tiểu đoàn 929 với tôi hồi đó hiện nay điểm lại chỉ còn có mấy người : anh Lê Chí Tuân, quê ở xã Quảng Tiên, huyện Quảng Trạch, tỉnh quảng Bình, sau này làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 379 - Quân khu 2 rồi về công tác ở Học viện Quốc phòng; anh Hoàng Huy Nhở quê ở Hậu Lộc - Thanh Hóa, hiện đã nghỉ hưu ở quê; anh Đinh Minh Chúng quê ở xã Trung Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, là Thượng tá, nguyên tham mưu phó Sư đoàn 968 - Quân khu 4, hiện đã nghỉ hưu ở quê; anh Cao Sĩ Nguyên quê ở Tân Đức, Minh Hóa, Quảng Bình, hiện nghỉ hưu ở quê; anh Hồ Sĩ Dục quê ở xã Hương Thu, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, hiện nay nghỉ hưu ở Vũng Tàu…

 Trong  Ban chỉ huy Tiều đoàn 929 ngày đó có anh Lê Văn Dánh gắn bó với tôi mãi nhiều năm sau này. Từ chiến trường Lào, vào Miền Nam và cả sau này nữa. Anh Lê Văn Dánh quê ở xã Tiến Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình; sau này là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 4. Anh là người chiến đấu dũng cảm, thường xuyên có mặt ở những nơi hiểm nguy, gian khó. Vốn là cán bộ chính trị nhưng ở anh trình độ quân sự cũng rất sắc sảo. Năm 1980, đang là Phó chính ủy Sư đoàn, anh được bổ nhiệm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 324 - Quân khu 4. Trong lãnh đạo chỉ huy, anh quyết đoán, rành mạch, rõ ràng, đơn vị luôn hoàn thành nhiệm vụ trên chiến trường. Nhưng ở anh cũng bộc lộ một vài nhược điểm. Anh thường tỏ ra coi thường những cán bộ chỉ nói hay, không làm hoặc làm dở. Vì vậy, có người cho rằng anh kiêu binh. Anh thẳng thắn bộc trực đến mức hơi thái quá. Gặp bất cứ ai, lần đầu, câu cửa miệng của anh là : “Cậu quê đâu?”. Những người nói tiếng “trọ trẹ” đồng hương Khu 4 - nhất là Quảng Bình - thì ngay lập tức được anh tin tưởng. Anh đánh giá cán bộ có khi cực đoan, có lúc định kiến. Với anh, trong chiến đấu ai đó chỉ mất lòng tin một lần là mất tất cả. Anh tin tưởng ai thì người đó luôn luôn đúng. Bởi thế, người quí trọng anh rất nhiều, nhưng người không hài lòng với anh cũng không ít.

Tôi nhớ, năm 1991, khi còn làm Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp của Văn phòng Tổng cục Chính trị, tôi tham gia bộ phận phái viên của Tổng cục Chính trị do anh Võ Thịnh, Phó Văn phòng TCCT dẫn đầu dự Đại hội Đảng bộ Quân khu 4. Tại Đại hội đó, giờ kiểm phiếu bầu Đảng ủy Quân khu, Đại hội nghỉ giải lao. Vừa kiểm phiếu xong, anh Lê Văn Mẹo, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu chạy ra nói nhỏ với chúng tôi:” Kết quả kiểm phiếu: anh Lê Văn Dánh, Bí thư Đảng ủy đương nhiệm không trúng Đảng ủy mới”. Tôi giật mình, quả thật đây là điều không bình thường. Toàn bộ phần nội dung tiếp theo của Đại hội, như ra mắt Đảng ủy mới, hứa hẹn quyết tâm trước Đại hội; thông qua Nghị quyết Đại hội, Đoàn chủ tịch đều đã phân công anh Dánh đảm nhiệm. Bây giờ anh Dánh trượt Đảng ủy, không còn tư cách thể hiện nữa, phải là người khác làm. Chúng tôi đề nghị anh Nguyễn Quốc Thước, Tư lệnh Quân khu nghiên cứu tài liệu trước để đảm nhiệm toàn bộ phần việc đó.

Tôi kề bên anh Dánh. Anh rất bức xúc, mặt tái đi, mồ hôi anh túa ra ướt đầm cả áo. Anh nói với tôi :

- Trong Quân khu, tại Đại hội Đảng bộ có người vận động chống anh, mới nên nông nỗi này.

Tôi ôn tồn:

- Thôi anh ạ, kết quả bầu cử như vậy rồi, anh phản ứng là vi phạm nguyên tắc và liệu có ích gì, lại thêm phức tạp ra. Em tham gia với anh trên hai tư cách. Về lý, em là phái viên của cấp trên đi dự Đại hội Đảng bộ Quân khu. Về tình, em là thằng liên lạc của anh cách đây 25 năm trên chiến trường, lúc anh còn là chính trị viên phó tiểu đoàn. Tính anh em biết rồi, nóng nảy thường dẫn đến sơ suất. Vì vậy, từ giờ phút này em đề nghị anh hết sức bình tĩnh.

Thế rồi, anh Dánh đã kiềm chế được. Nhưng tôi biết anh vẫn rất buồn. Mấy tháng sau, anh bị bệnh nhũn não, điều trị ở Viện 108, tôi vào thăm mấy lần. Khi xét thấy anh nặng lắm rồi, gia đình xin đưa anh về nhà để chăm sóc những ngày cuối đời.

Tháng 4 - 1992, khi là Cục phó Cục Chính sách, tôi tham gia gia Đoàn Tổng cục Chính trị do anh Lê Khả Phiêu Chủ nhiệm Tổng cục dẫn đầu ra thăm Trường Sa, qua đài phát thanh, tôi nghe tin anh Lê Văn Dánh từ trần. Tôi buồn bã nhớ về anh với những kỷ niệm xưa.

Anh Hoàng Nhiên, Tiểu đoàn trưởng, quê ở xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; năm 1965 được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Trung đoàn 29, rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 đi chiến đấu ở Tây Nguyên. Thời kỳ đó ở Tây Nguyên có bốn trung đoàn trưởng đều là người Nghệ An: Hoàng Nhiên, Nguyễn Quốc Thước, Hồ Đệ, Phùng Bá Thường. Năm 1973, anh Nhiên ra Bắc làm Tỉnh đội phó tỉnh Nghệ An, làm Sư đoàn trưởng, Đại tá, rồi nghỉ hưu ở quê. Anh Nguyễn Khuốc, Chính trị viên tiểu đoàn, quê ở xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình; sau này là Đại tá, cán bộ của Học viện Chính trị. Anh Võ Vượng, Trợ lý tác huấn, quê ở xã Đức Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, năm 1970 hy sinh ở chiến trường tây Thừa Thiên Huế, lúc đó là Thiếu tá, giữ chức Trung đoàn phó Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, Quân khu Trị Thiên - Huế.

Từ tiểu đoàn tôi được bổ sung vào Tiểu đội 4 Trung đội 2 Đại đội 2. Anh Đinh Xuân Bài, Tiểu đội trưởng nhận tôi về. Tiểu đội có 7 người. Anh Đinh Xuân Bài quê xã Hương Đô, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; lính 1962, làm Tiểu đội trưởng. Anh Cao Sĩ Tính quê xã Hợp Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình; lính 1962, làm Tiểu đội phó. Anh Đinh Xuân Các quê ở xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, lính 1963, giữ khẩu trung liên RPĐ. Anh Nguyễn Văn Liệu quê ở xã Vạn Trạch, huyện Bố Trạch , lính 1963, giữ khẩu B40. Anh Lê Văn Sơ quê huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, lính 1963, giữ khẩu AK. Còn tôi và Nguyễn Văn Kiu quê ở xã Nghi Hưng, mỗi đứa giữ một khẩu CKC. Trừ tôi và Kiu là hai tân binh mới tò te chưa ngửi mùi thuốc súng, còn lại các anh trong tiểu đội hơn tôi chừng năm, bảy tuổi, lại đã trải qua chiến đấu, dạn dày trận mạc, ít nhất là hơn một năm. Tôi tin tưởng và cảm phục các anh trên mọi phương diện. Các anh coi tôi như đứa em út trong tiểu đội, hướng dẫn, giúp đỡ tôi mọi việc từ nhỏ đến lớn.

Trung đội trưởng Trung đội 2 là anh Lê Đôn Quý, quê ở huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Anh Quý chiến đấu rất dũng cảm, trong cuộc sống anh thẳng thắn, bộc trực. Anh Quí hy sinh giữa năm 1965 trong một trận chiến đấu mà anh giữ chức Đại đội phó Đại đội 3. Trung đội phó là anh Nguyễn Văn Sửu quê ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Anh Sửu hy sinh đầu năm 1966 ở gần Mường Phìn do bị máy bay bắn. Đại đội trưởng Đại đội 2 là anh Nguyễn Văn Tèo quê ở  Miền Bắc, tôi không rõ ở tỉnh nào. Đến đầu năm 1965, anh Tèo chuyển đi đơn vị khác, trên điều động anh Nguyễn Văn Dương quê ở xã Hưng Đạo, huyện Hưng Nguyên về làm Đại đội trưởng. Chính trị viên đại đội là anh Nguyễn Văn Trinh quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; đến giữa năm 1965 thì thay bằng anh Điện, sau đó lại thay bằng anh Nguyễn Thụy quê ở xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Chính trị phó đại đội là anh Hồ Sĩ Dục quê ở xã Hương Thu, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Đến giữa năm 1965, được thay anh Nguyễn Văn Tin quê ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Đại đội phó là anh Lê Văn Lướt, người Tây Nguyên.

Khi tôi mới bổ sung vào thì Đại đội 2 có một trận đánh chặn địch ở Đồng Mót rất quyết liệt. Trong trận đó, trước khi đại đội phản kích tiêu diệt địch giành thắng lợi lớn, thì cả Tiểu đội 8 Trung đội 3 làm nhiệm vụ chốt chặn đã hy sinh đến người cuối cùng. Các anh hy sinh trong tư thế vẫn ôm súng bắn, giữ nguyên đội hình, không ai rời bước khỏi trận địa.

Thời tiết ở Lào chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô thì trời nắng chói chang. Cây cỏ khô khốc. Đi giữa rừng khộc trụi lá, cành trơ xác xơ, gầy guộc. Những chiếc lá khộc khô dòn to như những chiếc bánh đa nhỏ, bước lên gãy vỡ vụn. Cả ngày đi có khi không tìm nổi một chỗ có nước uống. Mùa mưa thì mưa xối xả suốt ngày đêm. Đúng là mưa rừng. Cây cối tốt tươi. Đóng quân ở những khu rừng tre tha hồ hái măng trên cây và đào măng củ. Những con suối cạn khô khốc về mùa khô, lại tràn trề nước vào mùa mưa. Có nhiều trường hợp hành quân trải bạt ngủ bên suối cạn. Đang đêm trời mưa to, lũ tràn về,  không kịp chạy sẽ bị nước cuốn trôi. Mùa mưa đầy nhựa sống nhưng mùa mưa ẩm ướt là mùa của sốt rét rừng. Có tiểu đội sốt hết không còn người dậy nấu cơm. Có người bị sốt rét mắc võng nằm cạnh bờ suối, khi nước lũ tràn về không còn sức tháo chạy, nằm yên trên võng bị chết đuối. Vậy là, cái chết nối liền với giấc ngủ. Đến khi nước rút, anh em chạy đến để nguyên cả võng khiêng đi an táng. Đơn vị bị sốt rét la liệt là do mùa mưa muỗi anôphen sinh sôi nảy nở nhiều. Đêm ngủ không màn, muỗi từng đàn thi nhau cắn, làm lây lan vi trùng sốt rét từ người nọ sang người kia. Mùa mưa cả ta và địch đều ít hoạt động. Mùa khô mới là mùa đánh nhau, vì dễ triển khai lực lượng hơn.

Hoạt động ở chiến trường Lào ngày đó chưa bị bom đạn khốc liệt như sau này. Thường là khi hành quân chiến đấu, đêm đến chỗ trú quân, anh Bài cắt cử người canh gác, rồi tất cả tiểu đội xúm vào, người thì bẻ lá cây che bếp khỏi phát ra ánh sáng, người thì bẻ lá cây rải ra một vạt đất bằng rồi trải tấm vải nhựa lên đó, cả tiểu đội xếp dàn hàng ngang ngủ. Trời nắng thì không sao. Thỉnh thoảng chỉ bị ve, vét cắn thôi. Trời mưa thì cả tiểu đội ướt như chuột lột. Công sự không phải đào. Chỉ lợi dụng địa hình, địa vật, chủ yếu là khe suối, hang đá, hốc cây làm nơi  ẩn nấp khi có động.

Không quân địch mới có máy bay cánh quạt T28 và AD6. Nhưng mỗi khi oanh tạc thì dai dẳng lắm. Hình như các loại máy bay cánh quạt, chứa được nhiều xăng, giờ bay lâu hơn. Pháo binh thì chỉ đến lựu pháo 105 ly. Quân địch ngày đó là quân ngụy Lào, chúng tôi vẫn gọi là lính Phu Mi . Giống như cách gọi quân Pôn Pốt ở chiến trường Cămpuchia sau này.

Hình thức chiến thuật của bộ đội ta lúc thì phục kích, lúc tập kích và có cả phòng ngự. Ở chiến trường tổ chúc nấu cơm cấp tiểu đội vừa nhanh, vừa gọn. Anh em luân phiên nhau nấu. Thường là xúm lại cùng làm như một gia đình vậy. Ăn thì lương thưc, thực phẩm được nhận ở các kho trên đường dây vận chuyển. Thực phẩm thường chỉ có cá khô, muối, mỡ, mì chính, mắm kem. Thỉnh thoảng có thịt hộp, cá hộp. Nước uống thì hái chè rừng nhưng chủ yếu là uống nước gạo rang. Hàng tháng, chúng tôi được nhận nhu yếu phẩm do xe từ hậu cứ chuyển lên. Mỗi người được cấp một cân đường, một cân đậu xanh để vài ba ngày nấu chè một lần. Không hiểu sao hồi đó chúng tôi thích đồ ngọt đến thế. Có thể do thiếu chất. Lâu lâu có một ít kẹo, bánh, thuốc lá, chè trà. Nghe nói, đó là quà úy lạo của các cơ quan, đoàn thể trong nước gửi sang. Theo xe từ hậu cứ sang, còn chuyển cả thư, người có người không. Ở chiến trường xa không nhận được thư nhà, buồn lắm!

 Ngoài trang bị chiến đấu như súng CKC, lựu đạn, xẻng, bao gạo, ba lô, tôi được anh Tính tiểu đội phó giao cho mang hai cái nồi. Nồi to dùng để nấu cơm đủ ăn 7 người. Nồi nhỏ dùng để nấu thức ăn. Tôi đặt cái nồi nhỏ trong nồi to, dùng giây vải buộc chặt vào ba lô mang sau lưng. Chính hai cái nồi này, với tôi, có một kỷ niệm không bao giờ quên.

Sự thể là, trong trận đánh quân địch ở ngoài công sự ở gần Huội Mua, ngày 22 tháng 2 năm 1965. Lúc khoảng 3 giờ chiều, cả tiểu đoàn chúng tôi đang tiến vào địa bàn quân địch thường hoạt động. Đội hình hành quân chiến đấu trinh sát tiểu đoàn đi trước, theo cách sâu đo để thăm dò địch. Sau trinh sát là Đại đội 2 chúng tôi. Trung đội tôi đi trước, Tiểu đội 4 dẫn đầu. Đến một khu rừng khộc, thấy phía trước có nhiều ụ khói bốc lên. Khả nghi có quân địch, trinh sát báo cáo về phía sau. Tiểu đoàn trưởng Hoàng Nhiên đầu cắt trọc, người đỏ au, quàng một mảnh dù nhỏ, không mang vũ khí, chạy vội lên trước. Chạy theo anh là anh Xiểm liên lạc. Anh Nhiên  lệnh cho toàn đơn vị dừng lại triển khai chiến đấu. Giao cho trinh sát vào  phía trong bám địch. Khoảng nửa tiếng sau, anh Cao Sỹ Nguyên , Tiểu đội trưởng trinh sát quay ra báo cáo với Tiểu đoàn trưởng. Anh Nhiên giao cho anh Xiểm liên lạc chạy về phía sau đội hình mời anh Khuốc chính trị viên tiểu đoàn lên hội ý. Thấy hai anh hội ý chừng 5 phút, anh Nhiên cho triệu tập các đại đội trưởng lên giao nhiệm vụ. Anh Tèo đại đội trưởng nhận nhiệm vụ Đại đội 2 làm mũi tấn công chủ yếu.

Chúng tôi được lệnh tiếp tục tiềm nhập để rút ngắn cự ly với địch. Được chừng 100 mét thì dừng lại chờ hỏa lực tiểu đoàn khai hỏa. Cối 82ly và ĐKZ75 ly của tiểu đoàn bắn cấp tập khoảng 10 phút thì dừng. Chúng tôi bắt đầu nổ súng tấn công. Với tôi đây là trận chiến đấu đầu tiên trong đời. Tôi hồi hộp lắm. Nghe tiếng đạn bắn ra tới tấp, ràn rạt, tôi cũng hoảng. Nhìn sang bên phải thấy anh Liệu đã bắn được một quả B40, nòng còn bốc khói. Nhìn sang bên trái thấy anh Các đã xiết được mấy tràng trung liên, vỏ đạn bay rào rào. Cạnh tôi, anh Bài đang ghì khẩu AK vào gốc cây khộc, xiết cò từng điểm xạ ngắn. Mới khoảng 4 giờ chiều, giữa rừng khộc đã cháy trụi, ở cự ly không tới 100 mét, tôi nhìn quân địch rõ lắm. Tôi bắn liền một kẹp đạn CKC, đã thay sang kẹp khác, thì nghe một tiếng choang rất đanh, tôi tưởng mình đã bị thương nhưng chẳng thấy đau mà sờ xung quanh người cũng không có máu. Anh Bài hô:

- Tất cả tiểu đội chuẩn bị xung phong.

Tôi đưa tay dương lê lên vì cho rằng, sắp đánh nhau giáp la cà, phải dùng đến lưỡi lê để đâm. Thấy thế, anh Bài hét to:

-  Đẩu gấp lê lại ngay.

Như một cái máy, tôi gấp lê lại, dẫu chẳng hiểu vì sao. Mấy phút sau, cả trung đội chúng tôi chiếm lĩnh toàn bộ trại địch. Một bãi chiến trường ngổn ngang nhà cháy, vách đổ, đất cát bị cày xới bởi những hố đạn đen ngòm. Mấy xác chết, cái thì cháy đen, cháy sạm, cái  thì loang lổ bê bết máu. Trong tay có đứa còn cầm súng. Nhìn vào bếp, thấy mấy tuýp (liễn) xôi còn nóng hôi hổi, tôi cầm luôn. Lệnh của chỉ huy, đơn vị phải thu dọn chiến lợi phẩm và rút ra ngay đề phòng pháo địch oanh kích.

Xuyên rừng độ hai tiếng đồng hồ sau, đến chỗ dừng lại trú quân, anh Tính tiểu đội phó bảo tôi cởi nồi ra để nấu cơm tối. Tôi vừa hạ xuống thì thấy cả hai cái nồi bị một viên đạn xuyên thủng từ bên nọ sang bên kia. Cả tiểu đội xúm lại nhìn. Anh Bài nói:

- Như vậy là số cậu cao. May mà thằng Phu Mi bắn hơi chếch lên một chút. Nếu viên đạn hạ xuống 10 cm thôi, thì hôm nay Đẩu nhà mình đã thành liệt sỹ rồi.

 Anh còn giải thích với tôi rằng, sở dĩ chiều nay thấy tôi dương lê lên bị anh quát, là vì, lúc xung phong cự ly cách địch còn chừng 100 mét, dương lê lên sẽ bị vướng. Tối đó, may mà có hai liễn xôi tôi lấy được trong trại địch, không thì cả tiểu đội nhịn đói sau một ngày chiến đấu căng thẳng. Trận đó tiểu đôi tôi không ai việc gì. Tiểu đội 5 có anh Duyến và anh Thoại hy sinh.

 Sau này về hậu cứ ở bản Nôn Nhang rút kinh nghiệm trận đánh, có ý kiến từ cấp trên phê phán rằng, đó là một trận đánh không thắng lợi chứ chưa nói đến thất bại. Về hình thức chiến thuật giống như một trận càn. Mà càn thì không có trong các loại hình tác chiến của quân đội cách mạng. Chỉ đánh vỗ mặt không tổ chức lực lượng bao vây, chia cắt, vu hồi quân địch. Hiệu quả chiến đấu thấp. Cả một tiểu đoàn đầy đủ binh hỏa lực không tiêu diệt nổi hai trung đội địch ngoài công sự. Cán bộ tiểu đoàn thì cho rằng, đây là hình thức tao ngộ chiến. Đã ai biết được lực lượng địch là bao nhiêu. Giữa rừng khộc bằng phẳng, mênh mông, lính Phu Mi như thổ phỉ khó đánh tiêu diệt được. Biết làm sao được, người xưa đã từng dạy, kiến dĩ tác nan mà!

Hàng chục năm sau, tôi gặp lại anh Bài lúc anh đã là Đại tá, trung đoàn trưởng, nghỉ hưu ở Hà Nội. Chúng tôi cười vui ôn lại chuyện xưa. Anh trìu mến ghì chặt lấy tôi:

- Trời ơi, thằng em út của tiểu đội ngày nào mặt búng ra sữa, bây giờ đã thành ông Tướng rồi ư!

Rồi như sực nhớ ra điều gì, anh trêu đùa tôi:

- Này, Đẩu ơi, em sờ lại sau lưng xem hai cái nồi còn không.

Anh Bài là người chiến đấu dũng cảm, chỉ huy quyết đoán, gương mẫu về mọi mặt. Tôi nhớ trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, anh giữ chức tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 3, bị thương và bị địch bắt được đưa lên trực thăng. Khi máy bay mới rời mặt đất được dăm mét, anh lao mình ra cửa nhảy xuống thoát được nhưng bị chân thương cột sống, đau lưng một thời gian khá dài. Trong đời sống anh giản dị, khiêm nhường mà thẳng thắn, chân thành, được đồng đội quí mến. Anh là người trưởng thành từ chiến sĩ lên tới trung đoàn trưởng trong cùng một đơn vị cho đến khi nghỉ hưu. Khi anh nghỉ hưu, quân đội cấp cho anh hai gian nhà cấp bốn trên mảnh đất hơn 100 mét vuông trên mặt đường ở Xuân La, gần cơ quan  UBND và Quân ủy quận Tây Hồ - Hà Nội. Như bây giờ mảnh đất đó có giá trị hàng chục tỷ bạc, nhưng lúc đó anh đem đổi lấy ba vạn gạch về xây ba gian nhà cấp bốn trong khu tập thể cơ quan chị Lợi là vợ anh ở Dốc Vân, Gia Lâm. Anh Bài mất năm 2001 do bị ung thư phổi, không biết có phải do nhiễm chất độc ở chiến trường không. Khi nghe tin anh Bài mất, từ Trường Sĩ quan Lục quân 1 ở Sơn Tây tôi đến viếng anh tại nhà riêng. Nhiều đồng đội đã về hưu, phục viên tận trong Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã ra viếng anh.

Trước đó mấy hôm, khi anh ốm nặng tôi đến thăm ở Viện Quân y 108. Anh thều thào nói với tôi:

- Anh đau lắm em ạ, chưa bao giờ đau thế này. Chắc không được mấy ngày nữa đâu. Điểm danh lại, tiểu đôi ta đã mất hết cả rồi. Chỉ còn em, đứa em út của tiểu đội ngày nào còn bé nhỏ 16, 17 tuổi đầu thôi.

Nghe anh tâm sự, tôi cảm thương anh vô cùng, nước mắt lã chã rơi. Biết rằng, tôi sắp phải vĩnh biệt người anh, người thầy của mình trong chặng đầu tiên của cuộc đời quân ngũ mà đành bó tay chẳng  làm được gì cho anh.

 Sau khi hoàn thành nhiệm vụ của trận tập kích quân địch ngoài công sự, tiểu đội 4 chúng tôi được tăng cường cho Đại đội 3 của tiểu đoàn đang làm nhiệm vụ phòng ngự ở Sê-Con-Cam. Sê-Con-Cam cách thị trấn Mường Phìn không xa. Địch ở Pờ Lan, Pắc Sế thường nống ra lấn chiếm, nhằm thọc sườn uy hiếp chặt đứt hành lang chiến lược Bắc-Nam của ta. Tiểu đội làm lực lượng cơ động ngoài công sự để chi viện cho Trung đội 1 Đại đội 3. Trung đội trưởng trung đội 1 là anh Võ Đình Vân quê ở xã Nghi Thịnh, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Tiểu đội chúng tôi được bố trí bên cạnh Ban chỉ huy đại đội 3. Đại đội 3 do anh Trần Công Giao quê ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa làm đại đội trưởng, anh Trần Triền quê ở Văn Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình làm chính trị viên. Phương án tác chiến được xác định là khi địch đánh vào trận địa phòng ngự của trung đội 1, thì tùy hoàn cảnh cụ thể , đại đội sẽ dùng tiểu đội tôi tăng cường lên trận địa phòng ngự hoặc đánh vu hồi vào phía sau, hoặc đánh thọc bên sườn quân địch. Nhận nhiệm vụ xong, mấy ngày đầu, anh Bài dẫn tiểu đội đi địa hình xung quanh trận địa phòng ngự vừa để thuộc địa hình, địa vật, vừa kết hợp tuần tra khu vực. Sau đó lập phương án đánh địch. Chuẩn bị đường xuất kích,… Địa hình ở đây bằng phẳng trống trải. Bên triền sông là những vạt rừng tre xen lẫn những cánh đồng nứt nẻ đang giữa mùa khô. Ở đây không có địa thế hiểm yếu nên không thật thuận lợi cho bố trí phòng ngự. Nhưng lại thuận cho lực lượng cơ động phản công. Trước trận địa phòng ngự, Đại đội 3 đã bố trí các bãi mìn dày đặc và cắm chông tua tủa.

Dân địa phương đã đi sơ tán xa. Bỏ lại những đàn trâu, đàn bò thả rông, vô chủ. Nhiều lần cả đàn trâu, bò tràn vào bãi mìn. Mìn nổ, trâu bò không chết ngay chỉ  thủng bụng lòi ruột ra và cụt chân nằm bẹp tại chỗ rồi mới chết. Nhiều con chết thối rữa ra, quạ đen từng đàn đến rỉa, kêu toáng một vùng. Nhiều lần chúng tôi ra bãi mìn lần theo vết trâu bò đã đi, đến những con còn sống dùng dao xẻo lấy thịt mang về nấu ăn. Lấy được thịt tươi ăn nhưng cũng nguy hiểm. Sợ địch phát hiện được dùng súng bắn trực tiếp hoặc gọi pháo dập vào. Sợ nhất là đạp phải mìn ta cài. Người cài mìn bao giờ cũng phải làm giật lùi, trước mặt là bãi mìn đã cài, sau lưng là bãi trắng.

Thời gian làm nhiệm vụ phòng ngự ở Sê-Con-Cam, tiểu đội chúng tôi đánh được 5 trận qui mô nhỏ, đều theo đúng như phương án tác chiến đã xác định. Mỗi lần địch đánh vào chốt phòng ngự của Trung đội 1, lệnh của đại đội, tiểu đội chúng tôi xuất kích đánh thọc vào ngang mạng sườn ép địch dạt vào bãi mìn. Bọn địch vừa bị đạn  thẳng, cối và mìn nên thương vong nhiều, buộc phải rút chạy về phía sau.

Có một kỷ niệm nhỏ,  một hôm cả tiểu đội xuất kích đánh địch về đang ngồi ăn cơm. Trời tối đen nhưng không được thắp đèn. Bất thần pháo 105 của địch bắn tới tấp vào trận địa. Mọi người lao vội xuống hầm. Anh Lê Văn Sơ chân đang đi đôi giày vải cao cổ, cuống cuồng bước vào nồi nước sôi vừa bắc từ trên bếp xuống. Nóng quá, anh kêu toáng lên. Tôi vội lấy dao cắt đứt dây tháo giày ra, chân anh vẫn bị bỏng nhẹ. Sau này gặp lại, anh Sơ đùa:

- Bữa đó tại chú mày mà anh hỏng mất đôi giày đẹp đấy.

Tôi đùa lại:

- Bữa đó không có em nhanh trí thì anh vẫn còn nguyên giày nhưng không còn đôi chân lành lặn như bây giờ đâu.

Hai anh em ôm nhau cười.

        Kết thúc nhiệm vụ phòng ngự ở Sê-Con-Cam, chúng tôi trở về đội hình cũ. Cả tiểu đoàn đang tham gia vận chuyển lương thực, làm đường và kéo pháo vào chuẩn bị đánh lớn ở Huội Mua. Không khí chuẩn bị chiến trường rầm rộ. Chặt cây, san đường xong thì kéo pháo vào trận địa. Anh Bài, anh Tính nói với cả tiểu đội rằng từ ngày đi chiến trường đến bây giờ, chưa bao giờ có lực lượng tham gia hùng hậu đến như vậy. Có bộ binh, công binh, pháo binh, nghe đâu có cả xe bọc thép nữa.

Trung đội chúng tôi được giao nhiệm vụ kéo một khẩu pháo 105 ly từ phía bắc Mường Phìn vào gần Sê-Con-Cam. Tuy không vượt dốc, trèo đèo như người ta vẫn nói về việc kéo pháo vào, pháo ra ở Điên Biên Phủ trước đây, nhưng quả thật kéo pháo là rất mệt. Người mỏi nhừ, tay phồng rộp. Những ngày kéo pháo vào trận địa chúng tôi vui và tin tưởng. Vậy là trong trận chiến đấu tới đây, bộ binh chúng tôi được pháo binh chi viện. Pháo 105 ly sẽ bắn sập công sự và tiêu hao sinh lực địch, uy hiếp găm quân địch xuống, tạo điều kiện cho bộ binh tấn công, hoặc là chế áp pháo binh địch bắt chúng phải câm họng.

Ngày đó, tôi thấy cả ông Xổm Xắc, Tổng Tham mưu phó Quân đội Pa thét Lào xuống thăm hỏi và động viên chúng tôi trong  khi kéo pháo. Ông là người Lào Thưng, hoạt động chủ yếu ở Trung Hạ Lào. Các anh cán bộ trong tiểu đoàn tôi rất thân thiết với ông, coi ông như người cùng đơn vị. Ông  và đại đội địa phương tỉnh Savanakhet đã cùng ăn, cùng ở, cùng hoạt động, cùng sát cánh chiến đấu trên một chiến hào với bộ đội tình nguyện Việt Nam. Đúng là tình hữu nghị đặc biệt hiếm có.

Theo trinh sát tiểu đoàn báo cáo và thông báo của trên, đồn Huội Mua của địch đóng trên một ngọn đồi thấp, có công sự gỗ đất với mấy lớp lô cốt, được nối với nhau bằng chiến hào và giao thông hào; có một lớp hàng rào thép gai và bên ngoài là một lớp cây rừng cưa đổ bao quanh làm chướng ngại vật; lực lượng địch có một đại đội tăng cường. Khi Huội Mua bị tấn công, pháo binh địch ở Pà Lan, Đồng Hến sẽ bắn chi viện.

 Tiểu đoàn 929 chúng tôi là lực lượng chủ yếu tấn công vào đồn Huội Mua. Ngoài hỏa lực vốn có trong biên chế là cối 82ly, ĐKZ 75ly, đại liên, Tiểu đoàn được trên chi viện là 4 khẩu 105ly, 4 khẩu cối 120 ly, một đại đội súng cao xạ 12,7 ly. Nghe nói còn có cả 4 xe bọc thép sẵn sàng xuất kích. Nghe nói, vì khi chuẩn bị chiến trường tôi không nhìn thấy và cũng không được cấp trên chính thức phổ biến.

Theo phương án tác chiến của tiểu đoàn được cấp trên thông qua, Đại đội 1 là lực lượng chủ công đánh vào hướng chủ yếu, Đại đội 2 chúng tôi đánh vào hướng thứ yếu, Đại đội 3 làm lực lượng thê đội 2, sẵn sàng ứng phó các tình huống. Trong khi pháo binh ta bắn cấp tập vào trận địa địch, lực lượng bộ binh nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí xuất phát tấn công, đào hố cá nhân ẩn nấp, chờ sẵn. Khi pháo binh chuyển làn, bộ binh các mũi thực hành phá rào mở cửa tấn công quân địch trong công sự. Hiệu lệnh tác chiến là súng pháo hiệu do tiểu đoàn trưởng quyết định.

Đúng 5 giờ chiều ngày 15 tháng 4 năm 1965, Tiểu đoàn 929 xuất kích vào chiếm lĩnh vị trí tập kết. Dưới nắng chiều, cả đoàn quân vòng lá ngụy trang phấp phới, trông khí thế rất hùng dũng. Mấy anh Điện ảnh Quân đội trực tiếp quay phim. Máy trên vai chạy sè sè, ghi hình bộ đội hành quân và thực hành chiến đấu. Trước đó các anh cũng đã ghi hình chúng tôi kéo pháo vào trận địa.

Đúng 6 giờ tối, pháo 105ly và cối 120ly, đặt cách trận địa chừng 5 km, đồng loạt khai hỏa. Lần đầu tiên được nghe tiếng nổ đầu nòng (tiếng đề-pa) tiếng đạn rít trên không và tiếng nổ giòn to đanh, rất trúng đích, chúng tôi mừng vô cùng. Có người không kìm được, nhảy kiễng lên hô lớn:

- Tiên sư mấy thằng Phu Mi nhé, phen này cho chúng mày chết. Thắng đến nơi rồi, anh em ơi!

Chúng tôi vào đến vị trí xuất phát tấn công, cách đồn địch chừng 200 mét,  dừng lại dùng xẻng đào hố cá nhân. Pháo binh vẫn dồn dập nã đạn. Trong đồn nhiều đám cháy bốc lên cao. Chắc quân địch cho rằng, ta chỉ tập kích bằng hỏa lực, không có bộ binh, nên chưa thấy động tĩnh gì. Thỉnh thoảng trong đồn bắn vu vơ ra xung quanh trận địa mấy quả cối và mấy loạt đại liên như thể thăm dò. Cả một vùng rực sáng. Anh Bài bảo tôi chú ý giữ khoảng cách kẻo lạc. Mọi người trong tư thế sẫn sàng nổ súng. Chừng 10 phút, pháo chuyển làn, từ phía sau hai phát pháo hiệu đỏ rực vút lên không trung. Anh Quí hô toàn trung đội vượt qua hàng rào, đánh thẳng vào tiền duyên địch. Chúng tôi vừa vượt qua hàng rào bằng cây khô, băng qua lớp hàng rào thép gai, cách chiến hào tiền duyên của địch chừng 100 mét, thì các họng súng trong đồn bắn tới tấp vào đội hình. Vừa nhô lên có mấy người bị trúng đạn, gục tại chỗ. Trong giây lát tất cả các hướng tấn công đều bị khựng lại, chững lại.

Anh Bài hô:

- Liệu dùng B40 bắn vào lô cốt đầu cầu.

Anh Liệu phóng liền hai quả mà vẫn không trúng. Anh Các xả tiếp một tràng trung liên vào đó cũng chẳng ăn thua. Từ dưới nhìn lên, các hỏa điểm của địch bắn ra đỏ rực, đạn bay chíu chíu, cày xới xung quanh chúng tôi. Thực sự, lúc đó tôi cũng hoảng. Nói không sợ là tự dối lòng mình.

Từ phía sau đội hình, anh Dương đại đội trưởng điều khẩu đội ĐKZ 75ly được tiểu đoàn tăng cường cho đại đội, đặt ngắm bắn trực tiếp mấy phát liền. ĐKZ vừa bắn xong, anh lao lên, hô lớn:

- Nào các đồng chí, dừng lại đây là chết, tất cả xung phong.

Đáp lời anh, cả Trung đội 2 chúng tôi vừa chạy thốc lên vừa cặp súng bắn trong làn đạn địch. Anh Liệu bắn tiếp một quả B40, chúng tôi nhìn rõ quả đạn lao vút cắm phập vào lô cốt đầu cầu nổ rầm lên, khẩu đại liên địch bị tiêu diệt. Cả trung đội lao lên chiếm được chiến hào ngoài cùng.

Nhìn lại đội hình, tôi đã thấy thưa dần. Theo lệnh anh Quí trung đội trưởng, các tiểu đội  xốc lại lực lượng, bám chắc tiền duyên đánh lấn vào trong. Tiếng lựu đạn nổ chát chúa.Tiếng súng bộ binh các loại nổ liên hồi, đanh rát. Anh Bài chỉ huy chúng tôi đánh thốc vào sườn bên phải. Tôi ném 2 quả lựu đạn, bắn liền cả kẹp đạn CKC.

Trong vòng 1 giờ đồng hồ, từ chiến hào tiền duyên địch, đại đội chúng tôi đánh chiếm được mỏm đồi thấp phía ngoài. Cả trận địa mịt mù khói đạn, khét lẹt, cay xè. Từ đây phát triển vào tung thâm phải qua một cái yên ngựa. Đồi phía trong cao hơn. Từ trên cao hai khẩu đại liên địch bắn chéo cánh sẻ, đạn bay xối xả,chi chít. Thêm vào đó là các loại súng phóng lựu, cối 81 ly, ĐKZ của địch bắn ra dữ dội. Giằng co mãi hàng tiếng đồng hồ, không sao dứt điểm được. Mấy lần đại đội tổ chức tấn công đều bị đánh bật lại, do bị tổn thất quá nhiều. Anh Dương không chịu lùi, trực tiếp dẫn Trung đội 1 đánh thốc lên lần nữa, lại cũng bị thương vong quá nửa. Bản thân anh Dương bị thương vào đầu và chân, anh em phải cõng ra.

Phía bên kia, Đại đội 1 là hướng tấn công chủ yếu của tiểu đoàn cũng gặp khó khăn, thưa dần tiếng súng, chỉ đánh chiếm được non một nửa trận địa địch. Ta thương vong lớn. Địch co cụm chống trả quyết liệt, chờ viện binh. Nếu tình trạng này kéo dài, trời sáng địch sẽ cho máy bay đến oanh kích và cho bộ binh đến chi viện. Lệnh của trên cho tiểu đoàn rút lui.

Đề phòng địch phản công, đại đội bố trí thực hành rút theo kiểu cuốn chiếu. Đưa thương binh, liệt sỹ ra trước, các trung đội lần lượt rút dần ra. Đến 7 giờ sáng hôm sau, cả tiểu đoàn mới về đến hậu cứ. Trong trận này tôi có mấy người bạn hy sinh. Trong đó tôi thương nhất là Cồng, 18 tuổi, cao to, trắng trẻo, đẹp trai, quê Tĩnh Gia - Thanh Hóa, bị thương nặng cụt cả hai chân, còn tỉnh táo, nhưng khiêng ra đến được nửa đường về hậu cứ thì hy sinh vì mất quá nhiều máu. Trên đường ra, hai chiếc máy bay T28 của địch quần đảo bắn phá dữ dội nhưng cách đội hình hàng trăm mét, không ai bị thương vong.

 Sau này tôi được biết rẳng, cùng phối hợp tác chiến với  trận Huội Mua của Tiểu đoàn 929 chúng tôi, còn có trận đánh vào căn cứ địch ở Đồng Hến do Trung đoàn 9 - Sư đoàn 304 đảm nhiệm với qui mô to hơn nhưng cũng không giành được thắng lợi. Tổn thất thương vong nhiều. Trận đó, anh Lê Khả Phiêu, sau này làm Tổng Bí thư  Ban Chấp hành Trung ương Đảng, làm Phó Chính ủy Trung đoàn 9 trực tiếp đi với mũi vu hồi. Hướng chủ yếu do anh Mai Hiền, Tham mưu trưởng Sư đoàn ( sau này là thủ trưởng của chúng tôi hồi chiến đấu ở tây Thừa Thiên ) trực tiếp chỉ huy. Anh Mai Hiền là người trưởng thành từ chiến sĩ đã dạn dày trận mạc, trải qua nhiều cương vị chỉ huy chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp lên tới trung đoàn trưởng. Nhưng đến khi đánh trận Đồng Hến thì anh Hiền bị kỷ luật do không hoàn thành nhiệm vụ, gây hậu quả nghiêm trọng. Chính trận Đồng Hến như một cái lá chắn, cản trở con đường công danh sự nghiệp của anh.

Vậy đấy, đừng ai nghĩ rẳng đánh giặc bao giờ cũng thắng, dù người cầm quân là ai đi nữa. Thành bại là việc thường của binh gia. Vấn đề là, phần thắng cuối cùng thuộc về ai.  Chính Tôn Tử - Nhà quân sự lỗi lạc của Trung Quốc thời cổ đại - đã tổng kết rằng: tri kỷ, tri bỉ, bách chiến vô nguy. Nghĩa là: biết địch, biết ta, trăm trận không nguy. Không nguy là không bị thất bại lớn, không bị tiêu diệt. Chứ không phải như nhiều người giải thích không thật đúng là: biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng. Cổ, kim, đông, tây, có lẽ chưa có danh tướng nào trăm trận, trăm thắng!

 Kết thúc trận Huội Mua, các đơn vị trợ chiến rút về nước. Tiểu đoàn 929 chúng tôi vẫn ở lại củng cố, bổ sung quân số, trang bị, tiếp tục bám trụ địa bàn trong mùa mưa năm 1965. Đến giữa năm 1965, trên quyết định thành lập Trung đoàn 29 trên cơ sở lấy Tiểu đoàn 929 làm nòng cốt, đổi tên là Tiểu đoàn 7. Điều thêm từ bên nước sang 2 tiểu đoàn bộ binh là Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 9, các đại đội trực thuộc gồm công binh, thông tin, cối, ĐKZ, trinh sát, vận tải, quân y, cao xạ 12 ly 7 và Trung đoàn bộ. Trung đoàn 29 trực thuộc Quân khu 4 có nhiệm vụ hoạt động đánh địch án ngữ địa bàn tỉnh Savanakhet, giữ vững vùng giải phóng, bảo vệ hành lang phía tây cho Đường dây Chiến lược 559.

Ngày mới thành lập, trung đoàn trưởng là anh Võ Hạp quê Thừa Thiên; chính ủy là anh Trần Văn Ân quê xã Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; trung đoàn phó là anh Trần Sĩ Kịch quê ở xã Quảng Long, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình; phó chính ủy là anh Đặng Chính Đoàn quê ở xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Anh Kịch, anh Đoàn vốn là tiểu đoàn trưởng và chính trị viên Tiểu đoàn 929 những năm trước. Trên bổ nhiệm anh Hoàng Nhiên làm tham mưu trưởng trung đoàn, Anh Nguyễn Hoán quê ở xã Cẩm Thăng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh được trên điều về thay anh Nhiên làm tiểu đoàn trưởng.

Tôi nhớ, có một lần ở con suối cạn tôi gặp một anh bộ đội đã khá già, người thấp bé, mặc một bộ quân phục cũ sờn nhuộm màu lá khộc, chân đi vòng kiềng, miệng nhai trầu bỏm bẻm, răng đen, mắt mấp máy. Chẳng biết là ai, tôi hỏi:

- Bác ơi,quê bác ở đâu, bác làm gì, ở đơn vị nào?

 Anh bộ đội già nhoẻn miệng cười, từ tốn trả lời:

- Tớ quê Diễn Thịnh, Diễn Châu, Nghệ An. Làm nuôi quân ở trung đoàn bộ.

  Tôi nhanh nhẩu buột miệng nói:

 - Trời ơi, tội nghiệp chưa, hết người rồi hay sao mà lại bắt ông già phải đi chiến trường thế này?

Rồi anh bộ đội già bỗ bã thân tình hỏi tôi chuyện ăn ở, sinh hoạt, chuyện chiến đấu. Tôi trả lời một cách hồn nhiên, mộc mạc. Khi thấy anh Lê Văn Dánh từ xa đi đến đứng nghiêm chào ông và giới thiệu, mọi người mới té ngửa, đó là anh Trần Văn Ân, Trung tá, Chính ủy trung đoàn. Tôi hú vía, ngượng ngùng xấu hổ.

Anh Trần Văn Ân vào Đảng từ năm 1938, sau này là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 4. Trong chiến tranh và cả sau ngày hòa bình, tôi còn tiếp xúc với anh Ân nhiều dịp. Mỗi lần gặp nhau, anh vẫn thường trìu mến gọi tôi bằng con. 

Tiểu đoàn chúng tôi được giao nhiệm vụ chuẩn bị đánh quân địch đổ bộ bằng đường không xuống khu vực xung quanh thị trấn Mường Phìn. Cả tiểu đoàn xây dựng công sự khá tốt, có lô cốt gỗ đất, ụ súng, giao thông hào và chiến hào. Cắm chông chi chít mấy bãi đất trống, dự kiến địch có thể đổ quân bằng trực thăng hoặc nhảy dù. Các đại đội ngày đêm luyện tập phương án đánh địch. Lúc này các anh điều tôi làm liên lạc đại đội. Tôi càng có điều kiện tiếp xúc và học hỏi các anh thủ trưởng được nhiều hơn.

 Một thời gian sau, trên lệnh cho tiểu đoàn xây dựng trận địa chốt chặn địch trên Đường 13, đoạn từ thị trấn Mường Phìn đi về phía nam khoảng 20km. Đó là những dãy đồi cao, xa hơn về phía nam là sông Sê-Măng-Hiêng, con sông duy nhất chảy từ phía Đông sang phía Tây. Về địa thế quân sự, ai chiếm được dãy đồi này thì khống chế được toàn bộ khu vực Mường Phìn. Lúc này cả đơn vị đang đóng quân ở khu vực bản Nôn Nhang, cách trận địa dự kiến bố trí khoảng 30 km. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoán cùng trinh sát dẫn các đại đội trưởng đi địa hình và giao nhiệm vụ trực tiếp tại thực địa. Tôi lọc cọc theo anh Dương đại đội trưởng đi địa hình mấy ngày liền. Ngày quay trở về đưa đơn vị ra trận địa thì bất ngờ anh Dương vừa bị sốt vừa bị đi lỏng liên tục, người xanh xao cứ lả dần kiệt sức không thể đi được. Anh Dương trao đổi với anh Nguyễn Thụy chính trị viên rằng, ngoài anh ra chỉ có tôi biết địa hình và hơn thế nữa là biết được ý định của anh về bố trí lực lượng của đại đội ở khu vực phòng ngự trong thế bố trí chung của tiểu đoàn. Vì vậy, mạnh dạn giao cho tôi dẫn các trung đội trưởng và tiểu đội trưởng hỏa lực đi lên bố trí lực lượng ở Đường 13. Anh Thụy nhất trí vì nhiệm vụ thì đã cận kề, không còn cách nào khác.Trước khi chúng tôi lên đường, anh Dương dặn dò thêm mấy việc cụ thể.Việc một liên lạc đại đội thay mặt đại đội trưởng dẫn các trung đội trưởng đi bố trí trận địa ngày đó là hiếm, gây xôn xao cả tiểu đoàn. Nhiều người tin tưởng, cho rằng như thế là rất hợp lý, vì tôi có trí nhớ tốt, nắm chắc ý định của tiểu đoàn và của anh Dương. Một tuần sau khỏi bệnh, anh Dương lên kiểm tra trận địa. Anh rất hài lòng, vì việc bố trí lực lượng hoàn toàn đúng. Anh biểu dương tôi trước hàng quân. Tôi mừng lắm.

 Vốn là liên lạc đại đội thời kỳ chiến đấu ở chiến trường Lào,  sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi cố ý tìm lại các anh cán bộ đại đội ngày đó. Có người thì bặt vô âm tín, có người thì tìm được trong những trường hợp tình cờ, ngẫu nhiên.

Trong số cán bộ đại đội ngày đó, tôi gắn bó nhất là anh Nguyễn Văn Dương. Vì tôi làm liên lạc cho anh hơn 1 năm ở chiến trường. Tôi cố tìm anh bằng được. Năm 1999, khi còn là Cục trưởng Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị vào công tác ở Tỉnh đội Đồng Tháp, nghe nói ở Thị xã Cao Lãnh có một ông bộ đội tên là Dương, đã nghỉ hưu, quê ở xã Hưng Đạo, Hưng Nguyên, Nghệ An vào ở với con trai tên là Tâm, cán bộ của Tỉnh đội. Tôi tìm đến tận nhà, nhưng khi gặp, thì lại không phải.

Tháng 6 năm 2001, lúc còn là Phó Hiệu trưởng Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1 đi kiểm tra học viên năm cuối đang thực tập tại Sư đoàn 324 - Quân khu 4, đóng tại Đô Lương, Nghệ An. Khi ra thao trường của Trung đoàn 1, tôi gặp một cán bộ tên là Minh, Thiếu tá, cán bộ Phòng Chính trị Sư đoàn quê ở xã Hưng Đạo, hỏi thăm thì được biết anh Dương vẫn còn. Tôi mừng, nhưng sợ lại nhầm hoặc sợ lâu quá rồi anh Dương không còn nhớ tôi nữa. Vì vậy, trước khi về Trường tôi đã viết một lá thư nhờ Minh lúc nào về quê chuyển cho anh Dương. Một tuần sau tôi nhận được thư trả lời, anh nói rằng vẫn nhớ tôi và nhiều năm nay tìm mà không biết ở đâu. Anh mời tôi về quê chơi để anh em gặp nhau.

Tết năm 2001, tôi về gặp lại anh Dương. Anh em ôm nhau ngẹn ngào. Xa nhau hơn 35 năm mới gặp lại, thật cảm động. Ôn lại chuyện cũ mừng mừng tủi tủi, nhớ lại bao đồng đội không còn. Tôi đề nghị anh ra ngoài sân dạo một vòng, anh trước tôi sau. Vào nhà, tôi hỏi chị Yên và mấy người con trai:

- Trong nhà mình có ai biết khi đi anh Dương có đặc điểm là gì không?

Mọi người lắc đầu không biết.

Tôi nói :

- Khi đi anh Dương thường nhô vai trái lên trước và cao hơn vai phải một chút. Tôi biết điều đó vì những khi  hành quân ở chiến trường, bao giờ tôi cũng lẽo đẽo mang khẩu AK đi sau anh. Hành quân ở chiến trường không phải tính bằng ngày mà có nhiều khi là cả tháng.

Anh Dương kể với tôi, sau khi rời đơn vị  trên điều động anh làm Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn huấn luyện quân đi B thuộc Đoàn 22, sau đó làm Tiểu đoàn trưởng đặc công chiến đấu ở Đường 9 - Khe Sanh. Đến năm 1970 anh bị thương ra Bắc điều trị một thời gian thì nghỉ hưu.

Cũng nhờ về thăm anh Dương lần đó mà tôi còn gặp được anh Nguyễn Quốc Việt là người cùng chiến đấu với tôi hồi ở Đại đội 20 Dặc công Trung đoàn 3, nay về nghỉ ở quê. Anh Việt dẫn tôi về nhà rồi đi thẳng vào gian giữa. Anh chỉ tay lên xà nhà, hỏi tôi có đọc được chữ gì không. Tôi ngước lên nhìn thấy dòng chữ viết ngay ngắn bằng phấn trắng đã mờ theo thời gian nhưng vẫn đọc được: “Người giới thiệu tôi vào Đảng là ông Nguyễn Mạnh Đẩu, quê ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc”. Anh Việt bảo tôi rằng, anh ấy viết lên đó để làm kỷ niệm cho mình và con cháu. Nghe anh nói, tôi xúc động về tình cảm của những con người một thời trận mạc.

Sau này có hai lần tôi mời anh Dương ra nhà tôi ở Hà Nội và lên Trường Lục quân 1 chơi. Anh vốn là cựu học viên Khóa 10 của Trường. Hàng năm anh vẫn về quê tôi trong dịp giỗ mẹ tôi,  ngày 21 tháng 1 âm lịch. Khi cha tôi từ trần, ngày 17 tháng 5 âm lịch năm 2008, anh Dương cùng con trai trưởng và cháu đích tôn đến viếng. Đến giỗ 49 ngày cha tôi cũng vậy.

Anh Nguyễn Văn Dương bị ốm nặng điều trị ở Quân y viện 4 không khỏi, gia đình đưa về nhà, mất lúc 3 giờ sáng ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 2009 ở quê. Nghe tin, tôi  tức tốc về quê  kịp nhìn mặt anh lần cuối và tiễn biệt anh về nơi an nghỉ cuối cùng, giữa một chiều hè gió Lào cuồn cuộn, nóng hầm hập, nắng chói chang.

 Tháng 5 năm 2006, khi làm Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật, trong một lần tôi đi công tác ở Tây Nguyên gặp anh KsorNham, Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai tại Hội nghị xây dựng vành đai an toàn của các kho vũ khí, đạn dược trên địa bàn Tây Nguyên. Anh KsorNham có nước da đen bóng, dáng người cao to và gương mặt đẹp, được các đạo diễn chọn làm diễn viên đóng vai Anh hùng Núp trong bộ phim Đất nước đứng lên. Nhìn anh, tôi liên tưởng đến anh Lê Văn Lướt - người đại đội phó năm xưa - vì giữa hai người có nhiều nét giống nhau. Tôi nhờ anh KsorNham tìm hộ, may ra gặp được. Thật là mò kim đáy bể nhưng không hiểu sao tôi tin là anh có thể tìm được, vì anh có lợi thế là cựu Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai.

Mấy ngày sau về Thành phố Hồ Chí Minh, đang đêm tôi nhận được điện của anh KsorNham. Anh bảo rằng, nhân dự một đám cưới, anh đã tìm được ông Lê Văn Lướt cán bộ quân đội nghỉ hưu ở thị trấn Đắc Đoa, Gia Lai. Và khi hỏi ông Lướt thì ông ấy vẫn còn nhớ tôi. Tôi mừng quá.

Đợt công tác sau vào Tây Nguyên tôi tìm đến tận nhà anh Lướt. Người đại đội phó cường tráng, xông xáo, oanh liệt một thời là niềm mơ ước cuả chúng tôi, nay là một ông già ngót 80 tuổi, hom hem. Gánh nặng thời gian đè lên tất cả mọi số phận. Nhìn anh, chỉ còn sót lại hàm răng trắng và đôi mắt sáng. Anh là người dân tộc Giarai, đi bộ đội từ hồi chống Pháp, hòa bình lập lại tập kết ra Bắc, được cử đi học Trường Sĩ quân Lục quân, khóa 11. Vốn anh không có họ, chỉ có tên là Lướt. Khi nhập học, cơ quan cán bộ yêu cầu phải có cả họ trong danh sách đăng ký, chợt nhìn lên phía trên phòng họp thấy treo ảnh ông Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, anh khai đại mình họ Lê – Lê Văn Lướt. Và từ đó, suốt đời anh và sau này nữa, các con anh, mang họ Lê.

Năm 1963, tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục quân, với quân hàm Thiếu úy, anh được điều đi chiến đấu ở chiến trường Lào giữ chức Đại đội phó đại đội chúng tôi. Sau đó, giữa năm 1965, là người dân tộc, anh được điều động về hoạt động ở địa bàn Tây Nguyên. Đến năm 1985, sức khỏe yếu, lại là thương binh, anh được trên cho nghỉ hưu.

Tôi hỏi:

- Trước khi về nghỉ hưu, anh giữ cấp bậc gì?

Anh cười hiền khô:

- Đẩu ơi! mình có hai sao thôi.

Tôi bảo:

- Vậy là anh Trung tá.

Anh nói ngay:

 - Không, mình chỉ là Trung úy.

Tôi thốt lên:

- Trời ơi!  Hơn 12 năm chiến đấu ở chiến trường, vào sống ra chết bao nhiêu trận, vậy mà anh chỉ được mỗi bậc quân hàm – tức là một bậc lương thôi ư?!

 Anh mỉm cười:

- Ồ, đấy là việc của tổ chức mà. Mình có suy bì, so sánh, đòi hỏi gì đâu. Nước có giặc thì đi đánh giặc. Hết giặc thì về quê. Tổ chức trao gì được nấy. Biết làm sao được. Biết bao người còn thua thiệt hơn mình nữa chứ.

Tôi chia tay anh dưới rặng thông già, giữa nắng chiều Tây Nguyên vàng ruộm, lòng trĩu nặng ngậm ngùi, suy tư. Ngoài kia, đường 14 phẳng lì, hối hả người xe tấp nập.

 Đầu năm 1966, Trung đoàn 29 được lệnh rút về nước. Sau gần mười ngày hành quân, chúng tôi về đóng quân ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Khi vượt Trường Sơn nhìn về phía Đông dưới kia những thôn xóm hiện ra trước mắt, tiếng trẻ con khóc, tiếng chó sủa, gà kêu, đặc biệt là mùi khói lam chiều, lòng tôi lâng lâng vui buồn khó tả. Vui vì được trở về Tổ quốc sau gần 2 năm đi chiến đấu trên chiến trường nước Bạn. Buồn nhớ thương da diết những người bạn nằm lại không về. Trước khi hành quân về nước, thủ trưởng tiểu đoàn yêu cầu các đại đội cho người lên nghĩa trang đắp lại mộ liệt sĩ, tổ chức viếng. Đúng trước những dãy mộ dài, hình ảnh thân thương của từng người bạn chiến đấu hiện về trong đầu tôi. Họ đều trạc tuổi tôi, còn rất trẻ. Khi quay ra, lòng chúng tôi ngẹn ngào, mắt đỏ hoe. Thôi ! bọn mình về nhé, nằm tạm đây, mai này có dịp sẽ sang đưa các bạn về đất mẹ.

Về đến Lệ Thủy, trung đoàn bộ đóng ở xã Dương Thủy, bên sông Kiến Giang. Tiểu đoàn 7 chúng tôi đóng quân ở xã Tân Thủy. Đại đội 2 đóng quân ở xóm Tân Thái. Tôi và Kham cùng liên lạc đại đội ngủ trong nhà ông Dương Văn  Oanh có con trai đi bộ đội Hải quân tên là Bảo, có cô con gái độ 16 tuổi tên là  Dương Thị Yến. Đêm đầu tiên mới đến trời tối mịt, tôi được bà chủ nhà xếp cho ngủ trên chiếc giường một. Đang loay hoay chưa biết trải giường thế nào, tôi hỏi bà chủ nhà, mẹ ơi khi ngủ trở đầu đường nào. Hồi đó mới thoáy ly, tôi nói còn nặng tiếng địa phương. Không nghe quen tiếng Nghi Lộc, bà chủ nhà trả lời tôi, con ơi không được thắp đèn, ở đây máy bay hoạt động dữ lắm. Nhà không có dầu đâu. Nghe xong cả nhà cùng cười. Có sự trùng hợp ngẫu nhiên lý thú: có ba người nằm ngủ trên cái giường gỗ đó ở ba thời điểm khác nhau, sau này đều là cấp Tướng. Năm 1966, tôi ở đó khi còn làm liên lạc đại đội thì sau này là Trung tướng. Năm 1969, anh Nguyễn Huy Hiệu ở đó khi làm đại đội trưởng, sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Năm 1972, anh Vũ Cao ở đó khi làm Trung đoàn trưởng pháo binh, sau này là Trung tướng, Cục trưởng Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu.

 Những chuyện đó, mãi tới sau này, năm 1999 gặp lại cô Yến ở Đà Nẵng, tôi mới biết. Cô Yến nói với tôi rẳng, bố em đã hy sinh năm 1972 khi đang chỉ huy trung đội dân quân bắn máy bay Mỹ. Mẹ em còn sống, năm nay đã 82 tuổi , thế mà thỉnh thoảng bà vẫn nhắc cái đêm đầu tiên vào nhà ngủ, anh hỏi trở đầu đường nào, thì bà lại trả lời là không có dầu đâu. Đặc biệt là, cái giường gỗ nhà em ngày đó nay vẫn còn. Các anh xem có nên đưa về làm kỷ niệm. Vì từng ngủ trên cái giường đó các anh ra đi chiến đấu còn sống trở về và sau này đều thành đạt lên tới cấp Tướng.

 Chuyện tôi gặp lại cô Yến cũng rất tình cờ. Cuối năm 1999, trong một chuyến đi công tác ở Huế, buổi tối khi du thuyền trên sông Hương, chúng tôi ngồi cùng vợ chồng anh Chương, Trưởng Ban Chính sách tỉnh đội Thừa Thiên Huế. Theo thói quen, tôi hỏi chị vợ anh Chương:

- Chú Chương quê ở xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh thì tôi biết rồi. Còn cô quê ở đâu?

Cô ấy trả lời:

- Quê em ở  xã Tân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình anh ạ.

Tôi hỏi tiếp:

- Thế có biết cô Yến con ông Oanh không?

 Cô ấy nói:

- Chị Yến người cùng xóm Tân Thái với em. Chị ấy lấy chồng bộ đội tên là Trần Văn Tam, Đại tá, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Hải quân. Gia đình hiện nay đang ở Đà Nẵng.

Cô lục tìm cho tôi số điện thoại của Yến.

Về tới nhà nghỉ ở Đoàn 40B trên đường Trần Cao Vân, dẫu đã khuya, tôi vẫn gọi điện. Sợ bị nhầm, tôi nói thật rành rõ là, tôi muốn gặp chị Yến con ông Oanh quê ở xóm Tân Thái, xã Tân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Chưa kịp hỏi tôi là ai, thì Yến  đã thốt lên:

- Ôi!  anh Đẩu phải không?  Anh vẫn còn sống à?

Tôi bàng hoàng cảm động. Đã 33 năm không gặp lại nhau, thế mà Yến vẫn nhận ra tôi qua điện thoại.

 Liên lạc Đại đội 2 lúc đó có tôi và Nguyễn Văn Kham quê ở xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Kham hơn tôi 1 tuổi, nhập ngũ trước tôi 6 tháng, người khỏe mạnh, dũng cảm, hiền từ, siêng năng. Chúng tôi coi nhau như anh em em ruột. Năm 1968, khi vào chiến đấu ở Huế, Kham  hy sinh khi làm trung đội trưởng đánh vào Thành nội. Lần gặp cô Yến ở Đà Nẵng, nghe tôi nói Kham đã hy sinh, Yến nghẹn ngào, vậy mà mấy chục năm nay em không hề biết gì. Ngày trước Kham và Yến thân nhau lắm, hình như yêu nhau rồi thì phải. Lúc chia tay cả hai đều khóc sướt mướt. Hồi đó tôi còn lớ ngớ, chẳng biết gì.

Khi đơn vị đóng quân ở Lệ Thủy, Quảng Bình, tôi nhận được thư của cha tôi. Đọc thư nhà, tôi đã nghẹn ngào âm thầm khóc, thương xót cha tôi vô cùng. Cha tôi kể rằng, mẹ tôi mất, chị Hòe ở xa, tôi đi chiến đấu, các em còn thơ dại, cha tôi vất vả lắm. Cảnh gà trống nuôi con, ông vừa làm cha vừa làm mẹ. Trong chiến tranh chợ búa không họp ban ngày vì sợ máy bay. Mọi thứ trao đổi mua bán chợ quê đều diễn ra cuối chiều, lúc chập tối. Cái ăn không đủ, vải mặc thiếu thốn, sách vở học hành của ba em nhỏ,…tất cả đều trút lên vai cha tôi một mình bươn trải. Lúc ấy ông mới hơn 50 tuổi. Mấy bận, chú Cát, anh Tần, anh Y, chị Nam về nghỉ phép, cám cảnh đó giục cha tôi tục huyền. Cha tôi sợ cảnh mẹ ghẻ, con chồng, con ông, con bà phức tạp ra, đành cắn răng chịu đựng.

Tháng 7 năm 1966, Trung đoàn chúng tôi hành quân từ Lệ Thủy, Quảng Bình ra Hương Khê, Hà Tĩnh. Lúc này tôi đã được điều lên làm tiểu đội trưởng liên lạc Tiểu đoàn. Hành quân từ Lệ Thủy ra Hương Khê toàn tiểu đoàn đi dọc theo bờ biển khởi hành từ xã Ngư Thủy. Càng ra sát mép biển càng dễ đi. Thời kỳ này ở Quảng Bình, Hà Tĩnh máy bay địch thường xuyên hoạt động đánh phá ác liệt, nhất là trên các trục đường giao thông. Chọn phương án đi theo dọc bờ biển là khá táo bạo, bất ngờ. Để tránh máy bay, cả đơn vị ngày nghỉ đêm đi. Đến đêm thứ hai, từ Bảo Ninh chúng tôi vượt sông Nhật Lệ. Chính Mẹ Suốt, được tuyên dương Anh hùng, là một trong những người chèo đò đưa chúng tôi qua sông sang thị xã Đồng Hới. Thị xã Đồng Hới hồi đó đã bị máy bay Mỹ oanh tạc tàn phá. Nhà thờ Động Tòa bị đánh sập tan tành chỉ còn trơ lại tháp chuông. Ban ngày mọi người được nghỉ trong nhà dân trên trục đường hành quân. Riêng liên lạc vẫn như con thoi phải đi lại truyền đạt mệnh lệnh của tiểu đoàn đến các đại đội.

Khi về đến Hương Khê, tiểu đoàn đóng quân ở xã Hương Hòa, trung đoàn bộ đóng ở xã Hương Đồng. Có lần, anh Đặng Chính Đoàn phó chính ủy trung đoàn xuống làm việc với tiểu đoàn. Khi gặp, biết tôi mới được điều từ đại đội 2 lên, anh Đoàn hỏi:

- Theo đồng chí, liên lạc tiểu đoàn khác liên lạc đại đội cái gì, có oai hơn không?

Tôi trả lời:

- Thưa thủ trưởng, liên lạc tiểu đoàn và liên lạc đại đội cùng giống nhau về tính chất nhiệm vụ - đều là liên lạc. Điểm khác nhau là phạm vi hoạt động của liên lạc tiểu đoàn rộng hơn liên lạc đại đội. Nhưng không vì thế mà oai hơn.

Nghe xong, anh Đoàn vừa nói vừa cười hồn hậu:

 - Cậu này khá.

Thời kỳ này, chỉ huy các cấp thay đổi nhiều. Anh Ma Vĩnh Lan, dân tộc Tày, quê Bắc Kạn làm Trung đoàn trưởng. Anh Nguyễn Văn Cảnh quê ở Đô Lương, Nghệ An làm Chính ủy. Anh Nguyễn Hoán được đề bạt lên Tham mưu trương Trung đoàn. Anh Bùi Trần, quê xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình nguyên Trưởng tiểu ban Tác chiến Trung đoàn về giữ chức Tiểu đoàn trưởng. Anh Dương được điều đi đơn vị khác.

 Ngày anh Dương đi tôi đã khóc rất nhiều. Ở chiến trường, anh Dương và tôi vừa như cha con vừa như anh em. Tình cảm giữa chúng tôi sâu nặng. Sẵn sàng chia lửa, ứng cứu, che chở nhau trong hiểm nguy; cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ. Trước khi lên đường, anh Dương dặn dò tôi mọi điều, chúc tôi mạnh giỏi và mau chóng trưởng thành. Cuối cùng, anh đưa tôi mấy đồng bạc. Anh nói rẳng, trong thời gian đóng quân ở đây mấy lần anh lên Trung đoàn họp, khi qua sông Kiến Giang còn nợ tiền đò nay vội đi không kịp trả, nhờ tôi chuyển hộ cho bác lái đò. Một việc cụ thể nhưng đối với tôi là bài học lớn về sự chu toàn trong cuộc sống. Anh đã dạy tôi biết làm người lớn từ những điều rất nhỏ nhoi, thường nhật.

Trong chiến đấu, thông tin là mạch máu, phải thường xuyên bảo đảm thông suốt kịp thời, chính xác, bí mật. Ở cấp phân đội, bất cứ loại hình chiến thuật nào, việc bảo đảm thông tin cũng phải kết hợp bằng 3 cách: vô tuyến điện, hữu tuyến điện và truyền đạt chạy bộ. Vô tuyến điện bằng máy 2 oát, 15 oát thì hay bị trục trặc kỹ thuật do địa hình, thời tiết, máy móc, cũng có khi bị địch dò sóng phát hiện được. Hữu tuyến điện thì đường dây thường bị bom, pháo băm nát. Thậm chí có khi bị địch móc máy vào nghe trộm, lộ hết bí mật. Còn lại chỉ còn truyền đạt bằng chạy bộ là chắc chắn hơn. Tuy nhiên, quá trình tác chiến, nhất là trong phòng ngự, mọi  người được che chắn trong công sự, riêng liên lạc phải băng mình trong lửa đạn để truyền đạt mệnh lệnh của người chỉ huy. Có nhiều trường hợp thương vong. Cá biệt có trường hợp bị địch bắt. Bởi vậy, trong chiến đấu, đơn vị nào cũng vậy, liên lạc phải là người nhanh nhẹn, thông minh, gan dạ, trung thành, trung thực. Thông thường, liên lạc được chọn lựa từ hàng trăm người trong đơn vị. Chọn liên lạc nhiều khi còn khó hơn chọn tiểu đội trưởng. Quá trình công tác, người liên lạc thường xuyên tiếp xúc với lãnh đạo, chi huy đơn vị, học hỏi được nhiều điều, nên phần đông liên lạc đều thành đạt. Trong hàng tướng lĩnh của quân đội ta, nhiều người thuở ban đầu là  liên lạc đại đội, liên lạc tiểu đoàn trong chiến đấu.

Ở Hương Khê (Hà Tĩnh) tiểu đoàn thực hành huấn luyện bổ sung. Ngày đó ngoài các loại hình chiến thuật đã có, được cấp trên chỉ đạo hướng dẫn huấn luyện bổ sung chiến thuật mới là: chốt kết hợp với vận động tấn công đánh quân địch đổ bộ đường không và chiến thuật phòng ngự kiềng ba chân, hổ vồ mồi. Thao trường đặt trên các triền núi thuộc dãy Vũ Quang, được chuẩn bị rất công phu. Với khẩu hiệu:“Thao trường đổ mồ  hôi, chiến trường bớt đổ máu”, cả đơn vị ngày đêm hăng say huấn luyện. Thời kỳ này đơn vị mới được trang bị mìn định hướng ĐH10. Tôi nhớ hôm thực nghiệm nổ mìn ĐH10, anh Hồ Hữu Lạn, Thiếu úy, Trợ lý công binh Trung đoàn trực tiếp thực hành. (Anh Hồ Hữu Lạn quê ở xã Quỳnh Lương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An vào chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên, kết thúc chiến tranh làm Trung đoàn trưởng; sau này là Đại tá, Sư đoàn trưởng rồi Tham mưu phó Quân khu 4 ). Tiểu đoàn trưởng Bùi Trần cho cắm nhiều loại bia bằng cót dán giấy xen lẫn các thân cây chuối to tươi cách nơi đặt mìn bằng nhiều cự ly khác nhau. Khi mìn nổ, chúng tôi cầm phấn trắng đánh đấu những vết thủng dày chi chít trên mặt bia, kể cả những bia ở khá xa, đến hàng trăm mảnh. Cùng với ĐH10, đơn vị còn học cách cài đặt mìn bay. Đào những cái hố tạo ra độ chếch về phía địch, đặt một khối lượng bộc phá dưới một tấm gỗ, trên tấm gỗ đặt nhiều quả mìn sát thương. Khi cho bộc phá nổ, đẩy tấm ván hất toàn bộ mìn về phía trước.

 Qua thực nghiệm, mọi người tin rằng nay mai vào chiến trường mìn ĐH10 và mìn bay sẽ diệt được nhiều sinh lực địch, nhất là trong phòng ngự. Tiểu đội liên lạc phải bám sát địa hình và phải hiểu được các phương án tác chiến của tiểu đoàn để thuần thục mọi công việc của mình. Chúng tôi thuộc hết khu vực các xã Hương Hòa, Hương Luyện, Hương Vĩnh, Hương Đồng và vùng xung quanh. Mặc dù thuộc đường nhưng không được đi trên các trục đường có sẵn mà giao cho từng người cầm một tấm bản đồ, một địa bàn, xác định tọa độ và cắt góc phương vị đi, cả ban ngày lẫn ban đêm.

 

Chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên

 

 Tháng 10 năm 1966, Trung đoàn chúng tôi rời Hương Khê hành quân vào Miền Nam. Cả đơn vị dừng lại trú quân ở Nông trường Quyết Thắng, Vĩnh Linh. Tiểu đoàn trưởng Bùi Trần, các đại đội trưởng và tiểu đội trinh sát đi nghiên cứu địa hình. Là tiểu đội trưởng liên lạc, đồng thời là liên lạc trực tiếp cho Tiểu đoàn trưởng, tôi cũng thuộc thành phần đi trinh sát chiến trường. Từ Nông trường Quyết Thắng, chúng tôi vượt qua Bến Tắt để sang bờ Nam sông Bến Hải. Từ đây, chúng tôi đi tiếp theo hướng đông về huyện Gio Linh. Trước đó, tháng 7 năm 1966, các trung đoàn của Sư đoàn 324 mới đánh nhau với quân Mỹ ở trục Đường 9 từ Cù Đinh, Ba De đến gần sát khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu.

 Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào chiến trường Miền Nam. Mặc dù đã trải qua chiến đấu gần 2 năm trên chiến trường Lào, nhưng là mới đánh nhau với quân ngụy Lào (Phu Mi), chưa chạm trán bộ binh Mỹ. Mãi sau này, nhất là khi đã trở thành cán bộ, tôi cứ nghĩ rằng, nếu với cách tổ chức sinh hoạt và chiến đấu như thời kỳ ở Lào mà đơn vị chúng tôi đã trải qua, thì không thể trụ lại được với sự khốc liệt gian khổ ở Miền Nam, dù chỉ là trong thời gian ngắn.  Những nơi chúng tôi đi qua là cảnh tan hoang của chiến trường. Cây cối đổ ngổn ngang, cháy trụi, bị bom đạn băm nát xác xơ. Hố bom đạn chằng chịt cày xới mặt đất, cái đen kịt, cái đỏ lòm. Qua các bãi đổ bộ, trú quân của quân Mỹ, rặt một mùi Mỹ khó tả. Mùi đồ hộp các loại, mùi thuốc lá, mùi xà phòng tắm, mùi nước hoa, mùi thùng các tông, mùi thuốc súng, mùi cây cối bị cháy sém, mùi mồ hôi ở quần áo đồ dùng vứt lại…Tất cả quyện lại thành một mùi hỗn tạp hoi hôi, ngai ngái, ngầy ngậy, ghê ghê, gây buồn nôn. Tôi ấn tượng ngay từ đầu và mãi sau này, mỗi khi vào trinh sát các cứ điểm Mỹ đóng quân, trong khứu giác của mình không bao giờ quên được cái mùi đặc trưng đó.

 Chúng tôi đi nghiên cứu địa hình từ khu vực Hồ Khê, Đá Bạc vòng về làng An Cát Khê, làng Trung An, qua các trục Đường 74, Đường 75, lên đến làng An Nha, An Hướng. Nơi đây đang là vùng tranh chấp giữa ta và địch. Dân đã đi sơ tán hết. Có dân lên rừng, vào vùng giải phóng. Có dân chạy vào Đông Hà, thị xã Quảng trị, thành phố Huế, vùng địch kiểm soát. Chỉ còn lại dân quân du kích phối hợp hoạt động cùng bộ đội chủ lực. Dọc bờ nam sông Bến Hải, nam cầu HIền Lương ra tới biển và dọc theo Đường 1 là vùng quân địch vẫn còn chiếm đóng.

 Sau khi đi xem xét một lượt địa hình trong toàn khu vực, theo chỉ thị của trên, tiểu đoàn chúng tôi bố trí trận địa đón lõng quân địch ở khu vực Hồ Khê, Đá Bạc. Theo dự kiến, sau khi phát hiện có chủ lực của ta hoạt động ở phía Bắc Đường 9, quân Mỹ sẽ hành quân từ căn cứ Đầu Mầu ở Đường 9 đánh chiếm dọc theo triền núi đi về phía suối La La và Đồi Không Tên.

 Ngày 15 tháng 4 năm 1967, từ khu vực tập kết ở Bình độ 100, các đơn vị trong tiểu đoàn vào khu vực núi Hồ Khê, Đá Bạc thuộc xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị xây dựng công sự, trận địa. Thế bố trí lực lượng là: Đại đội 1, Đại đội 2 và Đại đại 3  được bố trí theo hình tam giác ( kiềng ba chân). Theo đó, Đại đội 1 và Đại đội 3 (thiếu Trung đội 1) là lực lượng đánh chặn địch ở tiền duyên, Đại đội 2 được bố trí hẳn sang phía bên quyết chiến điểm, nhằm đánh thốc vào sau lưng địch. Trung đội 1 của Đại đội 3 do anh Lê Hồng Hải làm trung đội trưởng được bố trí bên cạnh Sở Chỉ huy Tiểu đoàn làm lực lượng cơ động. Sở chi huy tiểu đoàn đặt sau Đại đội 1. Đại đội 4 trợ chiến bố trí hỏa khí cối 82 ly, ĐKZ 75 ly, đại liên phân tán, nhưng các loại hỏa lực đều phải bắn tập trung vào quyết chiến điểm. Ngoài ra, ở khu vực đó còn bố trí mìn ĐH10.

Thực hiện kế hoạch của tiểu đoàn, các đại đội và tiểu đoàn bộ đang triển khai đào công sự, xây dựng trận địa được 3 ngày thì có một việc đột xuất đặc biệt xảy ra : Trần Hữu Lễ quê ở Bố Trạch (Quảng Bình), chiến sĩ thông tin 2 oát của tiểu đoàn đi chiêu hồi, đầu hàng địch. Chiều hôm đó sau khi kết thúc phần đào hầm ở Sở chỉ huy tiểu đoàn, chúng tôi trở về khu vực tập kết ở Bình độ 100. Khi về cách khu vực tập kết khoảng 3 cây số, lúc trời đã nhá nhem tối, Lễ cầm một cái xẻng bảo là tạt ra ngoài bìa rừng để đi vệ sinh. Chờ mãi không thấy Lễ quay lại, tôi báo cáo với anh Thuyết trung đội trưởng thông tin. Anh Thuyết báo cáo với anh Phan Hà, tiểu đoàn phó. Anh Hà chỉ thị cho các lực lượng của tiểu đoàn bộ phải quay lại để tìm bằng được Lễ. Chúng tôi bao gồm trinh sát, liên lạc, thông tin, tỏa ra đi tìm. Nghĩ rằng, Lễ có thể bị thương bởi pháo địch vẫn thường bắn vu vơ xung quanh vào thời điểm đó, hoặc bị rắn rết cắn, hoặc bị cảm gió nằm bẹp ở đâu đó.

Từng bộ phận, từng người dàn hàng ngang, tìm đi tìm lại nhiều lần từng hốc cây, khe đá trong phạm vi khoảng hai cây số vuông vì nghĩ rằng Lễ chưa đi xa hơn. Tìm suốt cả đêm không thấy tăm hơi. Ngày hôm sau, trời sáng nhìn rõ hơn, tổ chức đi tìm kỹ lần nữa vẫn bặt vô âm tín. Đến chiều cấp trên thông báo, theo tin kỹ thuật của ta nắm được thì Trần Hữu Lễ đã chiêu hồi địch ở tận Đông Hà. Chúng tôi ngớ người ra. Hoàn toàn bất ngờ về việc này. Mãi mấy ngày hôm sau, từ trên máy bay phát ra đích thực là lời kêu gọi đầu hàng của Lễ, chúng tôi mới tin đó là sự thật.

Ngày đó, chúng tôi cứ tưởng rằng, Lễ trực tiếp ngồi trên máy bay để nói lời kêu gọi. Chưa biết là, từ Đông Hà hay ở Huế, địch thu tiếng của Lễ vào băng rồi phát lại trên máy bay. Vì thế, khi nghe Lễ kêu gọi đầu hàng, chúng tôi phẫn uất, căm giận, nguyền rủa kẻ đầu hàng phản bội.

Chân ướt chân ráo vào chiến trường Miền Nam, chưa đánh trận nào, mới chỉ nếm mùi ác liệt căng thẳng của phi pháo trên đường hành quân và trú quân thôi, mà đã có kẻ dao động cầu an, sợ chết, đầu hàng địch. Thực ra, hồi đó, ngoài việc chịu đựng sự ác liệt của bom đạn địch, gian khổ của đời sống chiến trường, bộ đội ta còn bị tác động đòn tâm lý chiến thâm độc, xảo quyệt của địch. Khắp bãi chiến trường, truyền đơn các loại rải trắng xóa như bươm bướm. Có truyền đơn nén trong đạn pháo bắn đi, nhưng phần nhiều là rải từ máy bay xuống.

Mặc dù cán bộ đơn vị cấm đọc truyền đơn địch, nhưng với sự tò mò, tính hiếu kỳ, bọn lính trẻ chúng tôi vẫn đọc. Với thói quen nhìn nhận vấn đề từ mọi góc cạnh, tôi cho rằng, nhận thức của mình sẽ không bị phiến diện, bảo đảm khách quan hơn, chính xác hơn. Chỉ đọc qua truyền đơn mà đã chạy theo địch, thì chắc chẳng còn ai trụ lại trên chiến trường hàng chục năm. Đọc qua truyền đơn, dẫu còn rất trẻ, chúng tôi cũng biết được luận điệu xuyên tạc, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của kẻ thù. Nội dung truyền đơn của địch đa dạng: ảnh, ký họa, thơ ca, hò vè, văn xuôi - đủ cả. Có nội dung xuyên tạc cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, chúng cho rẳng Miền Bắc xâm lược Miền Nam theo sự chỉ đạo của Liên Xô, Trung Quốc. Có truyền đơn cường điệu, thổi phồng cảnh chết chóc tang thương, thất bại của bộ đội ta trên các chiến trường. Có nội dung bôi nhọ Đảng và lãnh tụ. Nhiều hơn cả là truyền đơn kêu gọi cán bộ, chiến sĩ ta buông súng chiêu hồi, về với “chính nghĩa quốc gia”. Có tờ truyền đơn in hình ảnh và lời kêu gọi đầu hàng của Mai Hồng Nhị, của Lê Xuân Chuyên. Theo đó, Mai Hồng Nhị là trung đội trưởng đầu hàng ở chiến trường Quảng Trị. Lê Xuân Chuyên là trung đoàn phó chiêu hồi ở chiến trường Tây Nguyên. Chúng tôi xem truyền đơn nhưng đều khẳng định là địch nói láo, thế thôi.

Trên trời thì máy bay trinh sát L19, VO10 suốt ngày quần đảo thám thính, rải truyền đơn và ra rả lời kêu gọi cán binh Cộng sản BắcViệt đầu hàng. Dưới đất thì bom đạn địch ngay đêm bắn phá ác liệt. Đời sống vật chất thì kham khổ. Tuy vậy, tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị vẫn kiên định giữ vững quyết tâm chiến đấu. Trường hợp dao động, cầu an đến mức chiêu hồi phản bội như Trần Hữu Lễ là rất cá biệt.

 Sau khi Lễ đi đầu hàng, để tránh địch thực hành đánh phá theo sự chỉ điểm của Lễ, tiểu đoàn chúng tôi đã phải di chuyển địa điểm tập kết sang khu vực khác. Trận địa đã bố trí ở Hồ Khê - Đá Bạc đều phải điều chỉnh lại toàn bộ. Cả đơn vị phát động phong trào lên án tư tưởng và hành động của Lễ.

 Mãi đến năm 1984, anh Đinh Minh Chúng bạn tôi, làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 6 ra học khóa 6 Học viện Cao cấp, gặp tôi ở Hà Nội, kể rằng sau giải phóng có gặp Trần Hữu Lễ là thiếu tá tâm lý chiến của quân ngụy đóng tại Huế, đang đi cải tạo. Lúc nhìn thấy nhau chẳng nói năng gì. Thực ra còn có gì để nói nữa. Bản thân sự việc và kết cục của nó đã nói lên mọi điều.

Việc Lễ đi chiêu hồi rồi cũng chìm lắng xuống rất nhanh. Còn bao nhiêu việc phải làm. Cả tiểu đoàn gấp rút chuẩn bị  trận địa, gia cố thêm công sự, bố trí bãi mìn, lấy phần tử xạ kích cho cối, ĐKZ, chuẩn bị đường cơ động các hướng,  dự trữ lương thực, thực phẩm.

Ngày 15 tháng 5 năm 1967, từ sáng sớm pháo địch từ các căn cứ Đông Hà, Ái Tử, Đầu Mầu, Điểm cao 241 dồn đập bắn vào khu vực Hồ Khê. Đến 10 giờ, mấy tốp máy bay F105, F4 oanh  tạc liên tục, mấy chiếc trực thăng vũ trang UH1 quần đảo bắn rốc két vào Đá Bạc. Tiếp đến máy bay trinh sát VO10 chao liệng liên tục ở tầm rất thấp, nghe rè rè nhức óc. Tất cả động thái đó chứng tỏ là địch sắp hành quân lấn chiếm vào khu vực ta đã bố trí sẵn. Tiểu đoàn trưởng Bùi Trần lệnh cho toàn tiểu đoàn vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Tiểu đội trinh sát, một mặt cử người ra tiền duyên để bám nắm địch, mặt khác trên đài quan sát phải thường xuyên theo dõi nắm chắc mọi động thái của địch, kịp thời báo cáo tiểu đoàn. Ở khu vực này là các bãi cỏ tranh và cây cối lúp xúp nên dễ quan sát. Đến 4 giờ chiều, bộ binh địch bắt đầu tiến vào trận địa ta. Tiểu đoàn trưởng Bùi Trần lệnh cho các đơn vị phải chờ địch vào giữa quyết chiến điểm mới được nổ súng. Hiệu lệnh nổ súng là cối, ĐKZ, mìn các loại đồng loạt khai hỏa.

Một không khí yên ắng căng thẳng bao trùm trận địa. Chúng tôi thường có một linh cảm là, ở chiến trường lúc yên ắng nhất lại là lúc căng thẳng nhất. Đặc biệt, trước mỗi trận ném bom của máy bay B52, B57 thì không khí như đặc quánh lại.

Phương án tác chiến đã được thông qua là, cùng với sự chi viện của hỏa lực, các đại đội dựa chắc vào công sự dùng mìn định hướng ĐH10, mìn bay và súng bộ binh các loại tập trung bắn vào đội hình địch. Khi quân địch đã bị thương vong, tiêu hao sinh lực, thì Đại đội 1 và Đại đội 3 cùng lúc phản công tiêu diệt địch. Đại đội 2, dựa chắc vào công sự, đánh chặn đường rút của địch ra phía sau. Trường hợp quân địch chọc thủng chốt đánh chặn của Đại đội 1, Đại đội 3, thì Đại đội 2 tiến hành xuất kích đánh thốc vào lưng địch. Trường hợp ban ngày không tổ chức phản kích được, chờ đến tối địch co cụm lại, cho trinh sát bám nắm và thực hành tập kích  bằng cả hỏa lực và xung lực.

Lúc này trong hầm chỉ huy có anh Trần, tiểu đoàn trưởng, anh Đào chính trị viên tiểu đoàn, anh Phan Hà tiểu đoàn phó và tôi là liên lạc. Tôi thành sợi dây nối liền giữa Sở chỉ huy tiểu đoàn với các bộ phận tham mưu, chính trị, trinh sát, thông tin, ở các hầm xung quanh. Đến lúc ấy, vì chưa nổ súng để giữ bí mật, vô tuyến điện vẫn chưa được mở máy, sợ đài kỹ thuật của địch dò sóng phát hiện được. Điện thoại trong hầm chi huy chốc chốc lại réo lên. Trinh sát báo về, các đại đội báo cáo lên. Anh Trần chăm chú nghe, vừa nghe vừa nói lại cho các anh cùng nghe, rồi chỉ thị rành rọt cho từng hướng, từng đơn vị. Có lúc anh dừng lại trao đổi ý kiến với anh Đào và anh Hà.

Đúng 16 giờ 17 phút, từ các hướng báo cáo, đội hình quân Mỹ đã vào quyết chiến điểm, anh Trần hạ lệnh nổ súng. Tất cả hỏa lực cối 82, ĐKZ, giàn mìn bay, mìn định hướng ĐH10, đồng loạt nổ tới tấp lên đội hình địch. Tiếng cối, tiếng ĐKZ nổ chát chúa, tiếng mìn nổ dậy đất, tiếng đại liên từng tràng giòn giã cùng tiếng súng bộ binh các loại. Tất cả tạo nên một âm thanh hỗn tạp liên hồi. Bị đánh bất ngờ, quân Mỹ dạt sang hai bên chững lại mất mấy phút rồi dùng súng các loại bắn trả quyết liệt. Pháo địch từ các căn cứ bắn vào Sở chỉ huy tiểu đoàn dồn dập, đã có hầm trúng đạn pháo, có bộ phận thương vong. Cả khu vực mịt mù khói đạn khét lẹt, cay xè. Đường dây điên thoại bị dứt nhiều đoạn. Tiểu đội trưởng thông tin Nguyễn Ngọc Chuân quê ở xã Nghi Ân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và chiến sĩ Nguyễn Văn Thuận quê ở Cẩm Thủy, Thanh Hóa đi nối dây bị trúng đạn pháo hy sinh. Máy 2 oát liên lạc thông suốt với các đại đội, nhưng là khẩu lệnh trực tiếp, không dùng mật khẩu nữa. Cuộc chiến đấu diễn ra được hơn 1 giờ đồng hồ, khi tiếng súng đã thưa dần, anh Trần yêu cầu các đợn vị báo cáo tình hình.

Về phía ta, đến lúc đó, các đại đội vẫn bám vào công sự đã bố trí sẵn, dùng các loại súng bắn sát thương quân địch. Cơ số đạn các loại đã dùng hơn một nửa. Tỷ lệ quân số hao hụt không nhiều, phần đông số thương vong là do công sự không vững chắc, bị phi pháo công phá dữ dội. Thương binh, tử sỹ đều phải để tạm trong công sự. Cả ngày chiến đấu, bộ đội ăn lương khô 702 và uống nước lã., quyết tâm chiến đấu của các đơn vị vẫn được giữ vững.

Về phía địch, ngay từ loạt đạn phủ đầu đánh trúng đội hình, quân Mỹ bị thương vong nhiều. Tại khu vực quyết chiến điểm ngổn ngang xác lính Mỹ. Số quân địch còn lại dạt sang một ngọn đội chếch về phía Nam co cụm lại, lập công sự, chống trả quyết liệt. Để chi viện cho bộ binh, máy bay, pháo binh địch liên tục oanh kích vào trận địa ta. Phải thừa nhận rằng, pháo binh Mỹ triển khai thao tác rất nhanh và có trình độ chính xác rất cao. Bộ binh ta và bộ binh Mỹ cách nhau cự ly rất ngắn, có chỗ chỉ con suối cạn, thể hiện không rõ trên bản đồ. Vậy mà pháo địch luôn bắn trúng vào trận địa ta, không rơi quả nào sang đội hình quân Mỹ. Có thể, do bộ binh Mỹ tại chỗ trực tiếp xác định tọa độ, lấy phần tử chỉ thị mục tiêu cho pháo binh. Đồng thời, trắc thủ pháo binh ở các căn cứ đã xử lý thông số kỹ thuật rất kịp thời, chính xác.

Sau khi tổng hợp tình hình chung, đến 18 giờ, Ban Chỉ huy tiểu đoàn  báo cáo Trung đoàn và đề nghị cho nắm lại địa hình, địch tình, để tối đến tổ chức tập kích quân địch đang đứng chân phía trước trận địa. Trung đoàn biểu dương tinh thần, kết quả chiến đấu của Tiểu đoàn 7 và  đồng ý với đề nghị của tiểu đoàn.

Đến 18 giờ 15 phút, anh Trần cho gọi anh Vận đại đội trưởng Đại đội 1, anh Nghiêm đại đội trưởng Đại đội 3 và anh Trường đại đội trưởng Đại đội 4 lên tiểu đoàn nhận nhiệm vụ. Trước khi các đại đội trưởng đến, tiểu đoàn trưởng Bùi Trần đã trao đổi thống nhất phương án tác chiến và nhiệm vụ của các đại đội với chính trị viên Nguyễn Văn Đào và tiểu đoàn phó Phan Hà. Sau khi nghe anh Sơn tiểu đội trưởng trinh sát báo cáo tình hình khu vực địch đóng quân ở phía trước, các đại đội bổ sung ý kiến. Tiểu đoàn trưởng Bùi Trần nói:

- Phương án tác chiến là, đúng 8 giờ tối, hỏa lực tiểu đoàn tập kích vào trung tâm trận địa địch chừng 10 phút. Sau đó, bộ binh sẽ chia làm hai mũi tấn công. Mũi chủ yếu đánh vào chính diện do Đại đội 1 đảm nhiệm. Mũi thứ yếu đánh thọc vào sườn phía đông bắc do Đại đội 3 (thiếu) đảm nhiệm. Tiểu đội trinh sát phải tăng cường bám nắm địch. Từ 7 giờ, các đại đội chuẩn bị tiếp cận địch, rút ngắn cự ly. Đại đội 4 nhanh chóng xác định mục tiêu cho cối và ĐKZ lấy phần tử sẵn sàng, có lệnh là nổ súng được ngay.

Tiếp lời anh Trần, anh Đào chậm rãi nói:

- Thành tích chiến đấu trong ngày của các đơn vị là tốt. Yêu cầu các đại dội kịp thời động viên anh em. Chú ý làm tốt công tác chính sách, thực hiện đúng việc thay thế kịp thời cán bộ do bị thương vong trong chiến đấu. Bất luận trong trường hợp nào cũng phải có người chỉ huy, lãnh đạo đơn vị.

Sau đó, anh Trần hỏi:

- Có ai ý kiến gì không?

Thấy mọi người nhất trí, anh nói thêm:

- Khi hoàn thành nhiệm vụ, các đơn vị tổ chức rút quân về khu vực tập kết ở Bình độ 100.

Anh Trần dứt lời, mọi người trở về đơn vị triển khai ngay các công việc.

Đúng 20 giờ, cối 82 ly, ĐKZ 75 ly của Đại đội 4 đồng loạt bắn. Cối đặt cách mục tiêu chừng hơn 800 mét bắn cầu vồng. ĐKZ đặt cách muc tiêu khoảng 300 mét ngắm bắn trực tiếp. Từ trên đài quan sát, trinh sát báo cáo về, đạn cối và ĐKZ bắn rất chụm, trúng mục tiêu. Hơn 10 phút, anh Trần hạ lệnh cho Đại đội 1 và Đại đội 3 xuất kích.

Cả hai hướng tấn công súng nổ giòn giã. Lúc này điện đài 2 oát bảo đảm liên lạc tốt giữa các đại đội và tiểu đoàn.

Sau gần nửa giờ chiến đấu, mũi thứ yếu do Đại đội 3 đảm nhiệm phát triển thuận lợi, đã đánh chiếm được khoảng một phần ba trận địa địch. Mũi tấn công chủ yếu của Đại đội 1 gặp khó khăn vì  bộ đội phải vượt qua địa hình trống trải một bãi cỏ tranh đã cháy trụi, bị hỏa lực địch bắn chặn, bộ đội thương vong. Chỉ mới Trung đội 1 của Đại đội 1 đánh chiếm được phần ngoài trận địa địch. Đôi bên đang ở thế giẳng co quyết liệt. Anh Trần hội ý nhanh với anh Đào và anh Hà, quyết định tung trung đội dự bị của tiểu đoàn vào tăng cường cho Đại đội 1 để nhanh chóng dứt điểm.

Anh Trần nói với tôi:

- Đẩu chạy nhanh đến gặp Hải trung đội trưởng Trung đội 1, Đại đội 3 truyền đạt mệnh lệnh: Trung đội 1 vào chi viện cho Đại đội 1. Đồng thời, Đẩu trực tiếp dẫn anh Hải đưa Trung đội 1 vào chiến đấu, vì Hải chưa thuộc địa hình, sợ bị lạc trong đêm. Khi dẫn Hải gặp được anh Vận đại đội trưởng Đại đội 1 tại trận địa, thì Đẩu quay về tiểu đoàn ngay, chờ nhiệm vụ mới.

Anh Trần vừa dứt lời, anh Đào nói luôn:

-  Còn mấy ngày nữa mới tổ chức lễ kết nạp, nhưng hôm nay, với tư cách Bí thư Đảng ủy tiểu đoàn, tôi  chính thức tuyên bố, từ giờ phút này, đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu trở thành đảng viên.

Anh Đào nói xong, tôi chỉ có một tiếng:

- Dạ !

Tay cầm khẩu AK đạn đã lên nòng, tôi nhảy phắt ra khỏi hầm lao về Trung đội 1 cách đó hơn 100 mét. Mặc dù đã gần 21 giờ, nhưng máy bay địch thả pháo sáng, cả trận địa sáng trưng như ban ngày. Trong khoảnh khắc, tôi gặp và nói rất ngắn với anh Hải:

- Tiểu đoàn ra lệnh cho trung đội anh chi viện cho Đại đội 1. Anh chỉ huy trung đội theo tôi đi ngay.

Anh Hải không nói gì, cứ thế chúng tôi chạy một mạch về hướng Đại đội 1. Xung quanh pháo cối  địch nổ rất gần, mảnh đạn bay rào rào và đạn thẳng địch bắn ra chiu chít. Băng qua bãi cỏ tranh đang cháy, vượt lên một đoạn dốc thoai thoải, chúng tôi lao về Đại đội 1 gặp anh Vận lúc đó đang cách địch khoảng hơn 50 mét. Khi gặp nhau, anh Vận như đã biết trước, chỉ nói với tôi một câu:

- Đẩu dẫn trung đội Hải lên rồi à, tốt quá. Thôi, em quay về tiểu đoàn đi.

 Tôi chỉ kịp cầm tay anh Vận và anh Hải rồi quay lại tiểu đoàn bộ. Sau lưng tôi, Trung đội 1 Đại đội 3 theo sự chỉ huy của anh Vận và anh Hải lao vào chiến đấu ngay.

Khi tiếp nhận lực lượng dự bị, anh Vận đã chỉ huy Trung đội 1 đánh thốc vào trận địa địch. Đại đội 1 và Trung đội 1 (Đại đội 3) dưới sự chỉ huy của anh đã hoàn thành nhiệm vụ đánh tan quân địch ở hướng chủ yếu. Nhưng gần đến phút chót, anh Vận hy sinh vì một loạt tiểu liên cực nhanh của địch. Tại Sở chi huy tiểu đoàn, khi nghe anh Trần thông báo, tôi đã ngẹn ngào khóc.Tôi không ngờ cái bắt tay lúc tôi quay về tiểu đoàn lại là thời khắc cuối cùng tôi vĩnh viễn xa anh Vận.

 Anh Vận quê ở huyện Yên Thành (hình như ở xã Vĩnh Thành thì phải), Nghệ An. Tốt nghiệp Sĩ quan Lục quân, anh được bổ sung vào tiểu đoàn chúng tôi khi còn chiến đấu ở Lào, làm trung đội trưởng thay anh Lê Đôn Quí. Một thời gian sau, anh lên đại đội phó. Vào chiến trường Miền Nam, anh được bổ nhiệm đại đội trưởng. Tôi cùng chung sống và chiến đấu với anh từ khi còn ở Đại đội 2. Anh là người cương trực, chân thành, chiến đấu dũng cảm lại được học hành cơ bản, nên luôn được cấp trên  tin tưởng và anh em trong đơn vị quí trọng.

Anh Lê Hồng Hải, nhập ngũ tháng 4 năm 1963, quê ở xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch. Tỉnh Quảng Bình. Gia đình anh vốn theo đạo Thiên chúa. Bố anh là ông Lê Văn Hiến, được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang. Tôi quen thân anh Hải từ khi cả hai chúng tôi còn là liên lạc. Anh Hải làm liên lạc tiểu đoàn, còn tôi là liên lạc đại đội. Trong trận chiến đấu ngày 20 tháng 3 năm 1971 ở Cao điểm 550 của Chiến dịch Đường 9- Nam Lào, anh Hải làm Chính trị viên Tiểu đoàn 9 bộ binh, còn tôi làm Chính trị viên Đại đội 20 đặc công của trung đoàn. Kết thúc chiến tranh, anh Hải làm Chính ủy Trung đoàn 24 - Sư đoàn 304, được cấp trên cử đi học Khóa 1- Học viện Cao cấp. Ra trường, anh được bổ nhiệm làm Sư đoàn phó-Tham mưu trưởng, rồi Sư đoàn phó Chính trị Sư đoàn 304 - Quân đoàn 2.

 Tháng 8 năm 1978, khi tôi ở Khu tập thể gia đình quân nhân 1A, Hoàng Văn Thụ, Hà Nội. Lúc đang giặt giũ ở bể nước công cộng, thấy một người mang quân hàm Trung tá đến chơi nhà anh Vũ Cao, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 ở dãy bên cạnh nhìn thấy tôi chạy ra hô toáng lên:

- Ơ!  Đẩu, có phải Đẩu không?

Tôi ngạc nhiên nhìn lại, té ra là anh Trực –Hoàng Trung Trực quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, trước đây cùng ở với tôi một trung đội. Anh Trực nói với tôi rằng, cùng Trung đoàn  ngày đó, có mấy người cùng ra học ở Học viện Cao cấp. Hôm Thứ 7 tới sẽ rủ nhau lên đây chơi.

Đến tối Thứ 7, sau khi đã cơm nước xong, tôi nghe có người gõ cửa, mở ra thì là Anh Hải. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau, ngẹn ngào khóc như hai đứa trẻ.

 Anh Hải nói:

- Sợ Trực nhầm với người khác vì trong đơn vị mọi người nghe tin Đẩu hy sinh trên tuyến chuyển thương từ đầu năm 1971 rồi. Hôm nay lên đây, đề nghị mọi người đứng ngoài chờ, mình vào trước xem thử có đúng không.

Nói rồi, anh Hải gọi mọi người cùng vào nhà, chuyện trò ríu rít sau 7 năm trời gặp lại.

 Sau khi bị thất bại ở Hồ Khê, Đá Bạc, lực lượng còn lại của địch rút về Đường 9. Hai ngày sau, từ khu vực tập kết, anh Trần dẫn chúng tôi gồm mấy anh đại đội trưởng và một số trung đội trưởng và mấy anh em trinh sát, liên lạc trở lại trận địa xem xét đối chiếu để rút kinh nghiệm. Cả một vùng bị bom đạn cày xới ngổn ngang, đồ dùng cả hai bên vứt lại bừa bãi, nhiều nơi lửa còn cháy âm ỉ. Ở giữa sườn đồi, nhiều xác lính Mỹ, cả da trắng và da đen, bị cháy queo, có thể trúng đạn B40 hoặc đạn ĐKZ, còn nằm vất vướng ở trận địa. Cách đó không xa, chúng tôi thấy mấy thi thể tử sỹ ta mà khi rút đơn vị chưa kịp đưa ra. Mặc dù đã bị biến dạng nhiều, nhưng trong số đó, tôi vẫn nhận ra một số anh, như anh Mai Ngọc Quyến, trung đội trưởng Trung đội 2, Đại đội 1 quê ở xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Anh Quyến vốn là trinh sát tiểu đoàn, người cao, trắng, có chiếc răng khểnh. Chúng tôi tổ chức khâm liệm các anh vào võng rồi chuyển về an táng ở khu vực đã chuẩn bị.

Hoàn thành nhiệm vụ ở khu vực núi Hồ Khê - Đá Bạc, cả tiểu đoàn lui về  khu vực Bình độ 100, chuẩn bị cho trận chiến đấu tiếp theo. Dự kiến là sau khi bị thất bại, địch sẽ tiếp tục đưa quân lên với số lượng và qui mô lớn hơn, đánh sâu hơn vào vùng giải phóng của ta. Toàn tiểu đoàn tập trung củng cố lực lượng, bổ sung trang bị vũ khí, lương thực, hoàn thiện phương án tác chiến, xây dựng công sự trận địa,…Đài quan sát của tiểu đoàn đặt ở cao điểm 88, phía tây làng An Cát Khê, ngày đêm thường xuyên bám sát các động thái trong khu vực.

Ngày 20 tháng 5 năm 1967 là một ngày trọng đại trong cuộc đời tôi. 19 tuổi đời, hơn 2 năm tuổi quân, trải qua rèn luyện thử thách ở chiến trường, tôi vinh dự được kết nạp vào Đảng. Ngày đó, được vào Đảng là điều thiêng liêng, niềm tự hào đối với thế hệ trẻ chúng tôi.

Lúc 17 giờ, toàn thể chi bộ tiểu đoàn bộ tập trung ở một khúc suối cạn dưới chân Bình độ 100 để tổ chức lễ kết nạp Đảng viên mới. Hôm đó kết nạp hai người: tôi và Trần Công Thuận bạn thân của tôi, quê ở xã Thanh Cát, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, tiểu đội phó trinh sát. Trước khi buổi lễ bắt đầu, anh Phan Hà tiểu đoàn phó thông báo việc chốt chặn địch ở các hướng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và xác định các phương án xử lý. Tiếp đến phần tuyên bố lý do của anh Trần Văn Thuyết trung đội trưởng thông tin, chi ủy viên, cả chi bộ đứng dậy chào cờ, không hát Quốc tế ca, Lễ kết nạp bắt đầu. Anh Ngô Đình Nựu chính trị viên phó tiểu đoàn, Bí thư chi bộ, đọc vắn tắt lý lịch cùng đơn xin vào Đảng của tôi. Mời anh Phan Hà là người giới thiệu tôi vào đảng đứng dậy phát biểu. Anh nói  rất nghiêm túc, ngắn gọn, chân thành:

- Tôi, Phan Hà, phó bí thư chi bộ, tiểu đoàn phó, quê xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, là người giới thiệu đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu vào Đảng. Tôi xin bảo đảm về mọi mặt, đồng thời có trách nhiệm sẽ tiếp tục bồi dưỡng đồng chí Đẩu trở thành người Đảng viên chính thức.

Tiếp theo là anh Trần Ngọc Lợi, Bí thư Chi đoàn thanh niên đọc biên bản giới thiệu của chi đoàn. Cuối cùng là lời tuyên thệ của tôi. Trong giờ phút thiêng liêng, trước cờ Đảng, trước chi bộ, tôi nắm chặt tay, xúc động ngẹn ngào nói lên lời hứa quyết tâm tự đáy lòng mình.

Tiếp sau phần kết nạp tôi, là kết nạp anh Trần Công Thuận. Thủ tục vẫn như trước. Người giới thiệu anh Thuận vào Đảng là Anh Ngô Đình Nựu. Với chất giọng mộc mạc chân quê, anh Nựu nói:

- Tôi, Ngô Đình Nựu, một vợ ba con, quê xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, Bí thư chi bộ tiểu đoàn bộ, chính trị viên phó tiểu đoàn, là người giới thiệu đồng chí Trần Công Thuận vào Đảng,….

Buổi lễ kết nạp Đảng tại trận địa diễn ra khoảng 30 phút nhưng rất trọng thị, nghiêm túc, thực hiện đầy đủ mọi nguyên tắc thủ tục. Tôi cảm thấy thiêng liêng.

Trên đường về hầm, tôi hỏi anh Nựu:

- Này anh, có phải hôm đánh địch ở Hồ Khê, các anh nghĩ rằng, khi dẫn trung đội 1 của anh Hải xuất kích, em có khả năng hy sinh. Nên trước khi em lên đường, anh Đào chính trị viên tiểu đoàn đã tuyên bố em chính thức trở thành Đảng viên phải không anh? Mà hôm nay sao lại phải kết nạp lại? 

- Đúng đấy, trong giờ phút hiểm nguy mà quang vinh đó, vào sinh ra tử là chuyện khó tránh khỏi, bọn mình thống nhất là, tuyên bố trước để nếu có hy sinh, cậu cũng đã là người đảng viên Cộng sản đích thực. Nhưng hôm nay có điều kiện vẫn cứ tiến hành việc kết nạp cho đúng với nguyên tắc thủ tục. Nếu không, sau này khi xác định Đảng tịch, ngộ nhỡ có người không hiểu thực tế chiến trường, gây nghi ngại phức tạp ra, không cần thiết.

Anh Nựu vui vẻ trả lời .

Tôi nói nửa đùa, nửa thật:

- Như thế là, nếu hy sinh, em được vào Đảng trước 5 ngày so với em còn sống.

         Cả hai chúng tôi cùng cười.

 Anh Phan Hà về Tiểu đoàn chúng tôi từ tháng 5-1965 giữ chức Tham mưu phó tiểu đoàn rồi lên Tiểu đoàn phó. Sau khi anh Bùi Trần hy sinh, anh Hà được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng. Quê anh cách quê tôi khoảng 30 km. Ở chiến trường ngoài tình đồng chí, anh còn coi tôi là đồng hương. Có điều gì tôi làm chưa tốt, anh thẳng thắn bày dạy đến nơi đến chốn. Anh sống chân thành, giản dị nhưng lại dí dỏm sâu sắc. Có lần ở hậu cứ tiểu đoàn tổ chức văn nghệ quần chúng, anh đăng ký một tiết mục. Mọi người tưởng anh đùa. Nhưng đến lúc anh lên hát bài con vỏi con voi, cái vòi đi trước, hai chân trước đi trước,… theo cách biểu diễn của nghệ sỹ Trần Hiếu.Với chất giọng nam trầm, với thể hình thấp đậm, da đen, đầu húi cua, tai to, mũi to và các động tác minh họa theo lời bài hát của anh vừa vui vừa ngồ ngộ làm cho chúng tôi được một trận cười no nê.

Trong đợt Tổng tấn công và nổi dậy Mùa Xuân 1968, anh Phan Hà là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 đánh vào Huế. Trong suốt hơn 20 ngày dũng mạnh đánh chiếm, kiên cường bám trụ Thành nội Huế, Tiểu đoàn 7 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đầu tháng 3 năm 1968, anh Hà được bổ  nhiệm giữ chức Trung đoàn phó. Tháng 7 năm 1969, Đoàn cán bộ của Tiểu đoàn 9 đi địa  hình ở Cốc Muộn tây Thừa Thiên bị trúng bom tọa độ máy bay B57, thương vong gần hết. Hôm đó anh cùng đi nên đã hy sinh. Đang tập huấn ở Quân khu bộ Quân khu Trị Thiên Huế, nhận được tin, tôi đau xót vô cùng. Cùng hy sinh một lần với anh Phan Hà, còn có anh Nguyễn Đăng Loạt, tiểu đoàn trưởng, quê Quảng Văn, Quảng Trạch, Quảng Bình; Nguyễn Duy Hào, tiểu đoàn phó, quê Thọ Xuân , Thanh Hóa và mấy anh em nữa.

Tôi biết anh Ngô Đình Nựu khi anh còn làm Trung đội trưởng trung đội cối 82 ly thuộc Đại đội 4. Làm trung đội trưởng nhưng anh được tín nhiệm bầu vào  Đảng ủy tiểu đoàn. Thật là hiếm có. Thông thường thì Đảng ủy tiểu đoàn bao gồm: Cán bộ chủ trì trong Ban chỉ huy tiểu đoàn và các chính trị viên đại đội. Giữa năm 1965, anh lên chính trị viên phó rồi một thời gian ngắn sau được bổ nhiệm chính trị viên Đại đội 4. Đến khi đơn vị vào chiến đấu ở chiến trường Miền Nam, anh được bổ nhiệm giữ chức Chính trị phó tiểu đoàn.

Xuất thân từ một gia đình nghèo ở một vùng quê cũng nghèo, nhập ngũ từ năm 1953, trải qua hoạt động nhiều ở chiến trường, anh Nựu mang trong mình phẩm chất mộc mạc, giản dị, cần cù, dũng cảm. Ở anh luôn luôn toát lên tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn. Đặc biệt là tình nghĩa với đồng đội và ý thức tổ chức kỷ luật, tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Năm 1973, anh giữ chức Chính ủy Trung đoàn được cử ra tập huấn ở Bộ, nghe tin tôi xây dựng gia đình, anh đến chúc mừng. Năm 1988, anh Nựu nghỉ hưu. Tháng 8 năm 1992, khi Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị tập huấn ở Đồ Sơn, tôi gặp anh Quyết, trưởng ban chính sách tỉnh đội Quảng Bình, người cùng làng với anh Nựu. Biết tin anh ốm nặng, tôi nhờ Quyết chuyển hộ thư thăm hỏi và một khoản tiền nhỏ để anh thêm vào mua thuốc uống. Cuối năm đó, Quyết kể với tôi rằng, khi đọc thư và cầm mấy trăm bạc tôi gửi, anh Nựu đã khóc. Hơn một tháng sau thì anh từ trần ở quê.

 Ngày 12 tháng 6 năm 1967, Tiểu đoàn 7 chúng tôi đánh nhau với quân Mỹ một trận quyết liệt ở chân Bình độ 100. Đến 9 giờ tối, xét thấy sức chiến đấu của tiểu đoàn đã bị tiêu hao sau hơn một tháng hoạt động, cấp trên lệnh cho tiểu đoàn rút về phía sau củng cố. Khi tổ chức cho toàn đợn vị rút ra theo thế cuốn chiếu, đề phòng quân địch đánh tập hậu, tiểu đoàn giao cho Trung đội 2 Đại đội 3 do anh Đinh Xuân Bài làm trung đội trưởng ở lại bám trụ trận địa, rút ra sau cùng. Cả tiểu đoàn hành quân độ hơn một tiếng đồng hồ, khi đã qua suối La La, Đồi Không Tên được khoảng bốn cây số, anh Trần  giao tôi trở lại trận địa dẫn trung đội anh Bài rút ra.

Giữa đêm tối mịt mùng, phía trên đồi là quân Mỹ, với khẩu AK trong tay, đạn đã lên nòng, hai quả lựu đạn mỏ vịt dắt lưng, một mình tôi quay trở lại trận địa. Từ khi đơn vị chưa vào cho đến suốt thời gian hoạt động, chúng tôi đã có nhiều lần đi  trinh sát, nên tôi nắm rất chắc địa hình ở đây. Bám theo đường cũ, từng chặng một tôi quan sát nghe ngóng động tĩnh, rồi lao đi thật nhanh. Cứ thế, gần một giờ sau tôi đã vào trận địa của trung đội anh Bài. Trên đường đi tôi sợ gặp địch đã đành, nhưng khi gần sát tới trận địa ta tôi lại sợ anh em tưởng nhầm là thám báo địch mò vào mà bắn thì nguy hơn. Bởi thế, tôi chọn cách là bò vào như đi trinh sát đồn địch để tiếp cận vào ngay hầm anh Bài rồi nhảy tót vào. Trong trường hợp đang tiếp cận mà anh em phát hiện được nổ súng trước, bị trúng ngay loạt đạn đầu thì đành chịu. Còn nếu chưa trúng thì tôi sẽ dựa vào một vật che chắn rồi hô toáng lên, chắc chắn anh em sẽ nhận ra.

Theo kinh nghiệm, tôi cho rẳng, vào ban đêm nói chung là bắn trượt, trừ phi phát hiện trước từ xa ngắm thật kỹ. May quá, tôi vào được hầm anh Bài mà không ai biết. Khi nhận ra, anh Bài vừa dang tay đón tôi vừa nói:

- Trời ơi! Đẩu hở em!

Tôi nói nhanh:

- Anh ơi, cả Tiểu đoàn đã rút về phía sau rồi. Anh Trần nói, anh cho toàn thể trung đội rút ra theo em.

 Đến rạng sáng thì chúng tôi về tới hậu cứ tiểu đoàn. Đang chợp mắt, nghe tin tôi về, anh Trần nhảy phắt dậy ôm choàng lấy tôi như người cha ôm lấy con trai từ nơi hiểm nguy trở về.

Kết thúc đợt chiến đấu ở khu vực núi Hồ Khê, Đá Bạc, khi bình xét khen thưởng, tôi được đơn vị đề nghị trên tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng Hạng Ba. Ngày đó, việc bình xét khen thưởng chặt chẽ, thậm chí khắt khe nữa.

Sau hơn một tháng củng cố, tiểu đoàn trở lại hoạt động ở làng An Cát Khê và làng Trung An thuộc huyện Gio Linh. Lúc này, các anh tiểu đoàn điều tôi sang làm tiểu đội trưởng trinh sát thay anh Sơn đi làm trung đội trưởng bộ binh ở Đại đội 1. Trước khi đơn vị vào xây dựng công sự, trinh sát chúng tôi đi nắm địch và nghiên cứu địa hình. Đây là vùng sát đồng bằng, cách Đường 1 không xa. Là vùng giáp ranh giữa ta và địch, nhân dân đã sơ tán hết. Trong các khu vườn chè, tiêu và rất nhiều cây ăn quả rậm rạp, đã lâu không có người chăm bón, thu hoạch. Có nhiều quả mít chín thơm lừng, nhiều buồng chuối chín rục, chúng tôi mang về ăn. Có một lần, tôi đang cắt một buồng chuối, thì phát hiện ra một tử sĩ của ta nằm bên cạnh một gốc mít. Phần thịt đã tiêu hết, chỉ còn một bộ xương khô trong bộ quân phục vải Tô Châu. Bên cạnh là một khẩu AK đã hoen rỉ. Cầm khẩu súng lên thấy băng đạn vẫn còn, khóa súng vẫn mở, tôi tháo băng đạn, kéo khóa nòng thì viên đạn văng ra. Chứng tỏ, lúc hy sinh người chiến sĩ vẫn trong tư thế nằm bắn. Mấy anh em đào huyệt an táng người liệt sỹ vô danh vào giữa vườn chè của dân. Trước đó, ở khu vực này, tháng 7 năm 1966, Trung đoàn 2, Sư đoàn 324 đã đánh nhau rất quyết liệt với quân Mỹ. Cạnh nhà thờ Trung An vẫn còn một chiếc trực thăng H34 bị bắn cháy khi đổ quân, nằm chỏng chơ.

Ngoài việc nghiên cứu địa hình tại khu vực, chúng tôi còn phải đi trinh sát nắm tình hình địch trong phạm vi xa hơn. Sang tận các làng Nam Đông, Nam Dương, dọc theo trục Đường 74, ra gần sông Hiền Lương. Ở các vùng ven đó, để bảo vệ cứ điểm Cồn Tiên và Dốc Miếu, cả quân Mỹ và quân ngụy tăng cường hoạt động. Cùng với chủ lực địch, lực lượng bảo an dân vệ cũng ngày đêm bố phòng canh gác.

Tôi nhớ có lần tôi và hai người nữa là Thiên và Hồi vào làng Nam Dương nắm địch. Đã khuya, trời sáng trăng, chúng tôi đang tiếp cận vào một cái chốt của dân vệ, thì nghe trong đó nói vọng ra the thé một giọng con gái còn trẻ:

- Chà!  Trăng sáng quá hỉ. Khẩu súng mới toanh thế ni. Bây chừ mà gặp mấy thằng Việt Cộng bắn thử, nghe ngon dữ hè.

Tôi biết, để lấy tinh thần cho nhau, chúng chỉ nói bâng quơ, tình cờ chúng tôi nghe được. Nhưng điều đó chứng tỏ sự đối kháng một mất một còn trong chiến tranh là không thể mơ hồ. Khi đã lùi ra ngoài cánh đồng, Thiên còn tức tối nói với tôi:

        - Tiên sư nó, hôm nay không vì đi trinh sát, ta vào đó xả cho bọn chúng một trận nên thân.

 Ngày 10 tháng 8 năm 1967, Tiểu đoàn chúng tôi chặn đánh quân địch hành quân từ Nam Đông ra khu vực Miếu Bái Sơn. Lần này chúng dùng xe tăng làm mũi đột kích chủ yếu. Đại đội 2 đánh chặn ở khu vực làng Trung An, Đại đội 3 đánh chặn địch ở phía đông làng An Cát Khê. Khi địch đưa 2 xe tăng lên trước, Trung đội 2 Đại đội 2 dùng B40 bắn cháy tại chỗ 1 xe tăng. Chiếc còn lại dùng pháo trên xe bắn phá dữ dội. Đặc biệt là, lần này trên xe tăng có trang bị súng phun lửa. Từng quầng lửa lớn nóng rực, phun cháy cả mấy bụi tre và cả vườn chè cháy trụi. Lần đầu tiếp xúc với vũ khí mới của Mỹ, bộ đội ta có người cũng hoảng. Anh Trần hét lên qua điện thoại:

- Các anh em đừng sợ, cứ bám chắc vào công sự, nó phun kệ nó, chờ nó tới gần dùng B40 tiêu diệt.

  Anh nói thêm:

- Cử ra hai người thoát ra khỏi công sự, một AK yểm trợ và một B40 cơ động vòng ra ngoài đến gần bắn vào bên sườn xe tăng.

Mấy phút sau, một tiếng nổ rất to, một cột khói bốc lên cao, chiếc xe tăng còn lại bị trúng đạn B40, đạn trong xe cũng đã nổ theo. Quân địch lùi về phía sau. Máy bay các loại và pháo địch dồn dập bắn vào trận địa tiểu đoàn. Đang ngồi cảnh giới trên miệng hầm chỉ huy, Nguyễn Văn Tự chiến sĩ liên lạc bị một quả pháo nổ rất gần mảnh pháo cắt cụt cẳng chân trái, máu ra xối xả. Chúng tôi ôm Tự đưa xuống hầm, nhanh chóng băng ga rô cầm máu. Tự quê ở thôn Tự Nhiên xã Hoằng Trung, huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa, bổ sung vào đơn vị từ tháng 6 năm 1966.

Chiều hôm đó, mấy lần liền, với chiến thuật dùng phi pháo bắn phá dọn đường, dọn bãi, sau đó bộ binh Mỹ tiếp tục tấn công vào trận địa ta. Mặc dù bị thương vong mất một số, nhưng cả tiểu đoàn chúng tôi vẫn kiên cường, đánh bật nhiều đợt tấn công của quân Mỹ. Đến chiều tối, tôi gặp anh Cao Sĩ Tính và mấy cán bộ của đại đội đặc công trung đoàn. Vốn là tiểu đội phó của tôi hồi ở Lào, bây giờ anh Tính đã là mũi trưởng đặc công. Sau khi hỏi tôi về địa hình, địch tình, anh Tính nói vói tôi là, trung đoàn giao cho đại đội đặc công ra đây nghiên cứu để tối nay tổ chức tập kích quân địch đang dừng chân ở phía trước Tiểu đoàn 7.

 Đến 8 giờ tối, Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 7 chúng tôi bàn giao trận địa cho đại đội đặc công, di chuyển toàn bộ đội hình về khu vực Miếu Bái Sơn, ở chân cao điểm 88. Nơi đó công sự trận địa đã có sẵn, chỉ cần gia cố thêm, cả tiểu đoàn gấp rút chuẩn bị đánh địch trong ngày mai.

Đường từ Trung An, An Cát Khê về cao điểm 88 bị pháo địch bắn phá dữ dội. Để tránh thương vong do phi pháo địch bắn chặn đường, tôi đề nghị với anh Trần cho tiểu đội trinh sát dẫn bộ đội hành quân cắt góc phương vị về hướng bắc chừng 2 tiếng đồng hồ rồi mới quặt về hướng tây vào trận địa ở cao điểm 88 trước khi trời sáng. Anh Trần đồng ý. Mở bản đồ ra, đặt địa bàn, chúng tôi lấy góc phương vị và bắt đầu hành quân. Các tử sĩ hy sinh trong ngày đều đã được an táng vào khu vực bố trí sẵn ở làng Trung An. Còn thương binh nặng thì cáng đi cùng bộ đội. Chúng tôi hành quân trong đêm tối mịt mùng. Bỏ lại phía sau làng Trung An và làng An Cát Khê nghi ngút khói lửa dưới ánh đèn dù pháo sáng máy bay Mỹ thả. Phía xa trên khu giáp ranh, pháo địch vẫn bắn liên hồi. Khoảng 5 giờ sáng chúng tôi về đến trận địa mới. Mọi người bắt tay vào củng cố công sự, nấu cơm ăn.

Khoảng hơn 10 giờ, tôi thấy anh Ma Vĩnh Lan trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Cảnh chính ủy trung đoàn, anh Nguyễn Hoán tham mưu trưởng trung đoàn đều có mặt ở Sở chi huy tiểu đoàn. Hầm chỉ huy sở khá rộng. Ngồi trong hầm có các anh Bùi Trần, Nguyễn Văn Đào, ba anh thủ trưởng trung đoàn. Anh Trần ngồi ở chính giữa  ngoảnh mặt ra cửa hầm. Cạnh đó là anh Đào chính trị viên. Các anh khác ngồi hai bên. Còn tôi ngồi cảnh giới ở cửa hầm. Sau khi nghe anh Trần báo cáo, anh Lan mở bản đồ, cầm bút chì vừa nói vừa chỉ. Mắt quan sát bên ngoài nhưng tai tôi vẫn nghe ngóng bên trong. Chẳng phải tò mò mà vì công việc đòi hỏi biết được các hoạt động có liên quan. Anh Lan nói:

- Tối qua đại đội đặc công tập kích địch co cụm ở Trung An, đạt kết quả tốt. Rạng sáng nay, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ, đại đội đặc công đã rút về phía sau. Đồng thời, sáng nay, ĐKB (hỏa tiễn) của Mặt trận sẽ tập kích địch ở Nam Đông , Nam  Dương, Trung An. Cấp trên chỉ thị đưa Tiểu đoàn 7 về đây để tiếp tục đánh chặn địch vào hôm nay. Yêu cầu tiểu đoàn cho các đơn vị vào trạng thái chiến đấu ngay.

Chấp hành chỉ thị của anh Lan, anh Trần điện cho các đại đội tăng cường cảnh giới, nắm địch, chuẩn bị chiến đấu. Khoảng hơn một giờ chiều, đài quan sát báo về, địch bắt đầu chuyển quân lên Miếu Bái Sơn. Anh Trần điện cho anh Sơn, lúc này đang là đại đội phó, quyền đại đội trưởng Đại đội 1, chú ý theo dõi địch sẵn sàng nổ súng. Chừng nửa tiếng sau, súng nổ dồn dập ở hướng Đại đội 1. Điện thoại reo, anh Trần nghe anh Sơn báo cáo tình hình. Anh thông báo lại với cả hầm cùng nghe là, Đại đội 1 đã dùng mìn định hướng và các loại hỏa lực sát thương, chặn đứng và đánh lùi địch xuống chân cao điểm. Anh Trần chỉ thị đại đội tranh thủ củng cố lại công sự, tăng cường quan sát, không để bị bất ngờ.

Mấy phút sau, một tốp máy bay Mỹ oanh tạc ngay vào khu vực Sở chi huy tiểu đoàn. Nhiều quả bom nổ rất gần. Có cả bom đào và bom sát thương. Bom đào nghe tiếng nổ trầm đục không to, chỉ thấy đánh ục một cái, rồi cả căn hầm lắc lư, chao đảo, xiêu vẹo. Bom sát thương mảnh bay rào rào trên mặt đất, cây cối bị phạt đổ ngổn ngang.

Anh Trần nhắc:

- Sau mỗi loạt bom, các bộ phận nhớ liên lạc với nhau ngay, nhỡ có hầm nào trúng bom bị sập, còn kịp thời đào bới, cứu anh em khỏi bị chết ngạt.

Khoảng nửa tiếng sau, Anh Trần quay lại nói với tôi:

          - Thôi, Đẩu về bên hầm tranh thủ nghỉ đi một chút. Mấy đêm thức trắng rồi, còn để sức tối nay nữa. Cho cậu nào sang trực thay cũng được.

          Nhảy ra khỏi hầm chỉ huy, chạy về hầm trinh sát cạnh đó, tôi gọi Thiên sang thay. Khi Thiên đi, tôi dặn:

- Chú ý thường xuyên cảnh giới và giữ liên lạc với các bộ phận.

 Nguyễn Ngọc Thiên chiến sĩ trinh sát, đẹp trai, khỏe mạnh, hơn tôi hai tuổi, quê ở làng Khương Hà, xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

 Máy bay oanh tạc chừng 10 phút, thì pháo địch bắn tới tấp vào khu vực Đại đội 1 và Sở chỉ huy tiểu đoàn. Thực ra, ở trận địa bị pháo bắn còn căng thẳng hơn bị máy bay oanh tạc. Liên tục, dai dẳng cứ như người ta đánh đáo vậy. Chẳng biết có quả nào trúng hầm mình không. Thôi thì phải chấp nhận sự may rủi.

Đang miên man, thì có một quả pháo nổ ngay cạnh hầm tôi, phía trước hầm chỉ huy. Chợt nghe tiếng kêu từ phía hầm chỉ huy, tôi nhảy ra khỏi hầm, giữa mịt mù khói đạn cay xè, khét lẹt. Tới cửa hầm, tôi thấy xác Thiên nằm sõng soài, đầu vỡ toác, máu lênh láng. Lao vào trong hầm, tôi thấy anh Trần đã gục xuống tấm bản đồ. Ngực, lưng anh và cả tấm bản đồ ướt đẫm máu. Cạnh đó,  anh Lan, anh Cảnh, anh Đào đang lả đi vì bị sức ép, bị ngạt.

Quả đạn pháo nổ sát miệng hầm, một mảnh pháo cắt ngang phần nửa trên đầu Thiên xuyên thẳng tới ngực anh Trần, chắc trúng tim. Tôi chạy sang báo cáo với anh Phan Hà, Tiểu đoàn phó và anh Ngô Đình Nựu, Chính trị viên phó ở một hầm cách đó chừng 20 mét. Hai anh chạy sang. Anh Hà yêu cầu chúng tôi lấy võng bọc thi thể anh Trần và Thiên lại để dưới miệng hầm, rồi anh ngồi vào vị trí chỉ huy.

Hết đợt pháo kích, quân địch tấn công vào toàn bộ trận địa tiểu đoàn. Anh Hà chỉ thị, bằng mọi giá, các đại đội phải tập trung giữ bằng được trận địa. Mười phút sau, Đại đội 1 báo cáo, anh Sơn đại đội phó và anh Túng trung đội trưởng bị hy sinh khi chỉ huy bộ đội phản kích ở phía nam Cao điểm 88. Ở hướng Đại đội 2 và hướng Đại đội 3 đều chặn đứng, đánh lui được nhiều đợt tấn công của quân địch, giữ vững trận địa. Nhưng, thực tế là, qua mấy ngày chiến đấu, bộ đội ta thương vong với một số lượng tương đối lớn. Trong số bị thương vong, một phần bị phi pháo và nhiều hơn là trong tác chiến với bộ binh địch. Anh Sơn quê ở làng Tượng Sơn, xã Quảng Long, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Anh Túng quê ở gần Hoàn Lão, xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Đến 8 giờ tối, sau khi trao đổi với anh Cảnh chính ủy, Anh  Lan trung đoàn trưởng lệnh cho Tiểu đoàn 7 tổ chức lui quân về phía tây. Sau khi an táng Thiên tại chỗ, chúng tôi dùng cáng đưa thi thể anh Trần cùng hành quân với đơn vị. Khi đã qua suối La La, chúng tôi an táng anh Trần ở chân Đồi Không Tên.

Trong chiến đấu, tôi đã nhiều lần vĩnh biệt đồng chí, đồng đội, nhưng việc anh Trần hy sinh là điều đau xót nhất đối với tôi. Anh vừa là thủ trưởng trực tiếp, vừa như người anh vô cùng thân thiết trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là những lúc hiểm nguy. Tôi được nhiều lần đi trinh sát nắm địch cùng anh Trần. Có lần khi đi trinh sát ở Đường 9 mạn gần Cam Lộ,  tối dừng lại ở chân Cao điềm 35 cạnh làng Tân Kim, tôi và anh ngủ trong một cái hầm cũ. Đây là vùng địch kiểm soát, thám báo Mỹ vẫn thường xuyên lùng sục. Trước khi đi nằm, hai anh em kéo cành cây khô làm hàng rào chắn, ít nhất là tạo ra tiếng động khi có người đi qua. Chưa yên tâm, đến khuya anh nói tôi dậy lấy 4 quả lựu đạn cài 4 phía, cách hầm chừng hơn chục mét.

Cài lựu đạn giống như cài mìn. Khi cài không ngại. Ngại nhất là khi gỡ. Chỉ cần sơ suất một chút là chết người. Sáng tinh sương, anh bảo tôi dậy cùng gỡ lựu đạn để đi tiếp. Tôi bảo anh cứ ngồi trong hầm, nếu có sự cố gì, mình em chịu. Trong sinh hoạt, anh luôn coi tôi như đứa em út.

Quê anh ở xóm Sỏi, xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Trên đường hành quân vào B, anh đưa tôi tạt về nhà. Ngày đó bà cụ Trực mẹ anh vẫn còn. Chị Thuyết vợ anh là cán bộ phụ nữ tỉnh Quảng Bình. Anh chị có hai con. Cháu Yên sinh sau khi hòa bình lập lại ở Miền Bắc. Cháu Chiến là kết quả của lần anh tạt về tranh thủ trước khi đi chiến đấu ở Lào, năm 1965. Cuối năm 1967, Trung đoàn cho tôi và anh Ngô Trí Thướng, Trưởng tiểu ban quân lực chuyển di vật anh về gia đình. Chị Thuyết đã ôm lấy tôi khóc gào thảm thiết. Lúc đó cháu Yên, cháu Chiến còn nhỏ, ngơ ngác chưa biết gì.

28 năm sau, năm 1995, tôi vào công tác ở Đồng Hới. Khi đang ngồi làm việc với anh Cao Lương Bằng, Thiếu tướng, Tỉnh đội trưởng Quảng Bình, thấy một người đi ngang trước cửa phòng. Nhìn thoáng qua tôi thấy rất quen mà không nhớ nổi là ai. Tôi liền hỏi anh Bằng, đó là ai. Anh Bằng nói là lái xe của anh ấy. Tôi nghĩ chắc mình nhầm với ai đó. Thiên hạ thiếu gì người giống nhau.

Trưa ăn cơm xong, như có điều linh tính mách bảo, tôi  tìm người lái xe hỏi:

- Này, cậu quê ở đâu?

Cậu lái xe trả lời:

- Quê em ở huyện Quảng Ninh, xã Vạn Ninh.

Tôi hỏi dồn:

- Có biết nhà ông Bùi Trần con cụ Trực không?

Cậu ta giật mình trả lời:

- Ôi! Em là con ông Trần đây, sao Thủ trưởng lại biết nhà em.

Tôi thảng thốt:

- Ơ! cháu là Chiến à?! Trời ơi, hèn chi cháu giống bố thế. Gần 30 năm trước chú là liên lạc của bố cháu. Ngày đó, bố cháu trạc tuổi cháu bây giờ thôi.

Mọi người đều quay lại nhìn chúng tôi. Anh Bằng nói:

- Anh Đẩu nói đúng đấy. Chiến giống bố nó lắm. Tôi nghe bà Thuyết, mẹ Chiến nói lại, có lần một bà cô đến nhà chơi đã mắng Chiến, cớ làm sao mà cháu dám đặt ảnh của mình lên bàn thờ ông bà tổ tiên vậy?  Chiến phải nói ngay rằng, cô ơi, đó là di ảnh của bố cháu đấy chứ. Bà cô ngẩn người nhìn lại, chà, bố con cháu giống nhau như hai giọt nước.

Chiều hôm đó, Chiến đưa tôi về thăm nhà. Bà cụ Trực đã mất, chị Thuyết đã già đi nhiều, nhưng vẫn nhận ra tôi sau nhiều năm xa cách.

 Tháng 10 năm 1967, sau đợt hoạt động dài ngày ở chiến trường Bắc Đường 9, cấp trên điều Trung đoàn chúng tôi ra Miền Bắc củng cố. Bắt đầu xuất phát từ một khu rừng ở mạn  phía tây bắc huyện Gio Linh, Tiểu đoàn 7 hành quân vượt qua Bến Tắt – gần Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn bây giờ. Mấy ngày sau toàn  đơn vị về đóng quân ở khu rừng già phía tây huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình, cách Khương Hà khoảng 5 cây số. Qua một con sông hình như sông Son thì phải. Tiểu đoàn 7 đóng quân cách Trung đoàn bộ hơn 3 cây số. Tiếng là về hậu phương củng cố nhưng cả đơn vị vẫn đóng quân trong các khu rừng già, cách động Phong Nha không xa. Cả tiểu đoàn được bổ sung quân số, trang bị, xây dựng thao trường huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật. Ban chỉ huy Tiểu đoàn lúc này có sự thay đổi. Anh Phan Hà được bổ nhiệm làm tiểu đoàn tưởng. Anh Nguyễn Văn Đào được cấp trên điều đi đơn vị khác. Sau này tôi mới biết là anh Đào vào Tây Nguyên. Anh Ngô Đình Nựu làm chính trị viên tiểu đoàn. Anh Tăng Văn Miêu quê ở Thái Thụy, Thái Bình, đại đội trưởng Đại đội 4 được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó. Anh Nguyễn Thái quê ở Nho Quan, Ninh Bình, chính trị viên Đại đội 3 được bổ nhiệm làm chính  trị viên phó tiểu đoàn. Thời kỳ này máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá ác liệt trên trục đường 15 từ Hoàn Lão lên phà Xuân Sơn, sang tận Lào. Có lần tiểu đoàn giao cho các đại đội cử người ra Khương Hà nhận lương thực, bị bom bi Mỹ rải dọc đường và bến sông hy sinh mất mấy anh em.

Ngày 15 tháng 12 năm 1967, anh Nguyễn Hoán tham mưu trưởng Trung đoàn về làm việc với Tiểu đoàn 7. Gặp tôi, anh nói:

- Sắp tới vào Miền Nam sẽ đánh lớn, mình về Trung đoàn bàn với các anh sẽ điều cậu lên Ban Tham mưu Trung đoàn.

Tôi chẳng biết nói gì. Mấy ngày sau có quyết định điều tôi lên Trung đoàn làm Trợ lý trong Tiểu ban quân lực. Tôi chia tay với anh em trong Tiểu đội liên lạc và Tiểu đội trinh sát là hai nơi tôi đã gắn bó trong suốt mấy năm ở chiến tường. Các anh: Phan Hà, Ngô Đình Nựu, Nguyễn Thái, Tăng Văn Miêu trong Ban chỉ huy Tiểu đoàn dặn tôi như vậy là em được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ mới. Em phải nỗ lực phấn đấu để xứng danh là lính Tiểu đoàn 929, xứng đáng với lòng mong mỏi của các anh. Chia tay các anh giống như chia tay những người ruột thịt, ngày ra đi tôi đã khóc.

Sau này tôi được biết, khi ở chiến trường ra, tại buổi làm việc với Tiểu ban cán bộ Trung đoàn, khi nói đến tôi, trong Ban chỉ huy tiểu đoàn có hai ý kiến khác nhau. Người thì đề nghị cho tôi đi học Trường Sĩ quan Lục quân vì có chỉ tiêu của trên mà tôi lại cũng đủ tiêu chuẩn. Người thì đề nghị giữ tôi lại để bồi dưỡng thành cán bộ của đơn vị, như thế nhanh hơn. Khi biết được tình hình đó, anh Hoán đòi đưa lên cơ quan Trung đoàn.

Anh Nguyễn Hoán là Tiểu đoàn trưởng của chúng tôi hồi còn chiến đấu ở Lào. Anh vốn xuất thân con nhà giàu, được học hành đầy đủ từ nhỏ. Năm 1945 vào bộ đội, năm 1946 vì đã có bằng thành chung ( tốt nghiệp phổ thông trung học ) anh được chọn đi học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp anh giữ chức tiểu đoàn trưởng rồi tham mưu phó trung đoàn. Trong đợt phong quân hàm đầu tiên, năm 1958, anh được trao cấp bậc đại úy. Thuở đó như vậy là to rồi. Nhưng vì là con địa chủ, có thể do tư tưởng thành phần chủ nghĩa của một số người chi phối công tác cán bộ trong một thời kỳ dài, đường công danh của anh không suôn sẻ. Từ tham mưu phó trung đoàn anh lại trở lại giữ chức tiểu đoàn trưởng.

Anh Hoán là con người vừa có tài, vừa có tâm. Trong chỉ huy chiến đấu anh là người mưu lược, dũng cảm, quyết đoán. Còn trong cư xử với mọi người, từ cấp dưới đến cấp trên, anh là người chân thành, lịch lãm. Anh sống khiêm nhường. Đó là sự khiêm nhường có ý thức của người thường xuyên tự ti, mặc cảm, cố ý rèn luyện mình.

 Có lần hành quân ở Đèo 1001, tôi thấy anh dừng lại vác hộ khẩu trung liên của một chiến sĩ bị lên cơn sốt. Chúng tôi thật sự cảm phục một trung đoàn phó lưng đeo súng ngắn K59, vai vác khẩu trung liên, mặt đỏ au, mồ hôi nhễ nhại,  vững bước đi giữa đoàn quân ra trận. Hành động đó có ý nghĩa hơn cả những lời thuyết giáo dài dòng, sáo mòn, trống rỗng. Nhiều khi vào các khu vực quân Mỹ mới rút, đồ hộp, dụng cụ và giấy tờ vứt lại ngổn ngang, chúng tôi mù tịt chẳng biết gì, anh Hoán cầm đọc từng loại bằng tiếng Anh và bày cho chúng tôi, nhất là khai thác khoản đồ hộp của Mỹ.

Dáng người anh  Hoán cao to, quắc thước, râu quai nón, đôi mắt sáng, đầu húi cua. Trình độ công tác tham mưu của anh rất giỏi. Cách ra chỉ thị bằng khẩu lệnh hoặc viết điện của anh luôn luôn chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu. Theo anh, sự chính xác, ngắn gọn và dễ hiểu trong mệnh lệnh của cấp trên là điều kiện thuận lợi đầu tiên cho cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Cùng sống với anh, cả trong chiến đấu cũng như trong sinh hoạt, chúng tôi được học nhiều điều.

Ngày 25 tháng 12-1967, theo Quyết định của Thủ trưởng Trung đoàn 29 ( sau đó đổi phiên hiệu là Đoàn 8 Quân khu Trị Thiên ), chia tay đồng đội nhiều năm sát cánh chiến đấu ở Tiểu đoàn 7, tôi nghẹn ngào khoác ba lô lên Trung đoàn bộ nhận nhiệm vụ ở Tiểu ban Quân lực. Tiểu ban Quân lực lúc đó có 5 người. Anh Thướng trưởng tiểu ban và 4 trợ lý: anh Nguyễn Thanh Chương quê Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh, trợ lý quân số; anh Lê Văn Xảo quê Thọ Xuân- Thanh Hóa, trợ lý trang bị; anh  Phí Văn Mao quê Lập Thạch – Phú Thọ, trợ lý chính sách. Anh Thướng biết tôi từ trước. Các anh khác tôi mới gặp lần đầu. Anh Thướng giao cho tôi trước mắt cứ tìm hiểu công việc chung của cơ quan, rồi sẽ phân công công việc cụ thể sau.

Ông Thướng là bộ đội thời chống Pháp, ngày đó đã hơn 40 tuổi. Các anh Xảo, Mao, Chương đều hơn tôi từ 6 đến 10 tuổi. Tôi nhận nhiệm vụ được 3 ngày thì đơn vị hành quân cấp tốc vào đánh Huế trong Chiến dịch Tổng tấn công Mậu Thân 1968.

Bước sang tuổi 20, mặc dù đã trải qua chiến đấu 3 năm ở chiến trường, nhưng công việc ở cơ quan đối với tôi là hoàn toàn mới mẻ. Các anh trong Tiểu ban Quân lực và Bộ Tham mưu đều coi tôi như đứa em út. Các anh lớp trước đã tận tình bảo ban, hướng dẫn tôi mọi việc rất cụ thể.

Ông Nguyễn Hoán, Tham mưu trưởng Trung đoàn, quê ở Cẩm Thăng ( Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh ), vốn trước đó là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 - lúc tôi là Liên lạc rồi Trinh sát. Ông Hoán thương quý coi tôi như con trai. Lúc ấy ông vừa tròn 40 tuổi. Thỉnh thoảng gặp tôi, ông cà bộ râu quai nón lởm chởm do lâu ngày không kịp cạo lên trán tôi ... Ông Hoán hy sinh năm 1970 tại một cánh rừng gần Đường 12 ở phía Tây tp Huế, khi đang giữ chức Trung đoàn trưởng dẫn một bộ phận cán bộ chủ chốt và trinh sát đi địa hình, bị máy bay trực thăng vũ trang phát hiện, bắn rốc két.

Cơ quan tham mưu lúc bấy giờ toàn những người hơn tuổi tôi. Các anh lãnh đạo đều là bộ đội từ hồi chống Pháp. Các anh trợ lý cũng đều là lớp trên tôi. Cả cơ quan chỉ có Trương Tấn Phượng hơn tôi hai tuổi, mới được điều từ Đại đội 12 ly 7 lên làm trợ lý bảo mật. Hai “tân binh” trở thành đầu sai của cơ quan trong các công việc đòi hỏi đến sức khỏe. Phượng trầm tĩnh, cẩn thận, chắc chắn bù lại tôi tháo vát, nhanh nhẹn, xông xáo. Bởi thế, tôi và Phượng thân nhau ngay từ những ngày đầu gặp gỡ. Phượng quê ở làng Quảng Cư, xã Xuân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, đang học dở lớp 9 năm 1965 thì đi bộ đội.

Tôi lên Trung đoàn được 3 ngày thì cả đơn vị bắt đầu hành quân đi chiến đấu. Lần này, Trung đoàn không trở lại chiến trường Đường 9 mà hành quân vào sâu hơn. Lệnh của trên là cả Trung đoàn phải hành quân cấp tốc. Tôi nhớ hôm vượt qua phà Long Đại. Ở đây có qui định các đơn vị chỉ được qua phà lúc trời đã tối hẳn, đề phòng lộ bến máy bay Mỹ phát hiện oanh tạc. Đơn vị đi đầu của Trung đoàn đến bến lúc 4 giờ chiều. Anh trưởng bến phà, nói giọng Khu 5 rất gay gắt, dứt khoát không cho qua. Anh ấy nói:

- Việc qua phà ban ngày là vi phạm kỷ luật chiến trường. Ai muốn qua, phải bước qua xác tôi.

Căng quá. Thậm chí đưa cả điện khẩn tối mật của cấp cao nhất cho anh ấy đọc và nói thế nào cũng không được. Các anh chỉ huy Trung đoàn đang lúng túng chưa biết tính sao, thì  anh Lê Văn Dánh, Phó Chính ủy Trung đoàn  nói:

- Lúc này mệnh lệnh hành quân chiến đấu là trên hết, chậm trễ thì không hoàn thành nhiệm vụ. Thuyết phục không được, phải cưỡng bức.

Nói rồi, Anh Dánh giao cho mấy anh em trinh sát giữ chặt anh Trưởng bến phà lại. Chờ đến khi cả Trung đoàn qua sông xong thì thả ra. Đó là cách làm lưỡng tiện. Trung đoàn chúng tôi kịp hành quân theo mệnh lệnh của trên. Mà chỉ huy bến phà cũng không vi phạm qui định.

 Cả trung đoàn vượt Đèo 1001, Dốc Chè. Sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, khi vượt Sông Bồ đi về Hương Trà-Thừa Thiên, qua Đài Phát thanh được nghe Thơ Chúc tết của Bác Hồ:

”Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp nước nhà

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên!Toàn thắng ắt về ta”.

Từng đoàn quân trên đường ra trận khí thế ngất trời. Chúng tôi mừng vô cùng. Bầu không khí rầm rập, rạo rực bao trùm cả đội hình hành quân. Lúc này hình như không còn giữ bí mật nữa. Cả đoàn quân đi náo nức, oai hùng. Mấy anh cán bộ mang đài bán dẫn mở hết cỡ. Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh giải phóng liên tục đưa tin thắng trận ở thành phố Huế, Sài gòn và trên khắp chiến trường. Cả Miền Nam bắt đầu cuộc Tổng Tấn công và nổi dậy đồng loạt. Chúng tôi như bay, như nhảy trên đường hành quân. Trung đoàn 29 chúng tôi được giao nhiệm vụ vào tham gia chiến đấu ở Huế. Các trung đoàn lúc đó đều gọi là Đoàn (Quân khu Trị Thiên Huế có các Đoàn 4,5,6,8,9). Trung đoàn 29 đổi tên là Đoàn 8. ( Đến đầu năm 1969, khi vào đội hình của Sư đoàn 324 thì Đoàn 8 lại đổi là Trung đoàn 3).

Chiều tối Mồng Một Tết hành quân qua ngã ba Hương Trà, xuống Miếu Ông Ầm, các tiểu đoàn rẽ đi các hướng theo nhiệm vụ chiến đấu được giao. Tiểu đoàn 7 đánh vào Thành nội, chợ Đông Ba. Tiểu đoàn 9 đánh vào Cửa Chánh Tây, An Hòa. Tiểu đoàn 8 đánh ở ngoại thành Huế, vùng La Chữ, Quế Chữ. Ngày Mồng Hai Tết, các đơn vị bước vào tham chiến với cả quân Mỹ và quân Ngụy. Trời mưa phùn gió lạnh.

Tiểu ban Quân lực lúc này chia làm hai bộ phận. Anh Thướng, anh Xảo, anh Mao đi cùng Ban Tham mưu Trung đoàn. Anh Chương và tôi được bố trí ở Hương Trà có nhiệm vụ tiếp nhận quân và vũ khí đạn dược bổ sung đưa lên phía trước ; đồng thời thu dung thương binh, phân luồng đi chữa trị ở các Bệnh viện dã chiến.

Còn nhớ, có lần anh Chương và tôi đi nhận 1 Tiểu đoàn tân binh từ miền Bắc vào bổ sung cho đơn vị. Nhận quân bàn giao tại một Trạm Giao liên Đường 559 xong, chúng tôi tổ chức chỉ huy hành quân theo trục đường tạt về tây Thừa Thiên. Đến chập tối, cả đơn vị dừng lại nấu cơm ăn theo từng tiểu đội. Chẳng may, có tiểu đội lợi dụng một hốc cây làm bếp. Đó là loại cây họ dầu cao vút giữa rừng. Thế rồi lửa bén cháy dọc theo thân cây. Đang giữa mùa khô, đám lửa mỗi lúc một to. Hai anh em chúng tôi bàn với nhau: Lệnh cho toàn thể đơn vị thu dọn đồ đạc di chuyển ngay, bất luận ăn hay chưa!

Khi cả Tiểu đoàn vừa rời khỏi đó chừng 2 km, thì máy bay phản lực Mỹ ập đến ném bom tới tấp. Anh em tân binh chân ướt chân ráo từ miền Bắc mới vào chiến trường được phen hú vía. Nếu không cấp tốc di chuyển ngay, chắc số thương vong sẽ không ít. Gần 500 quân ngày đó, bây giờ có ai còn sống ở phương trời nào đó, chắc chưa quên chuyện này.

Lần khác, máy bay B 57 thả bom tọa độ trúng chỗ trú quân ở khu rừng thưa gần ngã ba Hương Trà. Có hai chiếc hầm bị bom vùi lấp khá sâu. Bom ngớt, anh Chương và tôi mỗi người một cái xẻng ra sức đào bới. Nhưng khi bới tới nơi, thì mấy chiến sỹ đã chết ngạt, chân tay co quắp. Chúng tôi dùng xẻng đào huyệt an táng anh em tại chỗ. Tìm quanh không có tăng ni lông hoặc võng để bọc. Mà chúng tôi cũng không biết họ tên, quê quán, đơn vị của các liệt sĩ đó.

Đến tháng 6/1968, tôi được điều về Đại đội 20 Đặc công. Anh em chia tay nhau.

Tháng 5/ 1969, Trung đoàn tôi chiến đấu ở A Bia. Một hôm cán bộ phái viên Quân khu về làm việc. Anh Chương nhường hầm trú ẩn cho phái viên, lên ngủ hầm lộ thiên ( không nắp ). Đang đêm ngủ bị quả pháo của địch bắn gần đó, anh bị thương vào chân. Anh Chương là người nhân đức, thông minh, cương trực, giàu nghị lực phấn đấu. Anh thích làm thơ, có nhiều bài hay.

Ra Bắc điều trị, an dưỡng xong, năm 1970, với bậc quân hàm Thiếu uý, cấp trên giải quyết cho anh phục viên về quê làm ruộng.

Khi anh cầm tờ Quyết định phục viên về quê, thì chị Trần Thị Thu Trúc vợ mới cưới của anh nhận được Giấy báo trúng tuyển Đại học Sư phạm. Chị định bỏ không đi học Đại học nữa, ở nhà cùng. Nhưng anh động viên chị lên đường với lời hứa là anh sẽ cố gắng học để thi đậu Đại học. Trước khi nhập ngũ, năm 1962, anh đang học dở Lớp 9. Phục viên về quê, mặc dù đã 28 tuổi, anh vẫn nhẫn nại xin đi học lại. Tuổi nhiều xấp xỉ giáo viên. người cao to, cùng ngồi trong lớp với các em học sinh, anh nói, lắm khi ngượng lắm. Có bữa đi học về gặp bà con xã viên đi làm, anh đã tránh sang đường khác. Khi không có đường tránh, thì anh đút sách vở vào túi quần, coi như đi đâu đó về. Cứ thế, anh cắn răng chịu đựng được 2 năm qua Lớp 9 & Lớp 10. Tốt nghiệp Phổ thông, anh thi đỗ vào học Khoa Kế hoạch Trường Đại học Kinh tế quốc dân ( ngày đó gọi là Đại học Kinh tế Kế hoạch ). Năm 1979, tốt nghiệp, anh về công tác ở Hà Tĩnh. Năm nay anh đã 77 tuổi, nghỉ hưu ở quê. Chị Trúc - vợ anh - cựu giáo chức nghỉ hưu, nay đã 70 tuổi. Anh chị có 3 người con . Con cái thành đạt, hai ông bà ở với nhau.

Anh Chương bị thương vào chân nên đi hơi tập tễnh. Anh hài hước nói vui rằng, sự tập tễnh này như một cái dấu chấm phẩy ( ; ) giữa cuộc đời. Quả thật, sau khi bị thương, cuộc đời anh bước sang một khúc đoạn khác. Cuộc đời trải ra như một câu văn xuôi, mà vết thương là cái dấu chấm phẩy ( ; ) ngắt câu sang đoạn khác.

Tôi nhớ, cách đây gần 50 năm, trong một lá thư từ quê anh gửi cho tôi kèm theo một bài thơ khá dài, trong đó có đoạn :

“ Đã mang mơ ước ra đi / Anh hùng chí lớn nam nhi vẫy vùng / Một xanh cỏ, hai anh hùng / Ai ngờ gẫy cánh nửa chừng khổ thay / Chim trời ngang dọc cứ bay / Còn ta rơi giữa ruộng cày dở đang ”.

Cả thời kỳ chiến đấu ở Huế, Trung đoàn tôi được bổ sung  tám đợt tân binh. Ban Tham mưu Trung đoàn phân phối quân số bổ sung cho các đơn vị tùy thuộc vào hai yếu tố: Số lượng thương vong trong chiến đấu và nhiệm vụ được giao của từng đơn vị, nhất là các đơn vị đang trực tiếp chiến đấu. Có anh em bổ sung vào đơn vị lúc chập tối, chưa biết phiên hiệu đơn vị, thậm chí chưa biết mặt, biết tên thủ trưởng trực tiếp, cứ thế bước vào chiến đấu. Đến đêm có người hy sinh, có người bị thương, cán bộ cơ sở không nắm được cụ thể. Bộ đội chiến đấu bị thương ở các hướng đưa về phía sau cũng nhiều loại, nhiều kiểu. Thương binh nặng thì cáng lên viện ở phía sau xa hơn. Thương binh vừa và thương binh nhẹ thì bố trí đến các đội điều trị hoặc các viện dã chiến. Phần đông thương binh vừa và  thương binh nhẹ, trừ trường hợp bị thương vào chân, đều tự đi đến cơ sở điều trị.

Trong chiến đấu nhiều đồng chí có quyết tâm cao. Bị thương nặng coi như bị thương nhẹ. Bị thương nhẹ coi như không bị thương. Tiếp tục ở lại cùng chiến đấu với đơn vị. Nhưng cũng có trường hợp, tuy không nhiều, mượn cớ bị thương để lùi về phía sau. Có trường hợp rất cá biệt, dùng súng tự thương để rời khỏi chiến trường, thoái thác nhiệm vụ.

 Bằng thực tiễn đó, mấy chục năm sau, khi đã là Cục trưởng Cục Chính sách, tôi càng hiểu hơn, thông cảm hơn một tình hình là tại sao trong chiến đấu việc quản lý quân số hy sinh, bị thương của các đơn vị ở chiến trường khó khăn đến thế. Những tồn đọng về chính sách nhiều năm sau chiến tranh chưa giải quyết xong do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân chủ quan do trách nhiệm và khả năng, nhưng có những nguyên nhân khách quan trong chiến đấu ở chiến trường là bất khả kháng.

Từ chỗ đóng quân trên đất Hương Trà, theo sự phân công của anh Thướng, tôi đến các đơn vị để nắm tình hình thực lực quân số, trang bị. Đến các đội điều trị, các viện dã chiến để nắm số lượng và danh sách quân nhân bị thương. Hồi đó, tôi được anh Thướng giao cho một tập giấy khống chỉ chứng nhận bị thương đã ký tên anh Nguyến Hoán tham mưu trưởng Trung đoàn và đóng dấu sẵn để kịp thời giải quyết cho những anh em khi bị thương rời đơn vị chưa được cấp. Giấy chứng nhận bị thương là căn cứ pháp lý để thực hiện chính sách. Giấy này dùng để phân biệt người bị thương trong chiến đấu với các trường hợp khác. Căn cứ vào bệnh án và lời khai của từng người, tôi điền vào giấy khống chỉ rồi trao tận tay cho anh em.

Những ngày đầu, ta bất ngờ tấn công, đánh chiếm hầu hết các mục tiêu quan trọng của Thành phố Huế. Địch bị thất bại nặng nề, chỉ còn trụ lại được ở cứ điểm Mang Cá. Nhưng sau đó chúng đã được tăng viện liên tiếp phản kích chiếm lại những vị trí đã mất.

Sau 26 ngày liên tục bám trụ chiến đấu ở Huế, giành giật, chống trả nhiều đợt tấn công với qui mô lớn của bộ binh địch, dưới sự bắn phá ác liệt của phi pháo địch, mặc dù đã được bổ sung mấy đợt liền nhưng vẫn không bù đủ quân số thương vong của Trung đoàn. Quân số thiếu hụt, vũ khí đạn dược đã cạn kiệt, bảo đảm lương thực khó khăn, không thể duy trì được sức chiến đấu. Tinh hình bộ đội ta ở Mặt trận Huế cũng là tình hình chung của toàn chiến trường Miền Nam lúc bấy giờ.

Hai mươi năm sau (1988), ba mươi năm sau (1998), bốn mươi năm sau (2008), đã có nhiều hội thảo khoa học lịch sử quân sự về Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 – Một cột mốc lớn chói sáng trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Tại các lần hội thảo và trên nhiều sách báo, các nhà lãnh đạo chính trị, các nhà lãnh đạo, chỉ huy cấp chiến lược ở Trung ương, các vị Tướng lĩnh - Tư lệnh các chiến trường, các nhà nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu khoa học quân sự,…trên từng bình diện khác nhau, đã có những đánh giá về thắng lợi, về khuyết điểm hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm về sự kiện lịch sử này.

Ý kiến qua lại thì nhiều, trong đó có cả ý kiến khác biệt. Điều đó cũng dễ hiểu. Xưa nay là vậy, lịch sử diễn ra chỉ một lần nhưng viết lịch sử, đánh giá lại, định vị lại giá trị của lịch sử thì lại diễn ra bằng nhiều lần. Mọi người có cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, độ lùi cho phép của thời gian, sự đầy đủ của thông tin và kết cục của cuộc chiến càng làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà ngay trong chiến tranh chưa có điều kiện kiểm chứng. Nhưng nói gì đó thì nói, tựu trung lại có thể khái quát ngắn gọn là:  Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giành được thắng lợi to lớn, toàn diện, có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Ta đã táo bạo bất ngờ tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực cấp cao của Mỹ ngụy; đánh chiếm những mục tiêu hiểm yếu, phá hủy một khối lượng quan trọng các phương tiện chiến tranh và cơ sở hậu cần hiện đại nhất của Mỹ - ngụy. Thắng lợi đó, về cơ bản, đã đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đã tạo ra một sự đột biến làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo điều kiện và thời cơ tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Khuyết điểm chính là: Do nhận thức và đánh giá chưa thật sát đúng tình hình. Trong khi lực lượng Mỹ-ngụy và chư hầu đông tới 1 triệu 20 vạn tên, nắm trong tay những phương tiện chiến tranh hiện đại, khổng lồ, đang chiếm giữ những căn cứ được phòng thủ vững chắc, cuộc chiến tranh đang diễn ra quyết liệt, việc đề ra chủ trương Tổng tiến công-Tổng khởi nghĩa là không sát thực tế. Đã kéo dài cuộc Tổng tiến công vào các đô thị khi yếu tố bất ngờ không còn, địch đã củng cố, thực hành phản công quyết liệt. Chậm chuyển hướng chiến lược. Những khuyết điểm, sai lầm ấy đã gây cho ta những tổn thất rất to lớn. Sau này tổng kết lại, có ý kiến cho rằng, nếu ngày đó mục đích của Tổng tiến công chỉ là đánh địch thiệt hại nặng, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán, thì công bằng mà nói, cái giá phải  trả quá đắt.

Đánh giá về toàn cục của các cấp chiến lược là vậy. Nhưng ở cấp cơ sở, quả thật lúc đó, ban đầu trong khí thế hừng hực sục sôi, qua tuyên truyền và ý kiến chỉ đạo, phổ biến của lãnh đạo chỉ huy trực tiếp, chúng tôi cứ nghĩ rằng, đây là trận chiến đấu cuối cùng để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Tuồng như,  nếu chậm chân sẽ không có vinh hạnh được góp mặt trong cái ngày trọng đại, huy hoàng ấy. Nhưng sau đó, bom đạn ác liệt quá, thương vong nhiều quá, địch mạnh quá, dường như ta không cân sức, thì nhiều người sinh ra bi quan dao động, thậm chí có một số đã đào ngũ, chạy dài về phía sau. Điều mà trước đó hầu như ở đơn vị chúng tôi không hề có.

Ngày 22 tháng 2 năm 1968, Quân khu ra lệnh cho Trung đoàn chúng tôi rút ra khỏi Huế hành quân về vùng giáp ranh Bình Điền, Hương Trà để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho trận chiến đấu tiếp theo. Tại đây, ngày 20 tháng 5 năm 1968, tôi được chuyển thành Đảng viên chính thức.

Sau khi tái chiếm hoàn toàn thành Huế và các huyện đồng bằng, địch bắt đầu đánh nống lên vùng giáp ranh. Các loại máy bay trực thăng, phản lực và máy bay cánh quạt C130 ngày đêm thay nhau quần đảo, bắn phá ác liệt. Thêm vào đó, nhiều lần B57, B52 ném bom rải thảm và pháo bầy các loại 105 ly, 175 ly,…từ các căn cứ ở đồng bằng cấp tập dội vào trận địa ta. Có lần bộ binh Mỹ đã đánh đến cách Trung đoàn bộ không đầy cây số. Quân số thương vong nhiều hơn, cả đơn vị và cơ quan. Gạo tiếp tế từ Miền Bắc không vào kịp, gạo ở đồng bằng không lên được vì bị địch đánh chặn các ngả đường. Tiêu chuẩn mỗi người mỗi ngày chỉ được 2 lạng gạo, không đủ nấu cơm, phải nấu cháo độn rau môn thục hoặc rau tàu bay. Đặc biệt là muối ăn không đủ. Con người ta đói ăn, khát uống không căng bằng thiếu muối. Người cứ lả đi, chân tay rời rã. Thiếu ăn dẫn đến nhiều loại bệnh tật phát sinh, nhất là bệnh phù thũng. Đây bắt đầu là thời kỳ khó khăn đối với chủ lực ta.  Đồng đội tôi, phần thì hy sinh trong chiến đấu ở Huế, phần thì hy sinh ở Bình Điền, Hương Trà, đã vãn đi khá nhiều. Riêng quân số hy sinh ở Huế trong Tết Mậu Thân của Trung đoàn tôi lên tới mấy trăm người. Ác liệt, gian khổ, thương vong diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Một không khí bi hùng bao trùm lên toàn đơn vị.

Chính thời gian rút ở Huế lên Bình Điền, Hương Trà, nghĩ rằng, trong điều kiện bom đạn ác liệt, biết đâu sự hy sinh ập đến lúc nào không biết trước được, tôi đã làm sẵn một quyển sổ bìa cứng để ghi lại những cảm xúc của mình trong những ngày đó. Đây không phải biểu hiện của tư tưởng bi quan lo lắng mà là chủ động một tâm thế thanh thản lạc quan. Ngoài bìa, tôi  nắn nót viết một dòng bằng chữ in: KHI TÔI HY SINH, ĐỀ NGHỊ ĐƠN VỊ CHUYỂN HỘ VỀ CHO CHA TÔI. Trong quyển sổ đó, tôi ghi chép nhiều thứ như là Nhật ký chiến trường. Đặc biệt là, có một bản di chúc tôi gửi cha tôi.

 Bản Di chúc tôi viết là: “Cha kính yêu! Khi cha nhận được quyển sổ này, thì Nguyễn Mạnh Đẩu – đứa con trai thân yêu của cha đã hy sinh ngoài mặt trận. Cha! hãy bình tĩnh lại Cha ạ. Lúc còn nhỏ, Con vẫn được Cha dạy rằng, việc sống chết là luật tiết của tạo hóa. Dẫu có sống đến 800 tuổi như Ông Bành Tổ rồi cũng phải chết, không ai qua được. Vấn đề là, sống và chết thế nào cho xứng đáng. Tiếc là con hy sinh  quá sớm, khi mới tròn 20 tuổi đầu. Con ân hận là chưa làm được gì để đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của Cha Mẹ. Nhưng, về phận sự với đất  nước, con có quyền tự hào là  trong cuộc chiến đấu quyết liệt với quân thù, con đã sống xứng đáng trên tuyến đầu và đã hy sinh vẻ vang vì sự nghiệp,…Cuối cùng, Con cầu mong Cha khỏe mạnh, bình an. Mong cha nuôi dạy các em con mau khôn lớn trưởng thành để sau này thay con phụng dưỡng cha lúc tuổi già, sức yếu. Xin vĩnh biệt Cha!” . Cuối bản Di chúc là mấy câu thơ:

”Hãy vui lên Cha, Con hy sinh

Cũng vì giải phóng đất nước mình

 Cha ơi, tương lai đà soi sáng

 Vì mọi người, Con hiến tuổi xanh”.

 

Đây là những lời tâm sự, nhắn nhủ tâm huyết, viết ra trong nước mắt, thốt ra tự đáy lòng, tôi gửi lại cho cha tôi - người thân yêu nhất trên đời. Nhưng mãi tới mấy chục năm sau, cho đến khi từ trần, cha tôi cũng chưa hề đọc bản Di chúc đó của tôi. Tôi cũng không bao giờ kể với ông chuyện này.

Cứ mỗi khi có điều kiện, tôi lại ghi chép. Và mỗi lần đi chiến đấu tôi đều gửi lại hậu cứ Quyển sổ bìa cứng đó. Trong chiến dịch Đường 9-Nam Lào năm 1971, khi nghe tôi bị thương nặng không qua khỏi, anh Phạm Huy Chưởng, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 về hậu cứ mở quyển sổ ra đọc rồi giữ lại chờ dịp chuyển về cho cha tôi. Nhưng sau đó, năm 1972, đi chiến đấu chiến dịch Động Tranh ở tây Thừa Thiên,  sợ mình không giữ được, anh Chưởng lại giao cho anh Lê Văn Thảo phụ trách hậu cứ. Sau này, theo lời anh Chưởng, tôi tìm gặp anh Thảo ở Thành phố Thanh Hóa thì được biết rằng hậu cứ bị trúng bom cháy hết không còn gì. Thảo bị cụt một chân trong trận bom đó. Tôi tiếc vô cùng. Anh Phạm Huy Chưởng quê Hương Khê - Hà Tĩnh, cùng chiến đấu với tôi từ hồi ở Lào. Sau này anh là Thiếu tướng, Tỉnh đội trưởng Thừa Thiên Huế rồi Phó Tư lệnh –Tham mưu trưởng Quân khu 4. Mỗi lần chúng tôi gặp nhau, anh Chưởng vẫn thường nhắc về quyển sổ này. Anh cũng còn kể cho nhiều người nghe.

Sau một thời gian chiến đấu ở vùng giáp ranh, chấp hành mệnh lệnh của Quân khu, các đơn vị chủ lực lần lượt rút lên rừng để củng cố. Trung đoàn 8 rút về  Phu Rếch- Cô Trang  gần Đường 12 tây Thừa Thiên, rồi sau đó rút lên tận Mường Nòng (Lào).

 Ngày 10 tháng 6 năm 1968, theo chỉ thị của trên, trước yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, Trung đoàn tái thành lập Đại đội Đặc công, lấy phiên hiệu là C20. (Đại đội Đặc công cũ đã bàn giao cho Mặt trận Bắc Quảng Trị khi Trung đoàn hành quân vào đánh Huế). Qui trình là bộ khung của đại đội được xây dựng trước, rồi đón tân binh ở Miền Bắc vào bổ sung, lắp ráp thành từng tiểu đội, trung đội. Sau đó tổ chức huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật đặc công.

Đặc công là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, yêu cầu chất lượng cao, tinh binh, tinh cán. Bộ khung từ tiểu đội  trưởng cho đến cán bộ đại đội, đều là những cán bộ trẻ, khỏe, nhanh nhẹn, mưu trí, dũng cảm, đã lập được nhiều thành tích trong chiến đấu bộ binh, được lựa chọn trong toàn thể Trung đoàn. Trên cơ sở tiêu chuẩn đã được xác định, Trung đoàn giao chỉ tiêu cho tập thể cấp ủy các đơn vị lựa chọn đề nghị lên. Trung đoàn thẩm tra, xem xét lại rồi quyết định. Ban đầu bộ khung được hình thành là : Ban chỉ huy đại đội bốn người. Đại đội có ba trung đội, mỗi trung đội 3 cán bộ. Mỗi trung đội có ba tiểu đội, với ba tiểu đội trưởng. Đại đội trưởng là anh Nguyễn Duy Hào, quê Thọ Xuân, Thanh Hóa, vốn là đại đội trưởng Đại đội 9 Tiểu đoàn 9. Chính trị viên đại đội là anh Trương Anh Dung, quê Quang Minh, Kim Anh, Vĩnh Phú, vốn là chính trị viên Đại đội 12 ly 7 cao xạ. Đại đội phó là anh Đinh Minh Chúng, quê Trung Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình, vốn là đại đội phó Đại đội 3 Tiểu đoàn 7. Chính trị viên phó là anh Hồ Văn Bé, quê Nghi Xuân, Hà Tĩnh, vốn là chính trị viên phó Đại đội 1, Tiểu đoàn 7. Khi mới thành lập đại đội đặc công, do xác định tính chất hoạt động độc lập, phân tán trong địch hậu, mỗi trung đội có biên chế một chính trị viên.

 Một buổi tối tháng 6 năm 1968, ở vùng giáp ranh Hương Trà, anh Hoán cho liên lạc gọi tôi sang hầm của anh. Thay mặt lãnh đạo, anh trao quyết định phong cấp Trung đội bậc trưởng cho tôi. (Một cách phong quân hàm hồi đó đối với Quân Giải phóng. Với bậc này, nếu ra Miền Bắc, tôi được phiên sang Thiếu úy). Sau đó, anh  vừa dặn dò vừa tâm sự, đại ý, em lên công tác ở cơ quan Trung đoàn được 6 tháng rồi. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ tốt, được tập thể cơ quan tín nhiệm. Với đà đó em có triển vọng phát triển ở cơ quan tham mưu. Bây giờ em có nguyện vọng gì không. Rất phấn khởi vì được phong quân hàm và thực sự  cảm động về những lời nói ân tình chí nghĩa của anh Hoán, tôi bày tỏ cám ơn sự quan tâm dìu dắt của các anh mà đặc biệt là anh Hoán. Đồng thời, đây là dịp tốt tôi có điều kiện giải bày nguyện vọng cùa mình. Bởi vậy, tôi thành thật xin anh Hoán cho tôi về đơn vị chiến đấu. Tôi nói:

-  Anh ạ ! Phong cách làm việc ở cơ quan không thật sự phù hợp với lứa tuổi như em. Em xin về đơn vị chiến đấu, vì về lại dưới ấy dù có vất vả hơn nhưng trẻ trung, vui vẻ, sôi nổi với bạn bè cùng trang lứa, đầy chất lính hơn.

Chăm chú nghe tôi trình bày hết, anh Hoán nói nhỏ nhẹ:

- Thôi được, anh hiểu em, để anh bàn với các anh trong Ban chỉ huy Trung đoàn. Trước mắt, em về tiếp tục làm tốt công việc của mình.

Mười ngày sau, tính từ buổi tối gặp anh Hoán, tôi có quyết định của Trung đoàn điều động về Đại đội 20 đặc công nhận nhiệm vụ với cương vị chính trị viên Trung đội 2. Ngày đó, dưới con mắt của mọi người, đặc công được kính nể vì những chiến công xuất quỉ nhập thần trong các sào huyệt của địch. Được tuyển chọn vào bộ đội đặc công là một vinh dự. Tôi vui mừng và có phần hãnh diện. Trung đội trưởng trung đội 2 là anh Cao Hồng Nhụy quê Tuyên Hóa, Quảng Bình, trung đội phó là anh Trần Văn Thành quê Hương Khê, Hà Tĩnh. Tôi về Đại đội 20 đặc công được hơn nửa tháng, thì đi nhận tân binh ở Lao Bảo - Quảng Trị.

Tân binh nhập ngũ đợt tháng 2-1968, quê chủ yếu ở hai huyện Tiền Hải và Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Quân số Đại đội lúc này lên tới 120 người. Chúng tôi hành quân về Dốc Giao, tổ chức huấn luyện ngay.Theo chỉ thị của trên, thao trường được chuẩn bị rất công phu. Hào đào sâu hơn 3 mét, rộng 5 mét. Dưới lòng hào cắm chông nhọn tua tủa. Làm hàng rào thép gai mấy lớp:  rào đơn, rào cũi lợn, bùng nhùng, giàn mướp. Chặt gỗ ghép lại thành các bức tường cao hơn 3 mét. Xây dựng lô cốt, chiến hào, ụ súng, giao thông hào. Tất cả đều như thật. Kỹ thuật, chiến thuật, võ thuật đặc công có sức hấp dẫn đối với lớp trẻ. Lại được nghe giới thiệu nhiều chiến tích của bộ đội đặc công hồi đó, chúng tôi hăm hở ngày đêm hăng say luyện tập.

Tình huống giả định có khi mật tập và có khi cường tập vào đồn địch. Mật tập là bí mật tiếp cận mục tiêu để tiêu diệt. Cường tập là khi vào chưa tới mục tiêu đã bị lộ, phải nhanh chóng vượt qua mọi chướng ngại vật, lao vào mục tiêu để đánh. Khó và nguy hiểm nhất là khi tập cường tập. Từng người và cả đội hình phải băng qua hàng rào thép gai, vượt hầm chông. Có buổi tập xong, người bị xây xát máu. Một lần đang huấn luyện tại thao trường, bị máy bay Mỹ thả bom bi, cậu Tuyển y tá bị trúng bom hy sinh. Trong suốt thời gian huấn luyện, Quân khu cho một tổ giáo viên trinh sát đặc công của Bộ gồm năm người về làm giáo viên huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và võ thuật đặc công. Tổ trưởng giáo viên là anh Nguyễn Như Huyền.

Có sự trùng hợp ngẫu nhiên, 31 năm sau, năm 1999, cùng đợt thăng quân hàm Thiếu tướng một ngày với tôi có hai người cùng đơn vị cũ là anh Nguyễn Như Huyền, Cục trưởng Cục Tác chiến – Bộ Tổng Tham mưu và anh Tăng Văn Miêu, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 3.

Tháng 10 tháng 1968, cả Trung đoàn hành quân về Lệ Thủy, Quảng Bình. Đại đội Đặc công đóng quân trong nhà dân ở xã Mai Thủy, Lệ Thủy. Về Mai Thủy được mấy ngày, tôi được Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế quyết định thăng quân hàm Đại đội bậc phó, bổ nhiệm giữ chức Chính trị viên phó Đại đội thay anh Hồ Văn Bé đi làm chính trị viên phó Tiểu đoàn 7.

Ban chỉ huy Đại đội ở trong nhà chị Trường, một cái nhà ngói to, vườn rộng, có cây mít sai quả. Chị Trường có chồng là anh Lê Văn Giang, quê ở Quảng Nam, Thiếu úy, Thuyền trưởng Hải quân, đã hy sinh trong trận chiến đấu với máy bay Mỹ, năm 1965, ở căn cứ  Thanh Khê, cửa biển Sông Gianh. Về đây, chúng tôi tiếp tục xây dựng thao trường và huấn luyện. Tổ chức biên chế của đại đội lúc này không là trung đội nữa mà cả đại đội có sáu  mũi với 120 quân. Mũi trưởng Mũi 1 là anh Lê Văn Ba. Mũi trưởng Mũi 2 là anh Cao Hồng Nhụy. Mũi trưởng Mũi 3 là anh Trần Viết Xuân. Mũi trưởng Mũi 4 là anh Lê Văn Rật. Mũi trưởng Mũi 5  anh Bùi Công Tiếp. Mũi trưởng Mũi 6 là anh Lê Văn Khoa.

 Sau một tháng thục luyện, cuối tháng 12, Trung đoàn giao cho Đại đội Đặc công tổ chức diễn tập dưới sự giám sát của Thủ trưởng và cơ quan Trung đoàn. Mục tiêu là đánh vào “một căn cứ của địch” có hàng rào thép gai, công sự vững chắc. Để đảm bảo sát với thực tế chiến đấu, Trung đoàn cho Đại đội Trinh sát làm quân xanh, bố trí mìn sáng và canh gác rất nghiêm ngặt. Trong chiến đấu đặc công, việc tiềm nhập qua các chướng ngại vật (bãi mìn, hàng rào,…) tiếp cận vào sát mục tiêu là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định sự thành bại của trận đánh. Nếu tiếp cận mục tiêu mà bị lộ thì phải cường tập. Đó chỉ là giải pháp tình thế, bất đắc dĩ, vì tỷ lệ thương vong sẽ rất cao. Trong diễn tập, khi tiềm nhập nếu bị lộ thì phải thực hành cường tập. Trường hợp này coi như hoàn thành nhiệm vụ ở mức thấp. Theo sự phân công trong Ban chỉ huy Đại đội, tôi đi với Mũi 1 đánh vào hướng chủ yếu. Lệnh nổ súng là tiếng nổ của  khối bộc phá đánh vào chỉ huy sở của “địch”. Theo thuật ngữ quân sự gọi là “bộc phá lệnh”. Khi đã tiềm nhập vượt qua các hàng rào, các vọng gác, chúng tôi tiếp cận vào mục tiêu chủ yếu, mà “ quân địch “ vẫn không phát hiện được.

Tôi nhìn đồng hồ vừa đúng thời gian nổ súng theo hiệp đồng. Anh Ba mũi trưởng đưa tay ám hiệu với tôi cho bắt đầu đánh, tôi gật đầu. Cậu Sức lao lên đặt bộc phá vào hầm chỉ huy của  “địch”, giật nụ xòe. Một quầng lửa rực trời, kèm theo một tiếng nổ rất to. Sức ép của quả bộc phá hất chúng tôi dạt xuống. Tiếp đó, định thần lại rất nhanh, từng cá nhân theo sự phân công trước trên sa bàn, tiến đánh “tiêu diệt” các mục tiêu. Ở các mũi khác đều thực hành suôn sẻ. Kết thúc diễn tập, lúc rút kinh nghiệm, tôi hỏi anh Ba mũi tưởng, tại sao bộc phá lệnh nổ to thế. Anh Ba nói rằng, khi gói bộc phá lệnh anh em đã tự ý tăng khối lượng bộc phá lên để nổ thật to, thật oách. Chúng tôi cùng cười.

 Có lần tập võ thuật, tôi và anh Trương Anh Dung thực hành bài đánh dao găm đối kháng bằng dao thật. Đến động tác tôi quật ngửa anh Dung, ngồi lên ngực, hai đầu gối ghì chặt hai tay anh, dùng hai tay đâm bổ thượng từ trên xuống để “ tiêu diệt”. Theo bài tập trong trường hợp này, anh Dung chỉ cần cùng một lúc gồng bụng lên hất mạnh, giật hai tay ra đưa lên trên luồn vào giữa hai cánh tay tôi thì không bao giờ dao đâm thấu người anh. Thế nhưng, không hiểu tại sao, tay anh Dung đưa lên quá chậm và mũi dao găm của tôi đâm vào giữa trán anh. Không sâu xuống phần xương nhưng thủng da chảy máu. Cũng may tôi đâm nhẹ. Thật hú vía. Tôi biết trước đây có lần trinh sát Tiểu đoàn 929 khi tập võ thuật có trường hợp bị đánh chết chỉ vì không kịp đỡ một quả đấm của bạn tập.

Thời kỳ huấn luyện ở Mai Thủy, có một lần anh Trần Minh Dần, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 28 đóng quân ở xã Mỹ Thủy đến thăm tôi . Anh là người cùng xã, là anh ruột của anh Hợi cùng nhập ngũ với tôi một ngày. Chúng tôi đã từng biết nhau từ hồi chiến đấu ở Lào và Đường 9. Anh tuổi Mậu Dần, sinh năm 1938, hơn tôi 10 tuổi. Tôi nghe anh kể, mẹ tôi lúc còn làm cán bộ phụ nữ xã, có đến dự đám cưới anh, vui lắm. Là người chiến đấu rất dũng cảm và sống rất nhân nghĩa nên đi đến đâu, anh Dần cũng được mọi người kính trọng, quí mến. Anh thường quan tâm và động viên tôi trong chiến đấu và công tác. Tôi coi anh như người anh ruột. Hai anh em chơi với nhau được một buổi rồi anh về đơn vị . Không ngờ đó là lần cuối cùng, tôi vĩnh viễn xa anh. Năm 1969, đơn vị anh hành quân vào Tây Nguyên. Tháng 4 năm 1972, đang làm Trung đoàn phó Trung đoàn 28, anh Dần được điều sang làm Trung đoàn phó  Trung đoàn 66 chiến đấu ở Đắc Tô – Tân Cảnh, bị bom Mỹ đánh trúng Sở chỉ huy tiền phương, anh hy sinh. Trước đó, anh Hợi, em ruột anh cũng đã hy sinh ở tận Nam Bộ. Sau này về quê, tôi mấy lần đến thắp hương ở Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ của xã nhà. Danh sách liệt sĩ hy sinh trong các thời kỳ chiến tranh được khắc vào tấm bia lớn bằng đá xanh, khá to. Bảng danh sách nối dài hàng trăm người. Đọc hết một lượt, tôi bồi hồi xúc động. Mỗi dòng tên một cuộc đời. Họ hy sinh khi đang độ tuổi thanh xuân. Các anh đã tô thắm truyền thống quê hương. Góp phần rất xứng đáng vào thành tích xuất sắc của xã Anh hùng trong thời kỳ chống Mỹ. Dừng lại dòng tên Trần Minh Dần, hình ảnh chất phác, kính quí, ánh mắt và nụ cười thân thương của anh hiện về trong tâm trí tôi với bao kỷ niệm ngậm ngùi.

Thời kỳ ở Lệ Thủy, Quảng Bình, Sư đoàn 324 được thành lập. Thực ra, Sư đoàn 324  thành lập từ trong kháng chiến chống Pháp. Còn đây là  Sư đoàn 324 thứ bao nhiêu rồi. Trong kháng chiến chống Mỹ, một Sư đoàn có thể “nở” thành nhiều Sư đoàn  theo sự phát triển của quân đội  trước yêu cầu của chiến tranh. Chúng tôi được biết, ban đầu lúc mới thành lập, Sư đoàn lấy phiên hiệu là Sư đoàn 169- thành lập tháng giêng năm sáu chín. Sau một thời gian ngắn đổi lại tên là Sư đoàn 324. Tư lệnh Sư đoàn là anh Chu Phương Đới. Chính ủy Sư đoàn là anh Nguyễn Công Trang. Sư đoàn phó là anh Mai Hiền, Phó Chính ủy Sư đoàn là anh Trần Văn Ân. Anh Thái Cán làm Tham mưu trưởng Sư đoàn. Anh Bùi Phan Kỳ làm Chủ nhiệm chính trị.

 Sau Tết Nguyên Đán Kỷ Dậu, đơn vị chúng tôi rời Lệ Thủy hành quân đi chiến đấu. Lần này lại trở lại chiến trường Thừa Thiên-Huế.

 Quảng Trị và Thừa Thiên là hai tỉnh đất không rộng, người không đông. Nếu tính từ sông Bến Hải giới tuyến quân sự tạm thời đến Đèo Hải Vân thì địa hình rất dài. Nhưng bề ngang từ biên giới Việt-Lào trên dãy Trường Sơn ra đến Biển Đông thì rất hẹp. Có nơi chỉ khoảng 40 cây số. Đất đã hẹp rừng núi lại nhiều, nhưng nơi đây là vùng tiếp giáp với Miền Bắc, là nơi đối đầu, đọ sức của hai bên,  nên cuộc chiến tranh diễn ra vô cùng khốc liệt. Một dải đất hẹp, với số dân mấy chục vạn người, vậy mà trong kháng chiến chống Mỹ, ở Trị - Thiên hình thành hai quân khu. Chiến trường  phía bắc Quảng Trị tính từ Đường 9 trở ra do Mặt trận B5  đảm nhiệm. Từ phía nam tỉnh Quảng Trị, tính từ Đường 9 trở vào đến đèo Hải Vân do Quân khu Trị Thiên - Huế (B4) đảm nhiệm. Thực ra, từ trước năm 1966, Trị Thiên Huế còn là Phân khu Bắc thuộc Quân khu 5. Sau đó lực lượng phát triển lên thành Quân khu Trị Thiên - Huế tách khỏi Quân khu 5.

Khi vượt qua Đường số 9 được mấy ngày, vừa mới đến Trạm 19 ở động A Vương trên đường vào A Bia, A Sầu thì địch đổ quân ở động Cô Ác phía trước.Trung đoàn giao cho Đại đội Đặc công cùng với Đại đội 7 Tiểu đoàn 8 tiến hành trinh sát  nắm địch, chuẩn bị tập kích vào quân địch ở Cô Ác.

Cô Ác là một cứ điểm dã chiến của quân Mỹ ở tây Thừa Thiên. Là một dãy đồi mà Mỹ đã dùng máy bay ném bom phát quang và bom na-pan đốt cháy đen, trọc lóc. Lực lượng đi trinh sát gồm có anh Hào đại đội trưởng, tôi, các mũi trưởng và một tổ trinh sát. Đại đội 7 có anh Thỉ đại đội tưởng , anh Phan Đân Chính trị viên cùng ba  Trung đội trưởng.

Đến vị trí tập kết, chúng tôi chia ra thành mấy bộ phận để đi trinh sát ở mấy hướng. Tôi cùng đi với anh Đân, anh Thịnh trung đội trưởng Đại đội 7cùng một chiến sĩ liên lạc. Trước khi tiếp cận vào mục tiêu, chúng tôi chọn một ngọn đồi đối diện cách cứ điểm Cô Ác khoảng 1.000 mét để đặt đài quan sát. Tìm được một vị trí thích hợp, giao cho anh Thịnh và một chiến sĩ liên lạc làm nhiệm vụ cảnh giới ở dưới, tôi và anh Đân trèo lên một cây cao để quan sát. Khi dứng trên ngọn cây cao, hai anh em nhìn vào cứ điểm Cô Ác rõ lắm. Vòng ngoài là hai lớp rào kẽm gai cánh bướm. Phía trong là những dãy nhà bán âm, căng dù lên trên. Sở chỉ huy ở trung tâm, cạnh đó là đài thông tin vì có cột ăng ten cao. Cách Sở chỉ huy khoảng 200 mét là trận địa pháo 4 khẩu. Chốc chốc lại bắn về phía xa. Mỗi khi pháo bắn, chúng tôi nhìn rõ cả khói và nghe tiếng nổ đầu nòng (đề-pa) rất to. Trong trận địa thấy lố nhố quân lính đi lại. Có lần liếc xuống dưới đất, tôi thấy anh Thịnh trung đội trưởng đang ngồi trải tấm bản đồ đặt địa bàn trên đó, hình như đang xác định tọa độ khu vực.

Tôi và anh Đân vừa quan sát vừa trao đổi về phương án phối hợp tác chiến giữa đặc công với bộ binh, thì bất thần mấy loạt tiểu liên bắn rất đanh ở ngay dưới gốc cây. Lúc đầu tôi nghĩ là súng anh Thịnh cướp cò. Ép mình vào cành cây to, khi tiếng súng đã im, tôi nhìn xuống thì anh Thịnh đã hy sinh nằm gục trên tấm bản đồ, mấy tên thám báo Mỹ đang bu quanh xì xồ, lục lọi. Anh Đân và tôi nói nhỏ với nhau, nếu cứ ở trên này thì khi nó ngước nhìn lên sẽ bắn xiên táo cả hai anh em. Chúng tôi quyết định thả lựu đạn xuống trước, rồi lao xuống thoát ra ngoài. Tức thì, 4 quả lựu đạn mỏ vịt cùng thả xuống một lúc. Lựu đạn nổ rất đanh, mảnh bay rào rào. Bị bất ngờ, bọn thám báo không kịp đối phó. Chúng tôi bám cành cây tụt  rất nhanh xuống đất. Khi cách mặt đất gần 5m, chúng tôi nhảy đại, liếc nhanh tôi thấy mấy tên thám báo Mỹ chết gục cạnh gốc cây. Anh Đân và tôi mỗi người một khẩu súng ngắn bắn đại mấy viên có tính chất uy hiếp, rồi chạy một mạch về khu vực tập kết.

Anh Phan Đân sinh năm 1936 cùng là tuổi Tý, hơn tôi một giáp. Quê anh ở làng Võ Xá, xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Kết thúc chiến tranh chống Mỹ, anh làm Chính ủy Trung đoàn; sau đó được bổ nhiệm Phó Sư đoàn trưởng  Chính trị Sư đoàn 324. Anh nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Bây giờ anh đã có chắt nội. Mấy lần gặp nhau ở Hà Nội, hai anh em xúc động kể lại chuyện xưa.

Ngày hôm sau, để nắm chắc địa hình và địch tình toàn bộ khu vực, chúng tôi tổ chức một bộ phận đi trinh sát một vòng tròn xung quanh cứ điểm động Cô Ác. Đồng thời, tiến hành tiềm nhập vào phía sau cứ diểm của địch. Thành phần trinh sát có tôi, anh Xuân mũi trưởng mũi 2, anh Hội trợ lý trinh sát Trung đoàn và một tổ trinh sát ba người do anh Dực làm tổ trưởng. Đề phòng thám báo tuần tra xung quanh cứ điểm, từ vị trí tập kết,chúng tôi cắt góc phương vị đi vòng ngoài khá xa. Xuất phát từ sáng sớm đến tối mịt chúng tôi dừng lại chọn hướng tiếp cận vào cứ điểm của địch. Ăn tối bằng lương khô xong, uống no nước suối, chúng tôi chia làm hai tổ đi tiềm nhập. Tổ một có tôi và anh Xuân và một chiến sĩ trinh sát. Tổ hai có anh Hội, anh Dự và hai chiến sĩ trinh sát. Mục tiêu được phân công là Sở chỉ huy và trận địa pháo của địch. Hẹn nhau cố gắng trinh sát xong trong đêm, rạng sáng mai sẽ hợp nhau về điểm xuất phát.

Đúng 9 giờ tối, ba anh em chúng tôi bắt đầu tiềm nhập. Phương pháp tiềm nhập là, qua từng đoạn một, giao cho chiến sĩ trinh sát làm nhiệm vụ cảnh giới, tôi và anh Xuân lần lượt chui qua bãi cây đổ ở vòng ngoài rồi qua lớp hàng rào kẽm gai lò xo. Đến 2 giờ sáng, chúng tôi  tiềm nhập vào được trận địa pháo của địch. Nhìn chếch lên phía trên là hầm thông tin và sở chỉ huy. Đối chiếu giữa thực địa và nhìn thấy từ ban ngày không khác bao nhiêu. Chúng tôi lần lượt quay ra theo đường cũ. Đến hơn 4 giờ sáng về tới nơi xuất phát. Trời mưa to, quần áo ướt sũng, nhưng chúng tôi mừng vì trời mưa sẽ xóa sạch các dấu vết tiềm nhập. Chúng tôi chờ khoảng 30 phút thì bộ phận anh Hội cũng về tới. Bên đó các anh cũng vào được gần sát sở chỉ huy.

Đề phòng gặp địch sẽ lộ hết bí mật, lần về chúng tôi lùi ra xa hơn và cắt đường về khu tập kết.  Nào ngờ, do xác định góc phương vị không chuẩn, đã vòng đi quá xa. Đi mãi hai ngày, lương khô mang theo đã hết, nhưng mở bản đồ xác định tọa độ vẫn cách vị trí tập kết khá xa. Bụng đói meo, chân chồn, gối mỏi, tôi cảm thấy bắt đầu hoa mắt. Dừng lại bên một con suối cạn, mấy anh em lần bắt được hơn chục  con cua đá, cứ thế xé ra ăn sống, ngon lắm, tỉnh ra, lại đi tiếp.

Đến trưa ngày thứ tư, chúng tôi về đến nơi tập kết. Anh Hào Đại đội trưởng mừng rỡ ôm lấy tôi. Anh nói:

- Trời ơi, mấy hôm nay bọn mình nghĩ rằng các cậu đã rơi vào ổ phục kích và đã hy sinh hết cả rồi.

Tôi lả đi, chẳng nói gì, nhìn thấy mấy vắt cơm rất thèm, chực ăn. Thấy thế, cậu Long y tá nói:

- Thủ trưởng không được ăn nhiều cơm ngay, vì sợ bội thực mà chết.

Nói rồi, cậu ta bẻ nắm cơm ra cho chúng tôi ăn một ít, còn lại đem nấu cháo. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ cảm thấy ăn cơm không mà ngon đến vậy. Ăn đến đâu biết đến đó và sức khỏe hồi phục dần. Mắt sáng ra, chân tay đỡ bủn rủn.

Ngày hôm sau chúng tôi trở về đơn vị, khớp lại thông tin kết quả trinh sát,  đắp sa bàn tổ chức hội nghị quân nhân, thông qua chi ủy và báo cáo cấp trên thông qua phương án chiến đấu. Phương án tác chiến là, dùng đại đội đặc công tập kích vào hai hưởng:  chỉ huy sở, trận địa pháo và đại đội bộ binh của địch. Đại đội 7 Tiểu đoàn 8 làm thê đội 2, sẵn sàng tiếp sức cho đại đội đặc công khi gặp khó khăn. Trong trường hợp đại đội đặc công đánh thắng giòn giã, thì Đại đội 7 sẽ tiếp quản trận địa do đại đội đặc công bàn giao lại.

5 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1969,  chúng tôi đã có mặt ở khu tập kết, kiểm tra lại toàn bộ công tác chuẩn bị. 8 giờ tối, các mũi bắt đầu tiếp cận để tiềm nhập mục tiêu. Thời gian nổ súng là 12 giờ đêm.

Tôi cùng đi với mũi 3 do anh Xuân làm mũi trưởng, anh Việt làm mũi phó. Muc tiêu được giao cho mũi 3 là đánh vào trận địa pháo và phát triển sang sở chỉ huy. Khi  cả mũi đã luồn  hết qua hàng rào kẽm gai, nhìn đồng hồ mới  hơn 11 giờ. Sợ vào sớm quá mà bị lộ thì gây khó khăn cho các mũi khác, tôi nói anh Xuân cho dừng lại. Dừng tại chỗ độ 10 phút, chúng tôi bò tiếp về phía trước, trời tối om, không một tiếng động, bốn bề lặng lẽ. Khi đã sát vào tới trận địa pháo, chúng tôi mới phát hiện ra không có một tên địch nào cả. Các dấu hiệu còn lại cho thấy khả năng chúng đã rút từ lúc chiều. Chiều nay khi có nhiều lượt trực thăng H34 đỗ xuống cứ điểm động Cô Ác, ở đài quan sát trinh sát lại nhận định là chúng đổ quân tăng cường, nào ngờ là rút quân. Lúc này đề phòng hai tình huống dễ xảy ra là: Hoặc là, bộ đội ta ở các hướng khác trong đêm không nhận ra nhau, tưởng là địch, sẽ bắn nhầm.  Hai là, địch biết ta đã vào trong cứ điểm, chúng dùng pháo bắn cấp tập. Thực tế ở chiến trường đã diễn ra một số trường hợp như vậy. Tôi điện đề nghị anh Hào cho các mũi rút ra ngay, theo đường cũ.

Trong chiến đấu, việc nắm chắc địch tình, địa hình và làm tốt các khâu chuẩn bị coi như thắng lợi được một nửa. Suốt mấy ngày trinh sát nắm địch, chuẩn bị chiến đấu, thu được những kết quả rất tốt, anh em mong muốn được ra quân đánh thắng trận đầu. Nhưng khi tiếp cận, chuẩn bị nổ súng thì không còn một mống địch, anh em trong đơn vị chưng hửng. Chúng tôi trở về khu tập kết tiếp nhận lại đồ đạc và hành quân tiếp về phía Nam. Sau mấy ngày hành quân, chúng tôi về đóng ở vùng A - Lê - Thiêm, A – Lê - Lốc sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.

 Nhiệm vụ của Trung đoàn 3 Sư đoàn 324 lúc đó là  dùng Tiểu đoàn 8  chốt chặn đánh địch ở dãy núi ABia. Sau đó dùng lực lượng Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 tấn công vào quân địch ở thung lũng A Sầu phía tây dãy điểm cao A Bia, sát biên giới Việt – Lào, cách Huế khoảng 50 km về phía tây nam.

Đầu tháng 5 năm 1969, Tiểu đoàn 8 dưới sự chỉ huy của anh Nguyễn Văn Ninh Tiểu đoàn trưởng và anh Lê Ngọc Mai Chính trị viên tiểu đoàn, bằng công sự trận địa đã bố trí sẵn, trong điều kiện phi pháo rất ác liệt, đã liên tục giữ vững trận địa trong nhiều ngày, kiên cường dũng cảm đánh bật hàng chục đợt tấn công của quân Mỹ. Đại đội 6 là lực lượng chủ công của Tiểu đoàn 8 do anh Cao Thanh Giáo Đại đội trưởng và anh Lê Văn Thi Chính trị viên đã lập công xuất sắc.

Ngày 12 và ngày 13 tháng 5 năm 1969, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn 3, Tiểu đoàn 7 do anh Tăng Văn Miêu Tiểu đoàn trưởng và anh Trần Triền Chính trị viên Tiểu đoàn chỉ huy, cùng Tiểu đoàn 9 do anh Võ Vượng Tiểu đoàn trưởng và anh Hồ Chư Chính trị viên Tiểu đoàn chỉ huy tấn công vào một đơn vị của Sư đoàn không vận số 101 Mỹ ở thung lũng A Sầu, phía tây cao điểm A Bia. Ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 300 tên Mỹ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân ứng cứu. Lúc bấy giờ, quân Mỹ kinh hoàng gọi A Bia là đồi thịt băm (Hămbagiơ).

Sau Mậu thân, địch tăng cường càn quét bình định, gây không ít khó khăn cho cách mạng ở vùng đô thị, đồng bằng, kể cả vùng giáp ranh trên các chiến trường. Chiến thắng A Bia góp phần giữ vững hành lang chiến lược, thúc đẩy phong trào đánh dịch ở đồng bằng Thừa Thiên.

Phát huy chiến thắng của trận ABia, ngày 4 tháng 6 năm 1969 Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 3 đặc công của Quân khu được tăng cường Đại đội 20 đặc công của Trung đoàn 3, tiến hành trinh sát, nghiên cứu quân địch trong cứ điểm 817-Ta Tách và cứ diểm Ba Đu, Tà Bạt. Sau khi được anh Ma Vĩnh Lan trung đoàn trưởng và anh Kiều Tam Nguyên chính ủy trung đoàn giao nhiệm vụ, anh Nguyễn Duy Hào đại đội trưởng cùng tôi đến gặp anh Trần Duy Thị tiểu đoàn trưởng và anh Lê Văn Doãn chính trị viên Tiểu đoàn 3 để nhận nhiệm vụ cụ thể.

Tiểu đoàn 3 là đơn vị đặc công của Bộ được huấn luyện rất cơ bản, được điều vào Quân khu Trị Thiên. Mới vào chiến trường mấy tháng nhưng Tiểu đoàn 3 đã đánh thắng giòn giã trận Cô-Ca-Va, tiêu diệt một cứ điểm của quân Mỹ ở tây Thừa Thiên. Trận Cô-Ca-Va là một trận thắng có ý nghĩa lớn cả về quân sự và chính trị. Mở đầu cho một năm chiến đấu trong thời kỳ mới. Chấm dứt thời kỳ khó khăn sau Mậu Thân. Ngày đó, được chiến đấu trong đội hình của tiểu doàn 3, chúng tôi tin tưởng lắm. Tiểu đoàn trưởng là anh Trần Duy Thị, quê ở Cẩm Hòa, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. (Sau này, anh Thị là Đại tá, Phó Tư lệnh Binh chủng Đặc công). Chính trị viên tiểu đoàn là anh Lê Văn Doãn, quê ở Thanh Hóa. Trong số cán bộ của Tiểu đoàn 3 ngày đó, có anh Lê Văn Hân là chính trị viên Đại đội 3. Mấy chục năm sau, anh Lê Văn Hân là Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Nhiệm vụ của đại đội chúng tôi là chia làm hai bộ phận: Lực lượng chính của đại đội tham gia cùng Tiểu đoàn 3 do anh Thị tiểu đoàn trưởng chi huy đánh Ta Tách. Cử một mũi -mũi 3- do anh Trần Văn Thành làm mũi trưởng- tham gia với  Đại đội 1 của Tiểu đoàn 3, do anh Vân tiểu đoàn phó chỉ huy đánh vào  Ba Đu, Tà Bạt.

Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Đoàn cán bộ đi trinh sát nghiên cứu địch ở Ta Tách lên đường do anh Thị và anh Doãn dẫn đầu. Anh Hào và tôi cùng năm anh mũi trưởng, ba chiến sĩ trinh sát tham gia đoàn. Chúng tôi vượt qua khu vực Kho 61 ở A Lưới, vượt qua thung lũng A Sầu,  cắt đường ô tô đi sâu vào phía động Ta Tách. Khi đến một khu rừng cách cao điểm Ta Tách chừng 5 km, có một con suối nhỏ, hai bên bờ có nhiều cây to, anh Thị cho đoàn dừng lại và chọn làm nơi tập kết.

 Buổi chiều hôm đó, trên đường đi, cánh trinh sát bắt được một con rùa, cả bộ phận chúng tôi chặt cây bông báng lấy lõi nấu với thịt rùa ăn rất ngon. Đang ăn, tôi chợt nghĩ, dân gian vẫn có câu:” gặp rắn thì đi, gặp qui trở lạị”. Gặp rùa mà lại ăn cả thịt rùa thế này, chắc là báo hiệu điềm không may sẽ xảy ra. Nghĩ vậy, nhưng tôi không dám nói ra. Bởi lẽ, với tư cách là cán bộ chủ trì về chính trị lúc đó, tôi sợ anh em đánh giá mình mê tín dị đoan, gieo rắc sự lo lắng, hoang mang ngay từ đầu cho mọi người. Khi thực hiện những công việc hệ trọng mà lại nguy hiểm nữa, thì trạng thái tâm lý cần được thoải mải, thanh thản, tự tin, tuyệt đối không ám ảnh, lởn vởn, vướng víu vào những điều  không cần thiết.

 Tối hôm đó, ngủ lại bên bờ suối, mở đài bán dẫn, tôi nghe tin thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam do ông Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch. Chính phủ lâm thời là với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch là nòng cốt cùng với Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch lập ra. Đây là một sự kiện chính trị, đánh dấu bước phát triển mới trong phong trào Cách mạng ở Miền Nam. Là những người lính cầm súng chiến đấu trên chiến trường khi nghe tin này chúng tôi rất phấn khởi.

Theo thông báo của trên, tại Cao điểm 817 - Ta Tách lực lượng địch có một tiểu đoàn quân Mỹ thuộc Lữ đoàn 47 thủy quân lục chiến. Đây là một căn cứ được bố trí vững chắc. Ở ngoài cùng là hàng rào bằng cây đổ, tiếp đến là 3 hàng rào thép gai. Trong trận địa có hệ thống liên hoàn chiến hào, giao thông hào, ụ súng, lô cốt.

Trên cơ sở phân công trước, Đại đội 20 chúng tôi được giao nhiệm vụ tổ chức 3 mũi đánh vào mỏm B nơi địch bố trí trận địa pháo và một đại đội thủy quân lục chiến. Anh Hào và tôi thống nhất chia làm 3 tổ đi trinh sát ở 3 hướng. Hướng một do anh Hào đại đội trưởng phụ trách cùng với anh Ba mũi trưởng Mũi 1 tiếp cận vào phía Nam. Hướng hai do tôi phụ trách cùng với anh Ngãi mũi phó Mũi 4 (mũi trưởng Mũi 4 là anh Cao Hồng Nhụy bị ốm, anh Ngãi đi thay) tiếp cận vào phía Đông. Hướng ba do anh Xuân mũi trưởng Mũi 2 tiếp cận vào hướng Tây. Tổ trinh sát hướng đông gồm có tôi, anh Ngãi và cậu Phết - chiến sỹ trinh sát. Từ  trưa, xuất phát từ vị trí tập kết, chúng tôi cắt góc phương vị đi về phía đông. Đến 3 giờ chiều gặp một hang đá kiểu hàm ếch ở chân cao điểm 817, cách địch khoảng 2 km, chúng tôi chọn làm vị trí dừng chân. Từng người một thay nhau cảnh giới ở cửa hang, chúng tôi tranh thủ chợp mắt để tối đi tiềm nhập. Mục tiêu tiềm nhập là phải nắm được hệ thống chướng ngại vật, hệ thống công sự trận địa bố phòng và trận địa pháo của địch. Đến 6 giờ tối, sau khi ăn lương khô xong, bỏ lại các thứ lặt vặt, chúng tôi bắt đầu tiềm nhập vào đồn địch. Ngãi và Phết mang mỗi người một khẩu AK báng gấp, hai quả lựu đạn ,dao găm. Tôi mang một khẩu súng ngắn, hai quả lựu đạn, dao găm và một cái địa bàn. Từ ngoài, chúng tôi thực hành tiếp cận kiểu sâu đo. Nghĩa là, lần lượt từng người tiếp cận lên phía trước rồi dừng lại lợi dụng địa hình địa vật cảnh giới cho người sau tiến lên. Người sau lại tiến sâu hơn nữa rồi lại làm nhiệm vụ cảnh giới. Cứ thế, đến 7 giờ tối chúng tôi đến chân hàng rào đầu tiên. Bố trí cậu Phết trinh sát cảnh giới ở mép rào, tôi và Ngãi bắt đầu động tác dùng tay dò mìn, chống rào, rồi lại dùng tay do mìn  trong hàng rào để chui qua.

 Sau khi tôi và Ngãi đã qua được rào, làm nhiệm vụ cảnh giới cho Phết chui qua. Giữa hàng rào ngoài cùng với hàng rào thứ hai là một bãi trống với chiều sâu chừng 70 mét, trừ đường tuần tra, còn lại địch cài nhiều mìn sát thương và mìn chiếu sáng các loại. Ba anh em chúng tôi phải vừa dò gỡ mìn vừa trườn lên phía trước. Cứ thế mất gần một tiếng đồng hồ chúng tôi mới tới được hàng rào thứ hai. Cách tiếp cận giống như khi qua hàng rào thứ nhất. Nhưng khi mới đưa mình ra khỏi hàng rào, tôi nghe thấy trong đồn địch rú lên một hồi còi, tiếp đó là các loại súng của địch thi nhau bắn ra ngoài đạn bay chiu chít, có cả những viên đạn vạch đường đỏ lừ.

Ba anh em nằm sát mặt đất chỉ ghé mắt nhìn, nên không việc gì. Sự việc này chúng tôi đã lường trước. Theo qui luật, hàng đêm địch vẫn bắn súng báo động. Khi đi trinh sát, kể cả lúc tiềm nhập vào đánh, nếu không bình tĩnh, tưởng bị lộ mà phản ứng là rất nguy hiểm. Chừng 2 phút sau, tiếng súng im bặt, bốn bề lại vắng lặng. Khi chui qua hàng rào thứ 3, nhìn đồng hồ đã 2 giờ sáng, tôi ra hiệu cho Ngãi và Phết quay ra theo đường cũ. Khi ra, người bò sau cùng phải xóa hết dấu vết. Đến 5 giờ sáng, chúng tôi về đến hang đá. Tôi bàn với Ngãi và Phết là sẽ tiềm nhập tiếp đêm mai nữa mới có thể hoàn thành nhiệm vụ trinh sát, mục tiêu cuối cùng là phải vào tận trận địa pháo.

Hôm sau, anh em chúng tôi thay nhau ngủ ban ngày đến 6 giò tối lại đi tiềm nhập căn cứ địch. Đêm thứ hai vì đã biết trước, tốc độ tiềm nhập nhanh hơn. Đến 1 giờ sáng, chúng tôi vào được tận trận địa pháo, đặt được tay lên càng pháo, đếm được 4 khẩu rồi mới quay ra. Đêm thứ hai đi trinh sát, có hai điều mà sau này tôi vẫn kể cho anh em trong đơn vị nghe và suốt đời tôi không bao giờ quên. Đó là, khi mới rời trận địa pháo quay ra, để căn giờ, tôi nhìn đồng hồ nhưng trời tối đen không thấy gì ( hồi đó chúng tôi đang dùng đồng hồ Pôlzot của Liên Xô, không có dạ quang). Tôi lo trời sáng mà không ra kịp thì nguy. Chợt thấy một đốm lửa nhỏ gần đó thỉnh thoảng lại sáng hơn một ít, tôi nghĩ đó là một thân cây cháy dở, ở trên cao chốc chốc gió thổi làm sáng lên. Tôi vừa trườn vừa bò lại gần hơn để xem giờ. Nhưng khi lại gần sát thì thấy cây đen đó động đậy, tôi hú vía. Té ra đó là một thằng lính Mỹ da đen đứng gác, đang hút điếu thuốc lá xì gà loại to bằng ngón tay cái. Mỗi lần nó rít vào thì điếu thuốc đỏ rực lên. Tôi nhẹ nhàng quay lui.

 Khi ra đến hàng rào cuối cùng, thứ tự chui ra là, cậu Phết ra trước làm nhiệm vụ cảnh giới, tôi ra thứ hai, anh Ngãi ra sau cùng. Khi đã ra ngoài hàng rào, nhìn về phía đông trời đã gần hửng sáng, tôi ngoái lại thấy anh Ngãi đang nằm giữa hàng rào, trong tư thế quay đầu vào phía địch tay lăm lăm khẩu súng và cho chân ra trước. Đã cho chân ra trước thì tốc độ chậm lắm, hết vướng cái nọ sang vướng cái kia. Tôi phải gỡ cho anh Ngãi từng tý một.

Xưa nay, mọi việc ở đời người ta đã khái quát đầu có xuôi đuôi mới lọt, có lẽ xuất phát từ một một động tác cụ thể này đây. Thời gian càng trôi đi, trời sắp sáng đến nơi rồi mà anh Ngãi vẫn loay hoay trong hàng rào, tôi sốt ruột lo lắng vô cùng. Sợ nguy hiểm cho cả tổ một phần, nhưng đáng lo hơn là làm lộ, làm lỡ kế hoạch chung của toàn tiểu đoàn, nói rộng ra là toàn Mặt trận. Khi đã ra đến vị trí an toàn hơn, tôi nổi cáu hỏi Ngãi:

- Trời sắp sáng rồi. Ông điên hay sao mà lại chui ngược thế ?

          Ngãi phân trần :

           - Anh không hiểu. Khi Phết và anh ra thì tôi làm nhiệm vụ cảnh giới. Các anh ra cả rồi, mỗi mình tôi ra sau phải quay lại tự cảnh giới cho mình và còn phải xóa dấu vết nữa chứ. Nhỡ đang chui rào mà có một tốp lính địch đi tuần phát hiện được thì sao? Nó đến lôi mình ra như lôi con cá mắc lưới ấy chứ!

 Nghe anh Ngãi nói, thấy có lý, chúng tôi cùng cười. Sau này về hậu cứ huấn luyện, tôi vẫn hay đùa với anh em trong đơn vị là khi đi trinh sát cần phải học thêm khoản chui rào ngược, đặt tên là chui rào kiểu ông Ngãi.

Sau ba ngày đi trinh sát, chúng tôi quay về khu vực tập kết để báo cáo. Nhìn thấy anh Lộc đại đội trưởng Đại đội 2 quấn khăn trắng ngang đầu, tôi hỏi vì sao. Anh Lộc trả lời khi nó bắn súng báo động, anh ấy cố nghển đầu lên nhìn để định vị các hỏa điểm, không may dính một viên xẹt qua đầu, may chỉ là phần mềm.

Tôi hội ý với anh Hào trước khi báo cáo Tiểu đoàn. Kết quả hướng một tiếp cận ở phía nam, hướng 2 tiếp cận ở phía đông đạt kết quả tốt. Riêng hướng tây, tổ trinh sát của anh Xuân mới vào được hàng rào thứ hai, chưa vào được tận trong cùng trận địa. Vì vậy, khi nghe báo cáo, anh Thị tiểu đoàn trưởng đã yêu cầu cần trinh sát thêm. Anh Hào phân công tôi cùng đi lại hướng tây với anh Xuân một lần nữa mới bảo đảm chắc chắn. Thế là tôi, anh Xuân mũi trưởng mũi 2 và hai trinh sát lại lên đường.

Trong chiến đấu đặc công, việc vào cứ điểm địch để trinh sát (điều nghiên) chẳng khác một trận đánh, nhiều lúc còn căng thẳng hơn. Trong chiến đấu còn có lực lượng và hỏa lực trong tay để tiêu diệt địch. Còn đi trinh sát vào trong đồn địch chỉ có ba, bốn anh em, vũ khí gọn nhẹ, chủ yếu là để tự vệ lúc cần thiết. Và mỗi trận đánh, để đảm bảo chắc thắng, có khi phải vào căn cứ trinh sát nhiều lần. Trong điều kiện địch bố phòng bằng nhiều lớp hàng rào, nhiều bãi mìn các loại, nhiều vọng gác, nhiều lần tuần tra, việc một tổ trinh sát vào tận trung tâm địch, đòi hỏi phải có quyết tâm cao, dũng cảm và mưu trí.

Tối hôm thứ nhất, sau khi đã qua được hai hàng rào, đến hàng rào thứ ba, giao cho trinh sát cảnh giới, tôi và anh Xuân luồn qua, mới đến giữa hàng rào thì bất ngờ có một tốp lính đi tuần, chúng tôi nằm bất động chờ chúng đi qua để trườn tiếp. Nằm được mấy phút, không hiểu sao, tôi buồn ngủ đến lạ lùng và thiếp đi. Đến khi anh Xuân dùng tay cấu nhẹ, tôi mới giật mình tỉnh giấc, suýt nữa thì bật nên lời. Trong chiến đấu, tôi thường có tật rất buồn ngủ trong 3 trường hợp: Khi ngồi trong hầm nghe pháo bắn cầm canh; khi ngồi phục kích địch; và khi tiềm nhập vào đồn địch. Nói ra có người không tin, nhưng đó là sự thật. Chẳng phải tôi bình tĩnh đến mức đó đâu. Theo tôi, có thể do căng thẳng quá, thần kinh tôi không chịu nổi, đã chùng xuống quá ngưỡng, gây buồn ngủ.

Đêm đó chúng tôi vào được trung tâm trận địa địch rồi quay ra an toàn.

Sau khi trinh sát xong, cả đoàn cán bộ quay về hậu cứ ở A-Lê-Thiêm báo cáo  cấp trên và làm các công tác chuẩn bị. Hôm thông qua kế hoạch tác chiến trên sa bàn do anh Chu Phương Đới, Tư lệnh sư đoàn chủ trì. Tham dự còn có anh Thái Cán, Tham mưu trưởng Sư đoàn và cán bộ các cơ quan Quân khu, Sư đoàn, Trung đoàn. Sau khi nghe anh Trần Duy Thị, Tiểu đoàn trưởng báo cáo, các cơ quan thay nhau phát biểu khá sôi nổi.

 Trước khi kết luận và giao nhiệm vụ, anh Chu Phương Đới nói :

- Từ sáng đến giờ chúng ta mới chỉ nghe các đồng chí đại diện các cơ quan phát biểu. Tốt thôi. Nhưng đó đều là ý kiến tư vấn của những người không trực tiếp đánh nhau. Bây giờ chúng tôi cần nghe chính kiến của mấy đồng chí cán bộ phân đội – là những người  trực tiếp chi huy chiến đấu. Sự thành bại của trận đánh do kết quả thực hành chiến đấu của bộ đội ở cơ sở. Nào, tiểu đoàn 3 đã trình bày rồi, đến lượt cán bộ  Đại đội 20 phát biểu đi.

 Anh Hào giao tôi phát biểu. Tôi nói là:

 - Báo cáo Tư lệnh Sư đoàn, Đại đội 20 chúng tôi nhất trí hoàn toàn về phương án tác chiến của toàn tiểu đoàn, do anh Thị tiểu đoàn trưởng trình bày. Riêng ở hướng thứ yếu, chúng tôi đã tiềm nhập vào cả 3 phía của mỏm B, thấy rằng, nếu bộ đội tiềm nhập tốt, khả năng mật tập có thể giành thắng lợi lớn. Còn khi bị lộ mà phải cường tập thì rất khó khăn, vì ở đó có tới 3 lớp hàng rào thép gai và một hàng rào cây đổ. Hơn nữa địa hinh ở ngoài vào rất dốc, hỏa lực địch dễ phát huy tác dụng.

   Tôi vừa trình bày xong, anh Chu Phương Đới nói ngay:

- Đồng chí Đẩu nói đúng đấy. Phải mật tập chứ. Cường tập là vạn bất đắc dĩ thôi.

Sau phần thảo luận, Tư lệnh sư đoàn kết luận giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 3 và Đại đội 20. Theo đó, Tiểu đoàn 3 được tăng cường Đại đội 20 có nhiệm vụ tập kích, đánh tiêu diệt tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ, phá hủy toàn bộ trận địa pháo. Phân công nhiệm vụ cụ thể là: Tiểu đoàn 3 đảm nhận hướng chủ yếu đánh vào Sở Chỉ huy, 2 đại đội thủy quân lục chiến Mỹ. Đại đội 20 đảm nhận hướng thứ yếu, đánh vào trận địa pháo và 1 đại đội thủy quân lục chiến Mỹ.

Anh Chu Phương Đới, dân tộc Tày, quê ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, có 8 năm liền làm Tư lệnh Sư đoàn 324 trong kháng chiến chống Mỹ. Sau này anh là Thiếu tướng, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (BTL 678). Năm 2006,  anh Đới từ Cao Bằng về điều trị ở Viện Y học dân tộc quân đội ở Hà Nội, biết tin tôi đến thăm, anh em ôn lại thời kỳ chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên ác liệt, khó khăn.

Sau khi nhận nhiệm vụ, chúng tôi tổ chức hội nghị quân nhân, họp chi ủy, chi bộ để quán triệt và bàn biện pháp triển khai thực hiện cụ thể. Ngoài việc thảo luận trên sa bàn, chúng tôi còn làm thao trường mô phỏng, có hàng rào, lô cốt, chiến hào, trận địa pháo để  luyện tập. Khí thế đơn vị hăng hái lắm. Anh em tin tưởng và có quyết tâm cao. Trận này, do anh Dung bị sốt cao, đi tiểu ra máu, anh Chúng bị tái phát vết thương ở đầu gối, vì còn mảnh đạn, nên không tham gia được. Bởi thế, trong Ban chỉ huy đã phân công: Anh Hào, đại đội trưởng đi cùng Mũi 1 do anh Ba làm mũi trưởng đánh vào hướng nam. Tôi với cương vị  phụ trách chính trị viên đại đội đi với Mũi 2 do anh Xuân làm mũi trưởng đánh vào hướng tây. Còn  hướng đông do anh Nhụy mũi trưởng cùng anh Ngãi mũi phó  Mũi 4 chỉ huy, không có cán bộ đại đội đi cùng.

3 giờ chiều ngày 16 tháng 6 năm 1969, chúng tôi xuất phát từ hậu cứ hành quân vào chân động Ta Tách, cùng đi còn có anh Nguyễn Văn Thuận, quê ở Hương Khê, Hà Tĩnh, chủ nhiệm trinh sát Trung đoàn. Đến 6 giờ tối, khi đã qua thung lũng A Sầu, bộ phận đi đầu vướng mìn nổ, 3 người hy sinh tại chỗ gồm: anh Thuận chủ nhiệm trinh sát, anh Ba mũi trưởng Mũi 1 quê ở xã Đức Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh và một chiến sĩ. Cậu Nguyễn Văn Lợi quê ở nhà số 10, Ngô Gia Tự, thị trấn Từ Sơn, Bắc Ninh bị thương nặng khiêng được một quãng ngắn thì hy sinh. Đây là một tổn thất khi chưa bước vào chiến đấu. Sau khi an táng cho anh em xong, chúng tôi giao cho anh Thỏa mũi phó thay thế anh Ba chỉ huy Mũi 1. Cả đại đội  tiếp tục đi vào vị trí tập kết và chuẩn bị  mọi mặt theo kế hoạch chiến đấu.

7 giờ tối ngày 17 tháng 6 năm 1969, rời vị trí tập kết, tôi cùng Mũi 2 bắt đầu tiềm nhập vào phía đồn địch. Lực lượng Mũi 2 có anh Trần Viết Xuân mũi trưởng, anh Nguyễn Quốc Việt mũi phó và 3 tổ, mỗi tổ có 5 người.  Đến 8 giờ tối cả Mũi 2 đã đến mép ngoài hàng rào cây đổ. 12 giờ30 đêm chúng tôi đã luồn qua hàng rào thứ nhất. Theo kế hoạch là tất cả các mũi trong toàn tiểu đoàn sẽ nổ súng vào lúc 1giờ30 phút sáng. Hiệu lệnh nổ súng là quả bộc phá của Đại đội 2 đánh vào sở chi huy tiểu đoàn địch. Nhưng bất ngờ lúc 1 giờ 5 phút, tôi nghe tiếng súng nổ giòn giã ở phía đại đội 2. Anh Xuân nói nhỏ với tôi, chắc là hướng chủ yếu bị lộ mất rồi anh ạ. Tôi bảo, hãy dừng lại, bình tĩnh nghe ngóng xem sao. Độ 10 phút sau, một tiếng nổ rất to ở trung tâm, chắc đó là quả bộc phá lệnh. Cùng lúc tiếng B40, B41, tiếng  bộc phá của bộ đội ta nổ rền cả ở mỏm A và mỏm B. Tất cả các hỏa điểm trong mỏm B đồn địch đồng loạt nhả đạn ra phía chúng tôi. Cối 81 ly, súng phóng lựu M79, ĐKZ, súng chống tăng của địch bắn cấp tập ra ngoài hàng rào. Lúc này yếu tố bí mật không còn nữa. Máy thông tin 2 oát bị hỏng, không liên lạc được với tiểu đoàn. Tình huống lúc này buộc chúng tôi phải chọn lựa một trong hai cách: Hoặc là, cường tập vượt qua hàng rào trong cùng, rồi tiến đánh các mục tiêu theo phân công. Nhưng khoảng cách tới được mục tiêu còn khá xa, địa hình dốc, lại còn phải băng qua 2 lớp hàng rào, bãi mìn, dưới làn đạn dày đặc của địch, thương vong sẽ nhiều, khả năng tiến sát để đánh địch là rất khó. Hoặc là, nhanh chóng tổ chức bắn yểm trợ và cho anh em rút ra ngoài. Kinh nghiệm cho thấy, trong tình huống này, người chỉ huy phải quyết đoán  nhanh, dứt khoát. Nếu ngập ngừng hoặc phủ phục tại chỗ để chờ cơ hội là rất nguy hiểm. Anh Xuân nói nhanh với tôi: “ Xin anh cho dùng hai khẩu B41 phóng mấy quả vào mấy hỏa điểm để anh em rút ra”. Tôi cho rằng, không còn cách gì khác, lao lên cường tập thì cũng không đánh chiếm được mục tiêu, mà sẽ thương vong hết. Thôi đành vậy. Tôi đồng ý với đề nghị của anh Xuân. Đây là một quyết định ám ảnh cả đời tôi. Là người chủ trì cao nhất lúc đó, tôi dám chịu trách nhiệm và sẵn sàng nhận kỷ luật của cấp trên về quyết định của mình. Có thể, có người cho là quyết định rút lui trong trường hợp đó là do dao động ý chí chiến đấu. Sợ chết ư? Đúng! làm người ai mà chẳng sợ chết. Song, một khi đã ý thức được chết cho ai, vì cái gì, đem lại cái gì, thì con người ta lại sẵn sàng đón nhận cái chết về mình một cách thanh thản. Thực ra, đã vào chiến trường bao nhiêu năm, chiến đấu bao nhiêu trận rồi, thì coi việc vào sinh ra tử như một lẽ tự nhiên. Nhưng, bao giờ cũng vậy, lòng quả cảm không đồng nghĩa với sự liều lĩnh. Gần hai chục mạng người lao vào chắc chắn là hy sinh cả, mà cuối cùng cũng chẳng giải quyết được gì, thậm chí chẳng diệt nổi một tên địch.

 Nhiều năm sau này, tôi về Thái Bình họp mặt một số lần với anh em cùng Đại đội 20 đặc công thuở đó: Tạ Ngọc Dũng quê ở xã Nam Cường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Trần Quang Bình quê ở xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Bùi Văn Tường và Bùi Văn Ký quê ở xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Lê Văn Thảo quê ở Phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa; Nguyễn Viết Hiền quê ở xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; Mai Sĩ Thanh quê ở thành phố Thanh Hóa; Nguyễn Văn Tiên quê ở xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Trần Văn Tảo quê ở xã Nam Cường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Nguyễn Văn Quân quê ở xã Bình Định, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình,…Mọi người nay đã trên dưới sáu mươi tuổi, thành ông nội, ông ngọai cả rồi. Anh em đều nói với tôi : “ Đêm hôm đó nếu anh không ra lệnh bắn yểm trợ và rút ra ngay, mà cứ đánh thốc vào hoặc lừng khừng, ngập ngừng ở giữa các lớp rào thì rồi cũng chẳng giải quyết được gì. Điều chắc chắn là toàn bộ anh em chúng ta sẽ chết hết như Mũi 4 của anh Nhụy cả rồi”. Nghe xong, tôi chẳng nói gì, lòng ngậm ngùi nhớ về gương mặt phúc hậu của anh Cao Hồng Nhụy và những anh em Mũi 4 thuộc Đại đội 20 đặc công ngày đó.

Sau khi ra khỏi hàng rào cuối cùng, pháo địch bắn phá dữ dội xung quanh cao điểm. Điều đặc biệt là, ở bên ngoài hàng rào độ 100 mét, địch đã đặt sẵn nhiều thùng chất độc hóa học. Khi pháo bắn trúng vào đó, chất độc bung ra trở thành một hàng rào chất độc. Mọi người bị cay sặc. Chúng tôi phải cởi áo ra, lấy nước tiểu của mình thấm vào và đặt lên mũi để vượt qua khu vực chất độc mờ mịt, ngột ngạt. Không biết sau này trong số đó có ai bị nhiễm chất độc hóa học của Mỹ hay không.

Khi chúng tôi về đến vị trí tập kết, thì Mũi 1 do anh Hào chỉ huy cũng vừa  về. Tôi báo cáo với anh Hào, thì anh Hào nói bên đó tình hình cũng giống như hướng chúng tôi. Chờ đến trưa không thấy Mũi 4 của anh Nhụy trở về, chúng tôi bắt đầu lo lắng. Trước khi  đưa anh em về hậu cứ, tôi và anh Hào trèo lên đài quan sát để nhìn lại vào trong căn cứ địch. Qua ống nhòm, chúng tôi thấy trong đó nhiều nơi vẫn còn khói lửa âm ỷ cháy. Một chiếc trực thăng đang nổ máy tại chỗ, lố nhố mấy tên Mỹ đang áp giải một số chiến sỹ ta (chắc là đã bị thương) bị địch bắt đưa lên máy bay. Chúng tôi nhận định là, Mũi 4 đánh vào bị mắc kẹt trong căn cứ, hy sinh gần hết, còn một ít bị thương rồi bị địch bắt. Thương xót anh em vô cùng mà chẳng biết làm sao.

Hôm sau, tôi hỏi lại anh Lộc Đại đội trưởng Đại đội 2 – mũi chủ yếu, tại sao ở phía bên này, chúng tôi nghe súng nổ khoảng 10 phút rồi bộc phá lệnh mới nổ và kết quả ở hướng chủ yếu thế nào. Anh Lộc cho biết là, khi đang tiềm nhập qua hàng rào cuối cùng, thì bất thần các loại súng trong đồn bắn ra rất mạnh, tổ mũi nhọn  3 người hy sinh hết, chi ủy Đại đội 2 trao đổi chớp nhoáng với nhau là địch bắn báo động theo qui luật chứ không phải bị lộ, và cử người khác thay thế tổ mũi nhọn để tiếp cận vào đánh. Khi cả mũi đã lọt qua hàng rào, thì bất ngờ một tốp lính Mỹ đi tuần. Anh Lộc cho anh em dùng AK bắn liền mấy loạt. Mấy tên Mỹ chết gục tại chỗ,  số còn lại chạy thục mạng vào trong. Mấy phút  sau, tổ mũi nhọn  mới lao lên đánh vào hầm chỉ huy và các mục tiêu lân cận. Do bị thương vong cả khi tiềm nhập và cả khi đánh vào trong, mũi chủ yếu không đủ lực lượng đánh tiếp, đành phải rút. Anh Lộc mặc dù đã bị thương vào chân, vẫn cố dìu được thương binh khác đưa ra ngoài. Ở các hướng khác đều phát triển không thuận lợi.

Như vậy là, trận tấn công quân địch ở Cao điểm 817 Ta Tách lần thứ nhất đã không giải quyết dứt điểm được. Chỉ đánh thiệt hại một bộ phận, tiêu hao một số sinh lực, phá hủy một số công sự và phương tiện của địch. Về phía ta bị thương vong tương đối lớn. Riêng Đại đội 20 chúng tôi bị mất toàn bộ mũi 4. Trước đó, trong trận Ba Đu,Tà Bạt do anh Vân chỉ huy cũng đã bị “phơi áo” anh em thương vong nhiều, không hoàn thành nhiệm vụ. Cả mũi 3 của Đại đội 20 chúng tôi tham gia trận đó do anh Thành mũi trưởng chỉ huy đều bị hy sinh hết.

Cả đơn vị về hậu cứ, một không khí buồn bã, u uất, nặng nề bao trùm lên toàn thể cán bộ, chiến sĩ. Quân số đại đội có 85 người thì 30 người hy sinh, 25 người bị thương. Tinh thần chiến đấu của anh em bị giảm sút, thiếu tin tưởng vào cách đánh đặc công. Thêm vào đó, lương thực thiếu thốn, mỗi người mỗi ngày chỉ được 2 lạng gạo, còn lại phải ăn sắn, muối ăn cũng khan hiếm, đời sống khó khăn. Nội bộ đơn vị xuất hiện tình hình mất đoàn kết.

Tôi nhớ lúc họp rút kinh nghiệm ở Trung đoàn, anh Đinh Minh Chúng đại đội phó đã phê phán gay gắt và còn văng tục. Không giữ được bình tĩnh, tôi nổi cáu:

 - Này ông Chúng, ông nói gì thế? Ông dũng cảm, giỏi giang, nhưng khi anh em đi trinh sát trong căn cứ địch và đi đánh, thì ông lại ngồi ở hậu cứ, để bây giờ ông phán. Nói sau bao giờ chả đúng! Còn việc ông nói tục, nói bậy là không xong với tôi đâu. Nói nữa là tôi bạt tai ông đấy.

Chúng cũng chẳng vừa, mặt đỏ tía tai, mắt trợn trừng, quát lớn:

         - Tôi nói thế đấy, ai làm gì nào. Tôi không đi được là do vết thương tái phát chứ. Bao nhiêu đồng đội hy sinh vì chỉ huy kém cỏi, liều lĩnh. Còn ông Đẩu làm chính trị viên mà dọa đánh tôi hở. Được thôi. Có giỏi thì đánh đi. Ông được 10 phần thì tôi cũng được 8 chứ, sợ gì ông…

         Không chờ Chúng nói hết câu, tôi lao vào giáng cho Chúng mấy quả đấm. Chúng vừa chống đỡ, vừa hét toáng lên:

         - Anh em ơi, ông Đẩu chính trị viên đánh tôi.

          Tôi hăng máu vừa đánh vừa nói to:

        - Nhân danh những người đã hy sinh và những người đang sống, tôi phải trị ông. Đây là thằng Đẩu đánh thằng Chúng, bạn nó, vì nó nói bậy, chứ chẳng có chính trị gì ở đây cả.

 Mấy anh em chạy lại can, đưa mỗi người ra một góc. Sau đó, tự mình, chúng tôi biết là sai nên ân hận. Đây là biểu hiện điều bức xúc trước sự tổn thất của đơn vị, thương xót những những đồng đội đã hy sinh. Chứ thực ra giữa tôi và Chúng chẳng có thù oán gì, thậm chí chơi thân với nhau từ khi cùng chiến đấu với nhau ở Tiểu đoàn 929.

 Ngày hôm sau, anh Lê Văn Dánh phó chính ủy Trung đoàn - vốn là thủ trưởng cũ của chúng tôi khi còn ở Tiểu đoàn 929- cho gọi tôi và Chúng lên. Vừa nhìn thấy chúng tôi bước vào, anh Dánh trừng mắt quát lớn:

- Thế nào hai ông? Các ông đẹp mặt quá nhỉ. Cán bộ đại đội đánh nhau. Từ khi tôi vào bộ đội đến bây giờ chưa thấy ai thế bao giờ. Trẻ con quá đấy. Đã hai mốt, hai hai tuổi rồi. Là lính Tiểu đoàn 929 với nhau, tôi thật xấu hổ về các ông.

 Ngừng một lát, không cho chúng tôi kịp phân trần, anh Dánh nói luôn:

- Thôi! Không nói gì cả. Có lỗi thì sửa. Tôi thông cảm cho hành động nóng nẩy, bột phát, thiếu suy nghĩ của các ông. Bây giờ về đơn vị, hai ông phải cùng nhau chung sức, chung lòng xây dựng đơn vị. Sau này nếu còn tiếp diễn cảnh đó là không xong đâu nhé. Sẽ kỷ luật nặng đấy. Thôi ! có mấy bánh lương khô đây, vào ăn đi rồi mà về.

 Cả hai chúng tôi ra về sau cái bắt tay xiết chặt, nồng ấm, chân thành của anh Dánh. Cách của anh Dánh là vậy. Ở với nhau bao nhiêu năm rồi, anh hiểu chúng tôi và chúng tôi cũng rất hiểu anh. Anh là mẫu cán bộ chính trị của công việc, luôn luôn bám sát thực tế chiến đấu, gương mẫu, miệng nói tay làm. Trong lãnh đạo, anh không nhiều lời giải thích dài dòng. Anh đề cập mọi vấn đề một cách trực diện, thẳng thắn, chính kiến rõ ràng, hiệu quả.

Sau trận đánh Ta Tách và Tà Bạt, Đại đội chúng tôi được giao tập kích quân địch ở cao điểm 354. Ở trận này, sau khi trinh sát kỹ, nắm rất chắc việc bố phòng của địch, Ban Chỉ huy đại đội quyết định chỉ dùng có 11 chiến sỹ do anh Bùi Công Tiếp mũi trưởng chỉ huy. Trận đánh nhanh gọn hiệu suất chiến đấu cao. Ta đánh thiệt hại nặng một đại đội quân Mỹ. Phía ta hy sinh một người là Phạm Xuân Khu, xạ thủ B40, quê ở xã Bình Định, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sau này đã có lần tôi đến nhà thăm bố mẹ Khu và thắp hương cho Khu.

Trong trận này có tình huống:  Khi cả tổ đã tiềm nhập vào bên trong cứ điểm địch, thì có một tên Mỹ lao ra bế xốc tổ trưởng Nguyễn Viết Hiền và quật xuống. Quá bất ngờ, tên Mỹ thì cao to, Hiền thì nhỏ con không làm sao gượng lại được. Loay hoay mất gần 1 phút, Hiền rút được một quả thủ pháo, đưa tay ra phía sau lưng tên Mỹ, giật nụ xòe. Nụ xòe kêu đánh tách, lửa phụt ra, tên Mỹ hoảng quá buông Hiền bỏ chạy.  Ngay tức khắc, Hiền ném quả thủ pháo, tên Mỹ bị chết tại chỗ. Vì quả thủ pháo nổ quá gần, Hiền bị thương vào mắt. Hiền vốn là liên lạc của tôi mới đưa xuống làm tổ trưởng.

Khi về tới vị trí tập kết, tôi hỏi Hiền:

 - Làm sao không cho tên Mỹ ấy một nhát dao có gọn hơn không?

 Hiền nhỏ nhẹ trả lời:

- Thủ trưởng ạ, nó ôm ghì em chặt lắm không cựa quậy nổi, may mà thò tay rút được quả thủ pháo, nghĩ rằng, sẽ cùng chết chung với nó. Ai ngờ, nó hoảng quá buông ra, em ném luôn vào chân.

Nguyễn Viết Hiền quê ở xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Hiện nay là thương binh ở quê. Năm 2003, tôi đã về quê thăm gia đình Hiền.

Giữa năm 1969, đơn vị chúng tôi hoạt động bám trụ chiến trường ở vùng núi tây Thừa Thiên. Lúc này đời sống khó khăn, gian khổ lắm. Đang giữa mùa mưa, thời tiết ở rừng nặng nề. Từ sáng sớm đến chiều tối mưa dai dẳng, cả ngày trời tối xầm. Lương thực thiếu thốn, mỗi người mỗi ngày chỉ có 2 lạng gạo. Phải độn thêm ngô, sắn, chêm thêm măng, các loại rau tàu bay, môn thục, dương xỉ và cả đọt lá sắn nữa mới đủ no. Thực phẩm không có. Muối ăn cũng rất thiếu. Anh em trong đơn vị sốt rét nhiều. Tôi bị sốt rét mấy ngày liền, không ăn uống gì được, người gầy xọp đi.

Giữa lúc đó, Đài Tiếng nói Việt Nam bất ngờ thông báo về tình hình sức khỏe của  Bác Hồ. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn không thể quên được giọng đọc trầm buồn, xúc động, nghiêm trang của người phát thanh viên trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày đó. Ai nấy đều dừng tất cả mọi công việc, chăm chú, lo lắng, hồi hộp lắng nghe. Rồi tiếp đến, chúng tôi đau đớn bàng hoàng nghe tin Bác Hồ từ trần. Mọi người chúng tôi đều khóc. Một không khí đau thương trùm lên toàn đơn vị. Theo thông báo của trung đoàn, chúng tôi tổ chức Lễ truy điệu Bác vào ngày 9 tháng 9, đúng với giờ Đài Tiếng nói Việt Nam tường thuật Lễ truy điệu ở Quảng trường Ba Đình Hà Nội.

Đang lên cơn sốt rét, mặt đỏ phừng, chân đi không vững, trời lại đang mưa tầm tã, cậu Long y tá đại đội đưa tôi uống mấy viên Vitamin B1 rồi khoác tấm ni lông dìu tôi ra hội trường đại đội. Đó là một cái hầm lộ thiên rộng, có hào râu tôm thông ra xung quanh. Anh em đã làm một bàn thờ Bác, không có ảnh, không hương hoa. Đúng giờ, theo tiếng hô của anh Trần Viết Xuân đại đội phó, cả đại đội gần trăm con người ngẹn ngào đứng dậy trang nghiêm mặc niệm Bác. Mặc niệm xong, anh Xuân giới thiệu tôi lên phát biểu. Tôi bước lên bục nói vo không giấy tờ nhưng đủ ý và xúc động. Bằng nhận thức và tình cảm của mình, tôi nói ngắn, đại ý là: Khái quát về thân thế, sự nghiệp và công lao vĩ đại của Bác Hồ đối với dân tộc Việt Nam. Bác Hồ mất đi là một tổn thất vô cùng to lớn, không có gì bù đắp được đối với nhân dân và cách mạng, để lại cho chúng ta sự tiếc thương vô hạn. Để xứng đáng với lòng mong muốn của Bác, chúng ta - những người lính trực tiếp cầm súng chiên đấu trên chiến trường - nguyện vượt qua mọi khó khăn, ác liệt, hy sinh, tiếp tục quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi lớn hơn, tiến tới thắng lợi cuối cùng. Sau phát biểu của tôi, theo chương trình, một cán bộ và một đảng viên trẻ lên phát biểu cảm tưởng và hứa quyết tâm. Cả hai người đều nói ngắn nhưng rất tình cảm và rất đúng. Đó là những lời nói mộc mạc, dung dị nhưng rất chân thành, được chắt ra, thốt lên tự đáy lòng.                                                         

Tháng 10 năm 1969, tôi được cử đi tập huấn ở Quân khu Trị Thiên. Đối tượng dự tập huấn là cán bộ cấp đại đội, tiểu đoàn các đơn vị chiến đấu và một số cán bộ cơ quan Sư đoàn, Quân khu. Làm cán bộ mấy năm rồi, mãi đến lúc đó tôi mới được đi tập huấn những kiến thức cơ bản về quân sự, chính trị trong lãnh đạo, chỉ huy quản lý đơn vị. Phần đông cán bộ trưởng thành trong chiến đấu là vậy. Ở chiến trường, lớp sau học lớp trước và đồng thời tự mình rút kinh nghiệm qua thực tiễn chiến đấu công tác là chính. Chúng tôi tập huấn ở Hội trường Thanh niên, gần dốc Cao Bồi (tôi cũng không hiểu tại sao lại gọi như vậy). Giáo viên dạy quân sự là anh Dương Bá Nuôi tham mưu phó Quân khu và các anh cán bộ chủ chốt trong Bộ Tham mưu Quân khu. Giáo viên dạy chính trị là anh Thanh Quảng, Phó Chính ủy Quân khu (ngày đó gọi là ông Hồ Tú Nam), anh Trần Văn Ân, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu, anh Mai Trọng Thường, Cục phó Cục Chính trị, anh Lê Khả Phiêu, Trưởng phòng Tổ chức, anh Kiều Tam Nguyên , Trưởng phòng Tuyên huấn,..Nhạc sĩ Trần Hoàn (ngày đó có tên là Hồ Thuận An) Phó ban Tuyên huấn Khu ủy có đến giảng bài.

 Bằng năng lực, kinh nghiệm, trách nhiệm và tình cảm của mình, các anh lãnh đạo đã tận tình giảng giải cho lớp cán bộ trẻ chúng tôi về nội dung, hình thức và phương pháp trong tiến hành lãnh đạo, chỉ huy đơn vị. Quả thật lúc đó, đầu óc chúng tôi như tờ giấy trắng, có chí tiến thủ, đang khát khao hiểu biết để soi rọi, kiểm chứng vào thực tiễn sinh động đang diễn ra ở chiến trường. Lại được các anh vừa có kiến thức sâu sắc, vừa có sự trải nghiệm phong phú giảng giải cho, chúng tôi  hứng thú, tin tưởng và ngưỡng mộ vô cùng. Chúng tôi chăm chú say mê nghe giảng bài như nuốt lấy từng lời, uống lấy từng đơn vị kiến thức. Đúng như Bác Hồ đã từng nói với học viên ở một lớp đào tạo cán bộ: ”Học để làm người, học để làm cán bộ”. Có những điều trước đây chúng tôi mò mẫm làm, nay đối chiếu lại thấy có cái đúng, cái dở. Lớp học ngắn thôi, nhưng trong hoàn cảnh đó, đã trang bị cho chúng tôi rất nhiều điều bổ ích.

Sau khi tập huấn ở Quân khu về, tôi được đề bạt lên cấp Đại đội bậc trưởng (nếu ra Bắc thì được phiên sang là Thượng úy), đồng thời được bổ nhiệm làm Trợ lý thanh niên của Trung đoàn thay anh Bùi Anh Sum quê xã Diễn Viên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An sang làm Trưởng tiểu ban Tuyên huấn Trung đoàn. Trưởng tiểu ban Tuyên huấn trước đó là anh Nguyễn Thái được điều động đi làm chính trị viên Tiểu đoàn 7 thay anh Trần Triền.

 Khi giao nhiệm vụ cho tôi, anh Lê Văn Dánh, Chính ủy Trung đoàn đã nói:

 - Đẩu ạ, em vừa tròn 21 tuổi. Em là cán bộ hăng hái sôi nổi,  nói được, viết được, làm được, đảm nhiệm chức vụ Trợ lý thanh niên Trung đoàn là phù hợp,  xứng đáng. Cả trung đoàn hơn hai nghìn quân, tất cả cán bộ cấp phân đội và chiến sĩ đều đang độ tuổi thanh niên. Em phải tham mưu cho Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn, chỉ đạo các đơn vị trong toàn Trung đoàn làm tốt hai khâu : Một là, Kiện toàn, củng cố tổ chức Đoàn luôn luôn vững mạnh, xứng đáng là trường học, là chỗ dựa của thanh niên, đồng thời là cánh tay đắc lực của tổ chức Đảng ở cơ sở; Hai là,Tăng cường giáo dục đoàn viên thanh niên về lý tưởng, niềm tin. Cách giáo dục không cứng nhắc, phải phong phú, sinh động phù hợp với “khẩu vị”, với nhu cầu tâm lý của thanh niên. Từ đó, động viên thanh niên hăng hái làm lực lượng xung kích trong mọi mặt hoạt động của đơn vị. Kịp thời cổ vũ những gương điển hình tiên tiến trong chiến đấu, công tác để nhân rộng ra trong toàn đơn vị.

Nghe xong, tôi hứa sẽ cố gắng hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời mong các anh chỉ huy lãnh đạo, mà nhất là Chỉnh ủy, quan tâm giúp đỡ.

Là trợ lý thanh niên của Trung đoàn, tôi luôn bám sát các đơn vị. Khi xuống đơn vị, tôi không đơn thuần làm công tác thanh niên mà là phái viên của cơ quan chính trị Trung đoàn đến kiểm tra, phát hiện,  hướng dẫn, tham gia chỉ đạo các mặt công tác đảng, công tác chính trị và các lĩnh vực khác của đơn vị cơ sở. Cùng ăn ở, cùng tham gia hoạt động chiến đấu, công tác với bộ đội, lúc đó, đối với tôi có nhiều điều lý thú. Tuổi trẻ, sức khỏe, những kiến thức thu lượm được, cộng với một số kinh nghiệm trong chỉ huy, lãnh đạo trước đây, đã giúp tôi làm được nhiều việc hữu ích  tại các đơn vị  trong Trung đoàn. Nói chung là, tôi được lãnh đạo, chỉ huy và nhất là anh em thanh niên ở các đơn vị  thân quí.

Tháng 8 năm 1970, Trung đoàn 3 đang tham gia chiến dịch Cốc Bai ở tây Thừa Thiên, tôi được Ban Chính trị cử làm phái viên đốc chiến ở Tiểu đoàn 9. Cùng làm phái viên như tôi, Ban Tham mưu trung đoàn cử anh Cao Sĩ Nguyên trưởng tiểu ban Trinh sát ( anh Nguyên cùng chiến đấu với tôi hồi còn ở Tiểu đoàn 929; sau này, anh đã nghỉ hưu ở quê - Tân Đức, Tuyên Hóa, Quảng Bình).

 Khoảng 3 giờ chiều, khi Tiểu đoàn 9 vừa mới dừng lại chưa kịp bố trí xong đội hình chiến đấu, thì lực lượng địch khoảng một tiểu đoàn quân ngụy xuất hiện ở tiền duyên. Đảng ủy và Ban chỉ chỉ huy tiểu đoàn họp gấp, mời tôi và anh Nguyên cùng dự. Ban chỉ huy tiểu đoàn 9 lúc đó có anh Lê Văn Tành, tiểu đoàn trưởng, quê ở Đại Phong, Lệ Thủy, Quảng Bình;  anh Nguyễn Thụy, bí thư đảng ủy, chính trị viên tiểu đoàn quê ở Tào Sơn, Anh Sơn, Nghệ An (mấy năm trước đó, hồi còn chiến đấu ở Lào, tôi đã từng làm liên lạc cho anh Thụy, khi anh ấy làm chính trị viên đại đội ); tiểu đoàn phó là anh Nguyễn Đăng Loạt quê ở Quảng Văn, Quảng Trạch, Quảng Bình; chính trị phó là anh Lê Văn Tình quê ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Khi họp bàn, có hai loại ý kiến khác nhau: đánh, chưa đánh, chưa ngã ngũ. Ý kiến đánh, cho rằng, địch mới đến chưa có công sự, ta bất ngờ đánh phủ đầu ngay, địch bị bất ngờ không kịp trở tay, chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Ý kiến chưa đánh, cho rằng, không nên nóng vội, cần phải có thời gian nắm địch, phải chắc thắng mới đánh. Nghe ra, ý kiến nào cũng có lý. Anh Thụy bí thư đảng ủy, chính trị viên tiểu đoàn quay sang tôi và anh Nguyên. Anh nói:

-  Đề nghị hai đồng chí phái viên của Trung đoàn cho ý kiến.

Tôi phát biểu ngay:

 - Ý kiến của anh Nguyên như thế nào tôi chưa biết. Nhưng theo tôi, đây là thời cơ tốt, Tiểu đoàn 9 cần phải tổ chức đánh ngay khi địch vừa hạ ba lô, chưa có công sự. Đánh địch ngoài công sự, trên mặt đất, bao giờ cũng thuận lợi hơn đánh địch trong công sự. Không cầu toàn việc nắm địch. Quá trình tác chiến, theo sự phát triển cụ thể sẽ tùy cơ ứng biến.

Dừng một chút, nhìn qua một lượt, xem xét thái độ của mọi người, để tiếp tục khẳng định, tôi nói thêm:

        - Với tư cách phái viên của Trung đoàn, chính kiến của chúng tôi là vậy. Còn đánh hay không là quyền của các đồng chí. Nhưng kiểu gì, Tiểu đoàn 9 cũng đều phải báo cáo về Thủ trưởng Trung đoàn.

 Tôi vừa dứt lời, anh Nguyên nói tiếp:

 - Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của anh Đẩu. Không sợ gì cả, Tiểu đoàn 9 đang sung sức, các anh cứ mạnh dạn cho đánh ngay. Theo tôi, vắn tắt cách đánh là thế này: Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 12 hỏa lực cấp tập một đợt ngắn rồi cho Đại đội 9 và Đại đội 11 đánh thốc lên. Nên để Đại đội 10 làm lực lượng dự bị.

Anh Nguyên nói xong, anh Thụy hỏi có ai ý kiến gì khác không? Cả hội nghị nhất trí và thông qua phương án tác chiến cụ thể.

 5 giờ chiều bắt đầu nổ súng. Đến chập tối, thì Tiểu đoàn đánh tan tiểu đoàn địch. Đêm đến, khi quân địch co cụm lại, Tiểu đoàn 9 còn tổ chức tập kích bằng hỏa lực cối 82 ly và ĐKZ 75 ly. Trận đó tiểu đoàn 9 giành thắng lợi lớn.

Sau chiến dịch, trong một cuộc họp, anh Lê Văn Dánh, Chính ủy trung đoàn đã khen ngợi chiến công của lãnh đạo, chỉ huy và toàn thể cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 9. Đồng thời, anh biểu dương hai phái viên đốc chiến của trung đoàn, với trách nhiệm, ý chí, kinh nghiệm và uy tín của mình, đã có những đóng góp đáng kể vào chiến công đó.

Tháng 7 năm 1970, khi giữ chức Trung đoàn trưởng, trong lần dẫn bộ phận cán bộ đi trinh sát ở vùng A Lưới, gần Đường 12 tây Thừa Thiên, anh Nguyễn Hoán bị trực thăng địch phát hiện, chúng bắn rất rát và hạ cánh đổ quân xuống đánh chụp. Khi đã bị thương, anh hô cậu Nhật liên lạc chạy thật xa. Anh ném quả lựu đạn còn lại và bắn hết viên đạn cuối cùng rồi vứt khẩu súng ngắn cách chỗ anh hy sinh đến hơn chục mét, chắc là không để cho địch thu được. Đến khi Nhật dẫn chúng tôi chạy đến thì địch đã rút, anh đã hy sinh.

28 năm sau, năm 1998,  tôi mới có dịp tìm được gia đình anh  Hoán ở Vinh, trong khu tập thể gia đình quân nhân. Bấy giờ thì chị Lan vợ anh và cháu Hoài con gái duy nhất của anh chị không còn ở Vinh nữa mà đã chuyển nhà vào thị xã Hà Tĩnh. Trước đây, khi còn công tác, hàng năm tôi vẫn đến thăm gia đình, thắp hương anh Hoán.

 Tháng 10 năm 1970, anh Trương Anh Dung Chính trị viên Đại đội 20 Đặc công bị ốm nặng, hình như bị viêm cầu thận, phải đi điều trị dài ngày ở Bệnh viện 68 của Quân khu. Chỉ huy và anh em Đại đội 20 đề nghị cấp trên cho tôi về lại đơn vị. Tôi cũng thích thế. Nhưng Ban Chính trị Trung đoàn không đồng ý, với ý định sẽ bố trí tôi vào cương vị khác cao hơn. Cơ quan đưa ra mấy phương án lựa chọn người về thay anh Dung, nhưng đều không được Đảng ủy, Thủ trưởng Trung đoàn đồng ý. Cuối cùng, lãnh đạo chỉ huy Trung đoàn đành cho tôi trở lại làm chính trị viên Đại đội 20 Đặc công; đồng thời, chỉ định tôi vào Đảng ủy cơ quan Tham - Chính (tức là Đảng ủy gồm các đơn vị: Ban Tham mưu, Ban Chính trị Trung đoàn và Đại đội Trinh sát, Đại đội Đặc công).

Tôi về lại Đại đội 20 Đặc công, dù mới xa hơn một năm mà đã có nhiều thay đổi. Anh Hào đại đội trưởng chuyển sang làm tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 9 đã hy sinh ở Cốc Muộn. Anh Dung sau khi khỏi bệnh được điều động lên Ban Chính trị Trung đoàn. Khi tôi về, anh Đinh Minh Chúng làm đại đội trưởng, anh Trần Viết Xuân làm đại đội phó, anh Lê Văn Rật quê ở xã Liên Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng làm chính trị phó. Một thời gian sau, trên điều động anh Chúng đi làm tham mưu trưởng Tiểu đoàn 9. Vì đã cùng chung sống, chiến đấu với nhau nhiều năm, với biết bao kỷ niệm vui buồn, nên ngày chia tay, anh Chúng và tôi ôm nhau nghẹn ngào khóc. Trên bổ nhiệm anh Trần Viết Xuân quê xã Hương Thu, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, làm đại đội trưởng.

Sau mấy năm hoạt động ở chiến trường, đời sống kham khổ, một vài trận chiến đấu không dứt điểm, tỷ lệ thương vong cao, nội bộ không thật sự đoàn kết, thiếu tin tưởng. Không khí chung của đơn vị trầm lắng. Trước tình hình đó, việc đầu tiên khi tôi về là bàn bạc cùng các anh trong Chi ủy và Ban Chỉ huy nhanh chóng chấn chỉnh lực lượng, kiện toàn tổ chức, biên chế.  Cán bộ các mũi, các tổ có sự điều chỉnh thích hợp hơn. Tiếp đó, chúng tôi lập kế hoạch tăng cường luyện tập kỹ, chiến thuật; duy trì có chất lượng các chế độ sinh hoạt giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, rèn luyện kỷ luật, phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết cán binh, xây dựng củng cố quyết tâm chiến đấu,…Sau một thời gian, tình hình chung của đơn vị có nhiều chuyển biến tích cực. Từng bước, mọi hoạt động đi vào nền nếp, khí thế hăng hái sôi nổi hơn.

 

            Tham gia Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào

 

Tháng 1 năm 1971, thực hiện Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, quân đội Sài Gòn tiến hành Cuộc hành quân Lam Sơn 719, đánh lên Đường 9 - Nam Lào, hòng chặt đứt tuyến vận chuyển chiến lược Bắc- Nam của ta. Lực lượng địch huy động rất lớn, gồm: 3 sư đoàn (1 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến), 1 liên đoàn biệt động quân, 1 lữ đoàn thiết giáp, 13 tiểu đoàn pháo binh ngụy; 20 tiểu đoàn Mỹ (7 tiểu đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn pháo binh, 5 tiểu đoàn thiết giáp) và 2 trung đoàn quân ngụy Lào phối hợp ở hướng Tây. Tổng quân số khoảng 5 vạn tên ( tương đương 5 sư đoàn bộ binh).

Để chặn đứng, đánh bật cuộc hành quân, tiêu diệt lớn quân địch, giữ vững hành lang huyết mạch của cuộc kháng chiến, tuyến vận chuyển Chiến lược 559, từ đó từng bước đánh bại Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, Quân đội ta đã thực hành chiến dịch phản công với qui mô rất lớn. Lực lượng ta có 5 sư đoàn bộ binh (gồm các sư đoàn: 2, 304, 308, 320 và 324), các lực lượng tại chỗ (Mặt trận B5, Trị Thiên, Đoàn 559), 3 tiểu đoàn tăng-thiết giáp, 4 trung đoàn pháo mặt đất, 4 trung đoàn pháo phòng không, 3 trung đoàn công binh, một số tiểu đoàn đặc công, thông tin,…Chiến dịch bắt đầu từ ngày 30 tháng 1 năm 1971.

 Đang đứng chân ở vùng A Lưới - Thừa Thiên, chúng tôi được lệnh hành quân cấp tốc ra Đường 9 - Nam Lào. Vừa đi vừa phổ biến quán triệt nhiệm vụ vừa xây dựng quyết tâm chiến đấu cho anh em.

Ngày 5 tháng 2 năm 1971, khi chúng tôi mới hành quân ra đến Trạm 19 thì gặp địch. Sở trường của bộ đội đặc công là táo bạo, bí mật, bất ngờ tập kích địch trong cứ điểm vào ban đêm. Đánh hiểm, đánh nhanh, thắng nhanh và rút khỏi trận địa nhanh. Vũ khí trang bị của đặc công là gọn nhẹ. Trong biên chế trang bị chỉ có thủ pháo, lựu đạn, súng tiểu liên AK và B40, B41;  không có các loại hỏa lực khác có uy lực lớn hơn (như: trung liên, đại liên, cối, ĐKZ, trọng liên 12,7 ly…).Vì vậy, đặc công khó phát huy sức mạnh trong tác chiến với bộ binh địch ở ngoài công sự. Sở đoản của đặc công là đánh địch ban ngày. Nhất là khi được giao nhiệm vụ chốt chặn phòng ngự, chiếm giữ mục tiêu, chiến đấu dưới sự oanh kích của phi pháo địch, thì đặc công càng khó hơn. Nay, gặp địch giữa ban ngày, mới khoảng 3 giờ chiều. Trong Ban Chỉ huy có anh  lo không hoàn thành nhiệm vụ, đề nghị cho bám nắm địch, chờ đến khi trời tối mới tập kích. Với tôi, trước khi chuyển sang đặc công đã từng chiến đấu bộ binh nhiều trận, nên đã quen với tình huống này. Tôi vẫn nhớ cách các anh lớp trước nói rằng, đây là hình thức chiến thuật “tao ngộ chiến”, nói theo thuật ngữ mới là “đánh gặp gỡ”. Trong trường hợp này, lý luận nguyên tắc yêu cầu phải “tam tiên”, nghĩa là phải nhanh chóng làm ba việc trước đối phương: triển khai trước, nổ súng trước, xung phong trước. Bởi thế, tôi trao đổi với anh Trần Viết Xuân đại đội trưởng và chúng tôi thống nhất quyết định triển khai đội hình chiến đấu ngay. Anh Xuân chỉ huy mũi 2. Tôi chỉ huy mũi 1 do anh Phạm Văn Quí mũi trưởng tiếp cận vào quân địch.

Khi cách địch chỉ còn khoảng 30 mét, nhìn rõ, nghe cả tiếng cuốc xẻng chúng đang đào công sự và nói chuyện với nhau. Biết chắc là quân ngụy. Tôi chỉ thị cho cậu Bình xạ thủ B40 ngắm vào chỗ địch đang tập trung, khi nào tôi hô thì bắn. Tôi quay sang nói với Quí mũi trưởng chuẩn bị nổ súng. Nhưng chẳng hiểu sao, Quí nói với tôi:

- Anh Đẩu ơi, không đánh được đâu, lực lượng ta thì ít mà địch đông lắm.

      Tôi cáu tiết:

- Ông có đánh không, thì bảo?

Quí vừa lắc đầu, vừa nói:

- Em xin anh!

Tức mình, tôi gọi Mai Sĩ Thanh mũi phó lại và tuyên bố:

- Từ giờ phút này, ông Thanh giữ chức mũi trưởng chỉ huy chiến đấu, còn ông Quí lùi về phía sau ngay.

Thanh:

-  Vâng!

Quí cứ thế lầm lũi quay ra. Tôi ra lệnh nổ súng. Trận đó đại đội tôi giành thắng lợi. Chúng tôi diệt được nhiều địch, thu vũ khí và bắt được một tù binh.

Xem giấy tờ tùy thân của  tên tù binh nó là Trần Hữu Đức, quê quán ở Quế Chữ, Hương Trà, Thừa Thiên; đã tốt nghiệp Trường Võ bị Thủ Đức, trung úy, đại đội trưởng thuộc trung đoàn 1, sư đoàn 1 bộ binh. Ngoài ra, nó còn mang theo giấy xác nhận được tặng thưởng huân chương, ghi rõ tuyên dương công trạng đã giết được 5 cán binh cộng sản, thu 3 súng cá nhân và 1 súng cộng đồng.

Đọc đến đó và nhất là trước thái độ nói năng xấc xược của nó, tôi rút khẩu súng ngắn dí vào thái dương chực bắn bỏ cho bõ tức. Nhưng sợ vi phạm chính sách tù binh nên tôi kìm nén, đút súng vào bao. Tôi gọi điện báo cáo kết quả trận đánh lên anh Hoàng Trọng Thế trung đoàn trưởng. Anh Thế khen ngợi và yêu cầu đưa ngay tên tù binh lên trung đoàn để khai thác ngay.

  Ba hôm sau, tôi trực tiếp lên báo cáo tình hình và kết quả chiến đấu với Trung đoàn. Anh Hoàng Trọng Thế trung đoàn trưởng và anh Lê Văn Dánh chính ủy trung đoàn đều khen Đại đội 20 đặc công đã kiên quyết chủ động đánh địch, mặc dù ban ngày không phải là sở trường, chưa kịp nắm tình hình, gặp địch triển khai lực lượng đánh ngay, thu được thắng lợi lớn. Đánh thắng trận đó có ý nghĩa mở màn cho chiến dịch của Trung đoàn.

Trước khi trở về đơn vị, tôi gặp anh Trần Thư phó ban cán bộ Sư đoàn. Anh Thư nói nửa đùa, nửa thật:

       - Này ông Đẩu! Theo Điều lệnh hiện hành, có qui định nào cho phép ông được quyền cách chức mũi trưởng đối với Phạm Văn Quí và bổ nhiệm Mai Sĩ Thanh lên mũi trưởng?!

Tôi trả lời:

- Báo cáo anh, chính nhiệm vụ cấp trên giao và xương máu của anh em lúc ấy đã trao cho tôi cái quyền đó. Lúc đó không làm thế, thì chẳng biết điều gì sẽ xảy ra.

Nghe tôi nói, anh Thư cười và nói:

 - Không, tôi nói vậy thôi. Việc quyết định của ông lúc đó là kịp thời, chính xác. Điều quan trọng hơn là Đại đội 20 đặc công đã có một trận đánh thắng giòn giã.

Thực ra, ở với Quí nhiều năm rồi tôi biết. Quí hơn tôi một tuổi, quê ở Liên Am,Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Chính tôi là người giới thiệu cậu ta vào Đảng. Quí vốn là người dũng cảm. Nhưng không hiểu sao đến lúc đó lại vậy. Con người ta lạ thế. Có người trận trước chiến đấu gan dạ, trận sau lại chần chừ, thoái thác. Chúng tôi lao vào đánh nhau thì chẳng có ai việc gì. Nhưng khi lùi về phía sau, cách trận địa chừng 200 mét, Quí bị thương vào mắt do pháo địch. Trong chiến đấu, kinh nghiệm cho thấy, cứ bám sát vào địch trong một cự ly thật gần, thì phi pháo của chúng không phát huy được hiệu quả.

Phải chăng, từ thực tiễn ở chiến trường Miền Nam trong những ngày đầu chạm trán với quân viễn chinh Mỹ, một đội quân có vũ khí, trang bị kỹ thuật rất hiện đại, huấn luyện chính qui, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy Quân Giải phóng đã khái quát thành khẩu hiệu chỉ đạo hành động cho Lực lượng vũ trang cách mạng: “ Hãy nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”. Điều đó, tôi cho rằng, hoàn toàn đúng cả ở ba cấp độ (ba tầm): Chiến thuật, Chiến dịch và Chiến lược.

Mai Sĩ Thanh quê ở thành phố Thanh Hóa, đã nghỉ hưu ở Chí Linh - Hải Dương, nhà ở gần Côn Sơn - Kiếp Bạc, có mấy đứa cháu nội rồi. Có lần, Thanh cùng mấy anh em bạn chiến đấu đến nhà tôi chơi. Lúc đang ăn cơm, chuyện trò rôm rả, Thanh say sưa kể lại trận đó với mọi người, rồi đi đến kết luận:

- Bây giờ đã qua mấy chục năm rồi, tôi vẫn nhớ như in. Bữa đó,  nhìn ông Đẩu vào trận, mặt đỏ bừng. Bởi thế, tôi bị cái vía, cái uy của ông Đẩu lấn át. Cứ nhận nhiệm vụ và xông vào đánh đại đi. Sống chết có số. Chứ chần chừ là không xong đâu.

Nghe xong, cả bọn chúng tôi cùng cười. Mặc dù hơn tôi ba tuổi, nhưng trong tiếp xúc Thanh luôn gọi tôi bằng anh và xưng em. Nghe không hợp lý, nhiều lần tôi đề nghị sửa lại cách xưng hô.Thanh cười hồn nhiên bảo rằng:

- Cứ gọi thế thôi. Quen rồi, chẳng sao cả. Vấn đề là, cách xưng hô phải phù hợp với mối quan hệ cụ thể. Tôi quí trọng ông Đẩu thì tôi gọi thế. Có bà con họ hàng gì với nhau đâu mà phải gọi cho đúng ngôi thứ.

 Sau khi đánh thắng quân địch trong trận “tao ngộ chiến”, Trung đoàn giao cho Đại đội chúng tôi phối hợp với Trung đoàn 1 của Sư đoàn chặn đánh quân địch đang hành quân từ Sê-pôn về phía Đông. Phương án tác chiến được xác định là : Dựa vào công sự sẵn có ở Trạm 19, Đại đội chúng tôi tổ chức thành một trận  địa phòng ngự chốt, chặn đứng cuộc hành quân của quân địch. Đồng thời, Sư doàn dùng Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 1 do anh Võ Chót trung đoàn phó chỉ huy cơ động đánh thốc từ phía sau để tiêu diệt địch. Nôm na được hiểu là, Đại đội chúng tôi chốt chặn như một cái  “đe”. Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 1 cơ động đánh lên như một cái “búa”. Hai bên dồn ép quân địch lại để tiêu diệt. Yêu cầu đặt ra là, đối với Đại đội chúng tôi là phải bám trụ kiên cường, trong mọi trường hợp không được lùi trận địa. Tiểu đoàn 1 phải cơ động trên mặt đất dũng mạnh tấn công.

Bắt đầu khai hỏa, toàn bộ trận địa của chúng tôi bị chìm trong hỏa lực cối 60 ly, cối 82ly và ĐKZ 75 ly của Trung đoàn 1. Có mấy đồng chí trực cảnh giới ở cửa hầm bị thương vong. Lạ thế, lúc đánh nhau với địch thì thấy sức công phá của hỏa lực chi viện của ta chưa đủ mạnh; vậy mà khi hỏa lực đó giáng trúng đội hình mình thì nghe dữ dội, đanh rát đến khủng khiếp. Chúng tôi phải bẹp dí xuống hầm, không thể ngóc đầu lên được. Tình hình này nếu kéo dài là rất nguy hiểm. Vì khi quân địch rút lui sẽ tràn qua trận địa ta. Bí quá, tôi bảo cậu điện đài 2 oát gọi ngay cho Trung đoàn 1 yêu cầu lùi tầm bắn lại khoảng 200 mét mới trúng được đội hình địch mà không rơi sang trận địa ta. Cậu điện đài loay hoay mãi chưa liên lạc được. Trong khi đó, các loại đạn pháo cứ cấp tập nện chát chúa vào công sự trận địa của đơn vị .Tôi sốt ruột vô cùng. Điện báo viên thì bền bỉ gọi:

- Sông Hồng gọi Sông Lô. Nghe tốt, nghe rõ, trả lời.

Khi điện đài thông thoại được, tôi giật phắt lấy ống nói, không dùng mật khẩu nữa, hết toáng lên:

- Ông Chót ơi, tôi là Đẩu đây, cối 82 và ĐKZ của các ông bắn trúng vào trận địa của chúng tôi rồi. Không thể ngóc đầu lên được. Hướng bắn thì đúng rồi đấy, nhưng phải cho tầm bắn lùi lại 200 mét thì mới trúng vào đội hình quân địch.

Cáu quá, tôi còn chửi thề mấy câu nữa. Tức thì, đầu bên kia nhận được thông tin, anh Võ Chót cho pháo bắn lùi ngay. Trận đó, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 phối hợp cùng đại đội chúng tôi đánh thắng giòn dã, tiêu diệt và bắt sống gần trăm tên tù binh ngụy.

Mãi tới sau này, năm 1993, anh Võ Chót là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 4 có lần cùng dự cơm ở làng Lệ Mật, Gia Lâm, Hà Nội với chúng tôi. Ôn lại kỷ niệm xưa, anh Chót kể lại trận đó và nói vui:

- Các ông ạ! Bây giờ ông Đẩu là Cục trưởng Cục Chính sách  trông hiền thế thôi. Chứ trước đây, lúc đánh nhau ở trận tiền, là cán bộ chính trị nhưng ông ấy nóng nẩy, quyết liệt và thậm chí là ngoa ngôn đấy!

 Tôi cười vui, nói lại:

- Mọi hoàn cảnh có thứ ngôn ngữ riêng. Cách biểu đạt cũng vậy. Giữa lúc bom rơi đạn nổ ngút trời, sự sống chết của mình và đồng đội là mong manh, thời khắc diễn ra tình huống chóng vánh, phải hoàn thành nhiệm vụ là mệnh lệnh tối thượng. Vì vậy, người chỉ huy phải xử lý nhanh chóng, chính xác và hiệu quả nhất. Có phải như bây giờ đâu mà tế nhị, ngọt ngào, nhẹ nhàng, thưa với gửi!

 Nghe xong, mọi người cùng cười.

Anh Võ Chót quê ở Khánh Hòa, cùng tuổi Tý, hơn tôi tròn một giáp ( 1936 ), đi bộ đội từ kháng chiến chống Pháp. Năm 1955, anh Chót tập kết ra miền Bắc trong đội hình Sư đoàn 324 đóng quân ở Đô Lương ( Nghệ An ). Tôi nghe kể, hồi đó anh Chót là chiến sĩ tiếp phẩm, nuôi quân. Hàng ngày với chiếc xe đạp cà tàng không chuông, không phanh, không gác đờ bu, anh Chót đi các chợ trong vùng về nấu cơm cho đơn vị. Có một buổi sáng mùa Đông năm ấy, trời lạnh rét, chiến sĩ nuôi quân Võ Chót 19 tuổi đang xới cơm từ chảo quân dụng chia ra mâm cho bộ đội, thì có một cô bé gái chừng 12, 13 tuổi đói bụng quá, cõng em trai thơ thẩn đứng nhìn. Thấy thế, anh Chót thương tình đưa cho một miếng cháy và nói, này em bé cầm lấy mà ăn cho no, mau to, bữa sau anh lấy em làm vợ. Ai ngờ, câu nói vu vơ đó về sau thành hiện thực. Cô bé cõng em ngày đó là chị Nguyên vợ anh Chót bây giờ. Còn nhớ, năm 2013, nhân dịp chúng tôi về Huế dự Kỷ niệm 45 năm Chiến thắng Mậu Thân, khi đến viếng Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố, tôi vui vẻ kể lại chuyện này cho mọi người cùng nghe. Chị Nguyên cười đưa tay đấm vào lưng tôi mà nói rằng, chuyện chú Đẩu kể thì đúng hết, nhưng thiếu một chi tiết : giữa hai miếng cháy anh Chót đưa cho tôi ngày đó còn có một miếng thịt lợn ăn ngon lắm!

Tạ Ngọc Dũng chiến sĩ điện đài vốn trước đó là liên lạc Đại đội đươc cử đi học điện đài vô tuyến điện 2 Oát ( 2 W ). Quê Dũng ở xã Nam Cường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Năm 2001, khi còn ở Trường Sĩ quan Lục quân 1, trong một chuyến công tác Thái bình, tôi đã tìm về nhà Dũng. Theo địa chỉ trong lý lịch quân nhân mà tôi còn nhớ, tôi hỏi về thăm nhà ông Tạ Ngọc Bẩu là thân sinh của Dũng. Đến đầu xóm, mọi người bảo, cụ Bẩu đã mất từ lâu, chỉ còn ông Dũng thôi. Vào nhà hỏi thăm, thì Dũng đang ở ngoài đồng tôm sát mép biển.

Giữa trưa Hè nắng chói chang, tôi lững thững đi bộ tìm ra ruộng tôm cách nhà gần 2 cây số. Đứng trên bờ nhìn xuống, đang xoay trần giữa ruộng là một ông già khô đét, đen đúa, tóc bạc trắng, mí mắt đã bắt đầu sụp xuống. Dũng sinh năm 1951, nhập ngũ 1968, bổ sung vào Đại đội tôi sau Chiến dịch Mậu Thân. Hình ảnh Dũng đọng lại trong trí nhớ của tôi là một thanh niên to khỏe, đẹp trai, da trằng hồng, môi đỏ tươi như môi con gái. Thầm nghĩ, mình đã nhầm, tôi cất tiếng hỏi :

-  Ông ơi, cho tôi hỏi có phải ông là Dũng?

Người đàn ông vẫn đang khua tay làm việc, không thèm ngước lên, giọng vùng vằng, gằn đục:

-  Dũng ở đây nhiều, ông hỏi ai?

- Tôi hỏi ông Dũng Đặc công - Tôi từ tốn nói lại.

-  Ối dào! Công với queo gì bây giờ nữa!

- Tôi muốn gặp ông Dũng con trai cụ Bẩu - Tôi tiếp tục kiên trì hỏi.

Nghe tôi nói thế, Dũng trừng mắt lên, hỏi dồn:

-  Này ông kia! Bố tôi mất lâu rồi nhé. Cớ làm sao mà ông biết cả tên bố tôi hở?

Biết chắc là Dũng rồi, không cần phải giữ phép lịch sự nữa, tôi hét to:

- Trời đất ơi ! Mày quên tao thật rồi Dũng ơi. Tao là Đẩu - là Nguyễn Mạnh Đẩu Chính trị viên Đại đội 20 Đặc công đây.

Dũng ngớ người ra, tất tả lật đật chạy từ ruộng tôm lên bờ, tay chân còn be bét bùn, ôm choàng lấy tôi, thảng thốt nghẹn ngào, nước mắt cứ thế chảy, giọng nghẹn ngào, rưng rưng:

- Trời ơi ! Đúng thật anh Đẩu. Anh Đẩu thật rồi. Anh còn sống ư. Mấy mươi năm nay rồi, bọn chúng em đều đinh ninh là anh đã hy sinh do bị bom trên đường cáng thương ra Bắc. Anh ơi! Mới đó đã tròn 30 năm rồi. Đại đội ta ngày đó có hơn 100 anh em. Bây giờ còn được mấy người !

Hôm đó trong căn nhà lộng gió biển của Dũng, hai anh em bùi ngùi hồi tưởng chuyện của một thời trận mạc, điểm danh lại ai còn ai mất.

 

Đường 9 - Nam Lào từ lâu vốn là hậu phương của ta. Khi địch bắt đầu cuộc hành quân Lam Sơn 719, theo chủ trương của trên, nhân dân trong vùng và một vài đơn vị bảo đảm hậu cần – kỹ thuật ở Đoàn 559 đều sơ tán hết về phía sau.Vì rút vội, trong các bản làng còn bỏ lại nhiều trâu, bò, lợn, gà thả rông. Có cơ sở hậu cần  của Đoàn 559 còn ngổn ngang lương thực, thực phẩm: Gạo, lương khô, thịt hộp, đường, sữa.

Đơn vị vừa hành quân từ tây Thừa Thiên ra, vốn từ lâu rồi thiếu thốn mọi thứ. Chỉ huy cấp dưới đề nghị tôi cho anh em dùng những thứ mà đồng bào và các đơn vị bỏ lại. Mọi người lập luận rằng, những thứ đó rồi cũng sẽ mất hết thôi. Hoặc là, bị bom đạn tàn phá. Hoặc là, khi mình rút đi, quân ngụy đến đây nó sẽ vơ vét hết. Chi bằng, cho bộ đội ăn, chẳng phương hại gì mà còn góp phần bồi dưỡng sức khỏe để chiến đấu. Nghe ra có lý, tôi đồng ý cho phép các mũi (trung đội), tổ (tiểu đội) được mổ lợn, gà ăn thịt tại chỗ và được lấy thịt hộp, lương khô, đường, sữa mang theo khi hành quân chiến đấu. Nào ngờ, không biết có ai đó “phản ánh kịp thời”, Thủ trưởng Trung đoàn biết hết mọi việc. Hôm tôi về dự họp Đảng ủy Tham - Chính để sơ kết đợt 1 của Chiến dịch. Trong chương trình Hội nghị, anh Trần Đình Vàng, Phó chính ủy Trung đoàn, Bí thư Đảng ủy, yêu cầu phải kiểm điểm tôi về việc đó. Anh Vàng và một vài anh Đảng ủy viên phát biểu lập luận chặt chẽ, thái độ và lý lẽ gay gắt. Họ cho rằng, trong chiến đấu, tôi đã để đơn vị vi phạm chính sách dân vận – một chính sách lớn của Đảng, quân đội - và tự động lấy lương thực, thực phẩm trong kho dự trữ chiến lược của Đoàn 559.

Nghe phân tích mãi, ù cả tai, nóng mặt, tôi xẵng giọng cãi bướng :

 - Ừ thì, bây giờ ngồi đây, các anh tiếc mấy con gà, con lợn bỏ hoang và mấy trăm cân đường sữa, lương khô, thịt hộp vương vãi do đơn vị bạn vứt lại, rồi qui kết nọ kia. Các anh có biết rằng, ở dưới đơn vị, cơ động chiến đấu liên tục, anh em thiếu đói, ốm yếu thế nào không? Lãnh đạo cấp nào thì bao giờ cũng phải quan tâm đến đời sống của anh em chứ! Hôm nay, tôi còn sống về đây, các anh đè ra kiểm điểm. Chứ hôm qua, tôi chết rồi thì kiểm điểm ai?

Tôi vừa dứt lời, anh Vàng nói như quát lên, giọng Quảng Ngãi nghe quyết liệt, chát chúa:

- A, đồng chí Đẩu dám nói thế à? Đồng chí cậy đánh được một số trận, thì kiêu binh hử? Quân đội ta khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Chúng tôi biết chứ. Đồng chí chỉ huy chiến đấu giỏi, dũng cảm thì tùy theo thành tích để đề nghị trên khen thưởng Huân chương các loại - kể cả việc tuyên dương là Anh hùng đi nữa. Nhưng, không vì thế mà buông tha khuyết điểm. Vi phạm chính sách, thì phải thi hành kỷ luật thật nghiêm để làm gương. Bất kể là ai đi nữa!

 Tự biết mình sai, nhưng tôi phát hiện ra trong lời phát biểu của anh Vàng có một chỗ hớ, có thể lách được. Tôi đứng dậy, từ tốn phát biểu:

- Kính thưa đồng chí Bí thư Đảng ủy, kính thưa các đồng chí! Tôi nhất trí ý kiến của đồng chí Bí thư Đảng ủy. Có công thì thưởng. Có tội thì phạt. Nhưng thưởng hay phạt đều phải công minh, chính xác, kịp thời và phải thực hiện đúng nguyên tắc, qui trình, thủ tục. Có như thế mới có tác dụng giáo dục sâu sắc. Bởi thế, tôi đề nghị, trước khi kỷ luật tôi, Đảng ủy cần cho người xác minh để có kết luận chính xác, cụ thể.

Tôi nói xong, mọi người nhất trí. Hôm sau Trung đoàn cho mấy anh cán bộ xuống điều tra, xác minh. Khi gặp gỡ tiếp xúc với cán bộ chiến sĩ trong đơn vị, mọi người đều nói rằng, có việc đó thật, nhưng đây là do anh em tự động làm. Thủ trưởng Đại đội không có chủ trương và cũng không biết. Thế là, mấy ngày sau, Trung đoàn có quyết định kỷ luật khiển trách Ban chỉ huy Đại đội 20 đặc công vì đã để cho đơn vị vi phạm chính sách. Như vậy là kỷ luật tập thể. Vì thế, trong lý lịch cán bộ của từng chúng tôi, chẳng ai ghi điều này.

19 năm sau, năm 2000, trong lần tôi vào công tác ở Nha Trang, tìm đến nhà thăm anh Trần Đình Vàng. Anh ghì chặt vào người, cà bộ râu lốm đốm bạc lên mặt tôi.

-         Chu cha ! Thằng Đẩu, mày lên tướng rồi à ! Tuyệt quá !

Anh quay sang nói với gia đình và mấy người cùng đi:

- Thằng này trưởng thành thế này là phải. Nó chiến đấu được lắm. Mưu trí, dũng cảm, lại sôi nổi hăng hái nữa. Nhưng nó cũng bướng, lại hay cãi cấp trên. Nó thế đấy, mà ở đơn vị ngày đó, ai cũng quí nó.

Nói rồi, anh bắt tôi đứng ra giữa nhà, vạch áo lên cho mọi người xem vết thương. Anh nói:

- Đây này, thấy không, nó bị thương nặng thế này. Hồi đó, cả đơn vị, ai cũng nghĩ rằng, nó sẽ không thể qua được.

 Anh Vàng mất năm 2009, thọ 83 tuổi. Mấy ngày sau khi anh mất, tôi đọc báo Quân đội nhân dân mới biết tin. Không vào Nha Trang dự lễ tang anh được, tôi gọi điện chia buồn với con trai anh là Đại tá, Tiến sĩ Trần Đình Việt, phó Giám đốc Học viện Hải quân.

Ngày 20 tháng 3 năm 1971, tôi với anh Xuân đại đội trưởng lên Trung đoàn nhận nhiệm vụ. Cùng dự với chúng tôi có chỉ huy Tiểu đoàn 9 gồm anh Hồ Hữu Lạn, tiểu đoàn trưởng và anh Lê Hồng Hải, chính trị viên. Nhiệm vụ Trung đoàn giao cho Đại đội đặc công chúng tôi phối hợp với Tiểu đoàn 9 bộ binh cùng với Trung đoàn 1 đánh vào cao điểm 550 nhằm tiêu diệt Lữ đoàn 147 của địch. Sau khi nghe anh Hoàng Trọng Thế trung đoàn trưởng cùng anh Lê Văn Dánh chính ủy phổ biến tình hình và giao nhiệm vụ, chúng tôi bàn phương án tác chiến. Theo đó, mục tiêu tấn công là Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến ngụy đang chiếm giữ điểm cao 550. Hướng tấn công chủ yếu sẽ tiến hành từ phía đông lên. Vì ở hướng đó có độ dốc rất cao, chắc địch cho là ta không thể lên được nên ít đề phòng hơn. Khi ta đã lên được, từ trên cao đánh xuống, địch sẽ bị bất ngờ, khó đối phó. Đặc công sẽ là mũi đột kích chủ yếu. Đại đội 11 bộ binh tiếp ứng với đặc công. Đại đội 12 hỏa lực sẽ dùng cối 82ly và ĐKZ chi viện trong quá trình tác chiến.

Chiều ngày 21 tháng 3 năm 1971, chúng tôi bắt đầu tiếp cận vào vị trí tập kết ở chân cao điểm 550. Đến 7 giờ tối, trút bỏ lại những thứ không cần thiết, chúng tôi bắt đầu tiềm nhập vào cứ điểm địch. Độ dốc rất cao, gần như thẳng đứng, cây cối lúp xúp, lại có nhiều phiến đá lớn, chúng tôi phải dùng giây làm thang, rồi từng người bám vào leo dần lên. Đến 12 giờ đêm, khi cả đội hình đã lên gọn ở đỉnh dốc, bố trí xong đội hình, tôi mừng lắm. Tôi và anh Xuân trao đổi với nhau, giữ được bí mật bất ngờ, tạo được thế đánh thuận lợi thế này, trận này chắc chắn thắng to. Khi tiếp cận cách quân địch chừng 30 mét, chúng tôi  phát lệnh nổ súng.

Sau khi dùng B40, B41 bắn sập hai lô cốt đầu cầu, từng tổ, theo phạm vi được phân công, lao lên ném thủ pháo, lựu đạn vào công sự địch. Tiếp đó, anh em dùng súng tiểu liên AK lia từng loạt vào dẫy nhà bạt phía trong. Ban đầu do bị bất ngờ, địch choáng váng, chưa kịp phản ứng gì. Nhưng gần 10 phút sau, khi phát hiện được hướng đánh của ta, chúng co cụm chống trả quyết liệt. Địch bắn pháo sáng rực trời. Cả trận địa sáng choang như ban ngày. Từ ụ súng gần đó, một khẩu đại liên bắn xối xả cản bước phát triển của ta. Tôi chỉ thị cho cậu Bình xạ thủ B41 ngắm bắn vào khẩu đại liên. Quả B41 phóng đi, một quầng lửa sáng đi liền một tiếng nổ rất to. Khẩu đại liên địch bị câm họng. Bất ngờ từ phía bên phải, một tên địch phát hiện ra tôi, nó bắn một loạt tiểu liên AR15. Tôi trúng đạn người đổ xuống tại chỗ. Tức thì, cậu Tấn liên lạc bắn trả một loạt AK diệt ngay tên địch. Tôi thấy đau nhói ở lưng, tức ngực, không thở được. Máu ở lưng trào ra. Đồng thời, cả mũi và miệng tôi đều ộc máu, lại phì phò thành bọt theo nhịp thở. Tôi cũng không hiểu tại sao. Chắc viên đạn cắm phập vào phổi, thủng phế quản, máu và hơi thở quyện vào nhau. Mặc dù đau lắm, nhưng tôi vẫn tỉnh táo. Bằng kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm, tôi biết những người bị thương nặng mà còn rất tỉnh thì khó qua khỏi.

Từ phía trong, các loại hỏa lực của địch vẫn bắn ra xối xả. Cậu Tấn liên lạc bế xốc lên và cố dìu tôi vào sau một mô đất gần đó để tránh đạn và cấp cứu. Cậu Đỉnh y tá cầm cả cuộn băng ép chặt vào miệng vết thương và dùng mấy cuộn băng khác quấn chặt mấy vòng quanh ngực, máu mới cầm  và tôi thấy dễ thở hơn. Đau nhức và mệt nữa nhưng tôi vẫn biết diễn biến xung quanh. Chẳng hiểu sao, tôi lại nghe, cách đó dăm mét, cậu Dũng điện đài 2 oát - lúc này đàm thoại với nhau không dùng mật khẩu nữa -  gọi về Trung đoàn và Sư đoàn là:

- Báo cáo các Thủ trưởng, anh Đẩu đã hy sinh tại trận địa!

 Tôi lặng người đi. Nghĩ mình không thể qua được, trong phút chốc, tôi nói với cậu Tấn liên lạc mời anh Xuân đại đội trưởng Đại đội 20 và anh Hứa Tiểu Liên đại đội trưởng Đại đội 11 đang ở cách đó khoảng 10m đến. Khi nhìn thấy tôi, anh Xuân, anh Liên như cùng một lúc thốt lên:

- Trời ơi! Anh bị thương nặng thế này à?!

Tôi gật đầu, thều thào nói trong sự ngắt quãng vì hình như bị trống hơi:

- Các anh ơi! Tôi bị nặng thế này, chắc không qua được.

 Tôi ngẹn lại mất mấy giây, giọng thều  thào:

- Anh em ta đã thương vong khá nhiều… Các anh xốc lại đội hình, dùng hỏa lực chi viện, chỉ huy đơn vị nhanh chóng đánh thốc lên… Bằng mọi giá, phải dứt điểm sớm… Chập chờn, ngập ngừng ở lưng chừng thế này là chết cả đấy.

 Chắc là do hụt hơi, tôi nói quá nhỏ, đứt đoạn. Anh Xuân, anh Liên phải ghé tai thật sát vào tôi đế lắng nghe. Ngừng một chút để lấy hơi, chợt nghĩ về gia đình, tôi kéo anh Liên vào sát miệng mình, dồn hết sức:

- Liên ơi, nhà ông cách nhà mình khoảng hai chục cây số thôi… Ngày toàn thắng, nếu còn sống trở về, ông nhớ đến nhà mình nhé… Nhờ Liên kể với cha mình là,  mình đã hy sinh ở nơi đây, trong trường hợp này.

Con chim sắp chết tiếng kêu thảm thiết. Con người sắp chết lời nói thống thiết. Quả đúng là vậy.

Tôi vừa dứt lời, anh Liên vừa ghì chặt vào tôi vừa ngậm ngùi:

- Vâng! Anh yên tâm, ngày trở về quê, tôi sẽ thưa chuyện lại với ông.

 Anh Xuân cầm chặt tay tôi, giàn giũa nước mắt, giọng nghẹn ngào:

-  Chúng  tôi sẽ trả thù cho anh. Thôi ! đưa anh về phía sau ngay để còn kịp cứu chữa. Cầu mong anh qua được, Anh Đẩu ơi!

 Vừa nói xong,  anh Xuân cho cậu Đỉnh y tá và cậu Tấn liên lạc cõng tôi về phía sau. Trước lúc đi, tôi chẳng nói được gì nữa, chỉ còn đặt bàn tay lên cánh tay anh Xuân, anh Liên. Toàn trận địa sáng trưng, cuộn băng quấn quanh người tôi thì trắng lốp. Bởi thế, quân địch phát hiện được nó bắn đuổi theo, đạn cày xới xung quanh. May không ai trúng đạn.

 Tôi có ngờ đâu đó là lần tôi chia tay anh Xuân vĩnh viễn. Sau Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, anh Xuân được bổ nhiệm tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 9 và đã hy sinh năm 1972 tại Động Tranh, Thừa Thiên. Còn anh Liên quê ở xã Hưng Lộc, huyện Hưng Nguyên, tỉnh  Nghệ An  công tác trong quân đội đến Ngày Giải phòng hoàn toàn Miền Nam, là cán bộ ở Bộ Tham mưu Quân đoàn 2. Hiện nay anh đã nghỉ hưu ở quê.

Khi Đỉnh vừa cõng đến mép dốc, tôi thấy anh Trương Anh Dung đã chờ sẵn. Chắc là anh ấy biết trước qua điện đài báo về. Anh Dung ghé vai cõng tôi, bám giây tụt dần xuống. Xung quanh đó đạn pháo địch bắn liên hồi. Có quả nổ rất gần. Quả thật, anh Dung khỏe vô cùng. Lúc đó tôi nặng 62 kg, anh còn to hơn, nặng  hơn. Tôi đã kiệt sức chỉ còn bám được vào cổ anh. Thế mà chỉ bằng đôi tay trần, anh bám giây guồng xuống tận chân cao điểm. Nếu anh tuột tay, cả hai anh em sẽ lao xuống vực sâu thẳm mà chết. Khi tụt xuống đến chân cao điểm, anh Dung đưa tôi vào hầm. Anh Nguyễn Văn Toàn trung đoàn phó ôm choàng lấy, ghì mặt vào người tôi. Rồi anh rút túi lấy ra nhét vào miệng tôi một miếng sâm Cao Ly. Tôi hồi tỉnh lại có lẽ nhờ miếng sâm đó.

Hồi ấy, ở chiến trường chỉ có cán bộ cấp Trung đoàn trở lên, lâu lâu, mới được cấp một củ sâm để bồi dưỡng sức khỏe. Có thể, đó là miếng sâm cuối cùng còn lại, anh Toàn dành cho tôi trong lúc nguy kịch. Tôi cảm động lắm, không bao giờ quên việc này. Anh Toàn quê ở xã Hòa Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, vốn là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 đặc công được điều động sang giữ chức Trung đoàn phó Trung đoàn tôi. Anh đã hy sinh năm 1972 ở tây Thừa Thiên.

Đến rạng sáng hôm sau, các anh cho người cáng tôi lên Sư đoàn. Trên đường đi, máy bay và pháo địch bắn phá ác liệt. Có lần bị một quả pháo nổ cách chúng tôi một đoạn ngắn. Cáng đứt giây rơi phựt xuống, tôi bị bật ra ngoài. Tôi nằm trên cáng thì không sao. Nhưng có một người đang cáng tôi, bị trúng mảnh đạn hy sinh. Dừng lại bên đường, an táng xong người vừa mất, anh em lại đặt tôi lên cáng đi tiếp. (Tôi ân hận là mãi đến bây giờ, tôi cũng không biết được tên người hy sinh đó là ai. Sau này nhiều lần tôi hỏi thăm một vài người mà không ai nhớ nổi).

Khoảng 10 giờ trưa ngày 23 tháng 2 năm 1971, anh em cáng tôi về đến Sở chỉ huy Sư đoàn. Biết tin, các anh: Chu Phương Đới tư lệnh Sư đoàn, Nguyễn Xuân Trà chính ủy Sư đoàn; anh Ma Vĩnh Lan tư lệnh phó Sư đoàn và cả anh Lê Văn Dánh chính ủy Trung đoàn đều đến thăm tôi. Chắc các anh cũng thấy lạ. Đêm qua, nhận được báo cáo qua điện đài là tôi đã hy sinh, nhưng bây giờ tôi còn sống trở về. Các anh cầm tay tôi, chăm chú xem vết thương rồi hỏi han tôi và tình hình trên Cao điểm 550. Mặc dù đã yếu lắm rồi, nằm bất động trên võng, tôi cố gượng sức mình, thều thào nói vắt tắt với các anh về diễn biến trận đánh tính đến thời điểm tôi bị thương. Chưa yên tâm, tôi đề nghị các tăng thêm lực lượng để nhanh chóng dứt điểm. Càng để lâu, bộ đội sẽ thương vong nhiều hơn. Chắc giọng nói của tôi nhỏ lắm và lại đứt đoạn nữa, bởi thấy các anh ghé thật sát vào người tôi vừa chăm chú nghe vừa gật gật đầu.

 Nghe tôi nói xong, các anh biểu dương và tỏ ra tán thành với đề nghị của tôi. Mọi người chia tay tôi, trở về Sở chỉ huy. Riêng anh Dánh nán lại lâu hơn. Ghé thật sát, nhìn kỹ vết thương tôi lần nữa, anh rơm rớm nước mắt và xúc động nói:

- Đẩu ơi! Chúng ta chiến đấu với nhau bao nhiêu năm rồi. Em là người được anh em trong đơn vị ta  tin tưởng và quí mến. Trung đoàn, Sư đoàn ghi nhận thành tích của em và sẽ đề nghị lên trên khen thưởng em xứng đáng. Anh mong em qua khỏi!

Nghe anh Dánh nói, tôi nấc lên, nghẹn lòng, không đáp được lời nào. Tôi coi những lời biểu dương ngắn gọn, chân thành của anh là phần thưởng đích thực đối với tôi. Anh ôm chặt lấy tôi, rồi quay mặt đi gạt nước mắt trước lúc chia tay. Chắc anh nghĩ rằng, với tình trạng vết thương như thế, tôi không thể qua được, đây là lần anh em gặp nhau cuối cùng, chia xa vĩnh viễn.

 Sau này khi bình xét khen thưởng, tôi được đơn vị đề nghị và được trên quyết định tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng Hạng Nhì vì đã trực tiếp chỉ huy chiến đấu dũng cảm, lập thành tích xuất sắc. Bị thương nặng vẫn vững vàng, tỏ rõ quyết tâm, động viên đơn vị tiếp tục chiến đấu.

Rời Sư đoàn, anh em không cáng tôi xuôi ra Miền Bắc mà lại ngược vào phía Nam, vào Viện 68 của Quân khu Trị Thiên Huế. Thương binh trong Chiến dịch Đường 9-Nam Lào đưa vào đây khá nhiều. Đủ các loại vết thương, không phân biệt nặng nhẹ và bị thương vào đâu, chúng tôi nằm xếp thành dài trên sạp nứa  trong các lán. Hàng ngày, các y tá, y sĩ  lần lượt thay băng, tiêm thuốc cho thương binh. Các vết thương nặng đều phải phẫu thuật. Phòng mổ làm việc liên tục suốt ngày đêm mà vẫn không kịp. Nhiều thương binh nặng, do không đủ phương tiện và khả năng chữa trị, đã hy sinh. Ngay sau bệnh viện là một nghĩa trang khá lớn.

Khi khám cho tôi, các bác sĩ kết luận là, tôi bị đạn bắn gãy xương sườn, xuyên thấu phổi, thủng phế quản, gây tràn dịch màng phổi. Sau này tôi mới biết, với loại vết thương này, nếu có điều kiện như ở những bệnh viện bây giờ, thì chỉ cần mổ ra, gắp viên đạn, khâu lại lỗ rò phế quản, thì không thành thương tật nặng. Nhưng thuở đó, điều kiện chiến trường, thiếu thốn mọi thứ. Thầy thuốc chuyên khoa, thuốc men và phương tiện đều thiếu. Mổ phổi là đại phẫu thuật. Viện 68 không đủ khả năng tiến hành. Chỉ còn cách tiêm kháng sinh liều cao, chọc dò hút dịch. Hàng ngày, các bác sĩ đến dựng tôi dậy, cởi áo ra, dùng cồn i-ốt sát trùng khắp cả một lượt, tiêm thuốc giảm đau rồi dùng một cái xi lanh to gần bằng cổ tay, cắm phập một cái kim dài hơn  10 cm vào ngực, vào lưng để chọc hút dịch, máu mủ. Có bữa hút được một cốc đầy dịch, nhìn như máu cá. Khi chưa hút thì tức ngực, khó thở. Khi hút được rồi thấy dễ chịu hơn.

Ban đầu mỗi ngày hút một lần. Sau đó mỗi ngày phải hút hai lần tôi mới chịu được. Nhưng vết thương của tôi ngày một nặng lên. Đau nhức, tức ngực, khó thở và luôn sốt về chiều tối. Mấy ngày sau,  dùng kim loại to cũng không hút được nữa, vì dịch trong phổi đã thành mủ đặc quánh. Tôi càng đau nhức và khó thở hơn. Phải đặt tôi nửa nằm, nửa ngồi mới thở được. Sốt cao, li bì, liên miên - nhất là về buổi chiều và tối. Mỗi ngày tôi một yếu lả đi. Có mấy thương binh nằm cạnh đã ra nghĩa trang. Tôi nghĩ mình sắp đến lượt.

Sau chiến thắng của Chiến dịch Đường 9-Nam Lào, cấp trên khao quân. Ở bệnh viện, cứ hai thương binh được cấp một hộp thịt hộp. Lúc chiều tối, chị y tá mang đi cấp phát và nói như vậy. Tôi và một thương binh tên là Thanh, cỡ tuổi tôi,  bị thương vào đầu, nằm cạnh. Khi nhận rồi, với ánh nhìn hiền hậu, chân thành, Thanh nói với tôi:

- Thôi! ông giữ lấy mà ăn bồi dưỡng sức khỏe để còn mổ. Mình nặng lắm, chắc không sống được nữa đâu. Ăn chẳng để làm gì!

 Tôi nhìn anh đau đớn, vì tin đó là sự thật. Và đến khuya, anh ấy kêu đau thảm thiết quá, bác sĩ chạy đến cấp cứu tại chỗ, thấy anh giãy dụa một lúc rồi tắt thở. Nhân viên bệnh viện chuyển anh ra nghĩa trang ngay trong đêm. Cảnh này diễn ra nhiều lần, anh em thương binh chúng tôi chỉ buồn thương đồng đội, chứ không bất ngờ. Sáng ngày nhìn sang cái dằm nằm trống trếnh bên cạnh và nhìn lại hộp thịt chỏng chơ, tôi ngao ngán, ngậm ngùi và thương xót Thanh vô cùng. Rồi, giống như Thanh, tôi cũng chuyển hộp thịt đó cho người khác, không tài nào ăn được.

Mấy ngày sau, khi khám cho tôi, bác sĩ cho rằng, mủ trong lồng ngực nhiều hơn, đặc hơn, dùng kim không hút ra được nữa, chèn ép phổi, gây tức thở . Xét thấy, cứ đà đó tôi ngày một yếu đi và sẽ không qua khỏi, bác sĩ Sùng, chủ nhiệm Khoa ngoại quyết định mổ đặt ống dẫn lưu vào thẳng trong lồng ngực để thoát mủ ra ngoài. Tôi được đưa lên bàn mổ vào lúc chập tối một ngày cuối tháng 3 năm 1971, tôi không nhớ ngày cụ thể.

Phòng mổ đặt trong một căn hầm lộ thiên. Không có điện, phải dùng đèn Đi-a-mô. Tức là, có một người đạp như đạp xe đạp để quay phát điện làm sáng đèn. Đạp có nhanh đèn mới sáng. Dừng lại thì đèn tắt. Bác sĩ cầm dao mổ dưới ánh đèn phập phù đó. Khi mổ chỉ dùng thuốc tê, nên tôi nghe và biết hết. Các anh ấy banh cái xương sườn đã bị gãy của tôi lên, cầm một ống xông cao su  bằng con lươn nhỏ, có đầu mà trên đó có nhiều lỗ, đẩy sâu vào lồng ngực tôi, tức thì mủ ở trong chảy trào ra. Dẫu đau lắm, nhưng tôi mừng vì thấy dễ thở hơn. Hơi thở dài, sâu hơn; không ngắn và gấp gáp như trước đó. Các anh đưa tôi về lán kèm theo sợi dây dẫn lưu từ ngực tôi ra một bình thủy tinh – hình như vốn là bình đựng thanh huyết. Cứ thế, mủ trong người tôi cứ chảy thoát tự nhiên ra ngoài.

Điều trị tiếp ở Viện 68 mấy ngày nữa, tôi được chuyển ra Miền Bắc theo tuyến giao liên 559. Theo qui định, thương binh nặng thì chuyển ra Bắc, thương binh vừa và thương binh nhẹ thì để lại điều trị đến khi khỏi, trở về đơn vị chiến đấu. Ai được đưa ra Bắc tức là đã bị loại khỏi vòng chiến đấu. Có thể, có người vui vì được trở về Miền Bắc. Với tôi, biết chắc rằng, nếu để lại chiến trường, thì tôi sẽ chết vì vết thương quá nặng. Nhưng ngày đó, vừa bước sang tuổi 23, còn say mê lý tưởng, dạt dào khát vọng mà đã thuộc diện bị loại ra khỏi cuộc chiến đang hào hùng, sôi động, tôi tủi thân và buồn lắm. Chẳng huyễn hoặc, chẳng lên gân lên cốt gì đâu. Tuổi trẻ chúng tôi lớp lứa đó là vậy.

Ngày đầu cáng tôi  lên đường, đi qua gần chỗ đơn vị đóng quân. Vì đã biết trước, cả đại đội đặc công, lúc đó còn lại khoảng hơn 50 người, ra đón đường chia tay tôi. Hơn một tháng sau bị thương, sức khỏe tôi yếu lắm, người gầy rộc đi. Cáng dừng lại. Tôi cứ nằm bất động trên cáng. Lần lượt từng anh em đến cầm tay tôi ngậm ngùi xúc động. Hầu như người nào cũng khóc. Mấy cậu liên lạc Đại đội khóc rất to, thảm thiết. Nước mắt tôi cứ thế chảy ra, chẳng còn sức mà khóc nữa, tôi nấc lên ngẹn ngào. Chúng tôi biết rằng, đây là lần chia tay cuối cùng. Mà quả thật, kể từ ngày đó đến hết cuộc chiến,  số anh em bạn bè tôi thuở ấy ở lại chiến đấu nhiều người đã hy sinh. Số còn lại đến bây giờ mà chúng tôi thỉnh thoảng vẫn họp mặt nhau, khi Thái Bình, lúc Nam Định, Thanh Hóa, chỉ còn chưa đến chục người. Đúng là những hạt gạo trên sàng. Khi chia tay, lo cho tôi vết thương nặng, sức yếu, đường xa, dẫu chẳng có gì, anh em gom góp lại vài cân đường, dăm hộp sữa để tôi bồi dưỡng và mấy vật chiến lợi phẩm của Mỹ như đèn pin, bi đông, ka uống nước, võng dù,… tặng tôi làm kỷ niệm. Tất cả dồn lại đựng vào một cái gùi, giao cho người cáng mang theo tôi.

Thường xuyên có ba người thay nhau cáng tôi và mang ba lô đi cùng. Đường đi khi lên núi, xuống đèo, lúc nắng gay gắt, lúc mưa dầm dề, đương gồ ghề trơn trượt, anh em vất vả. Mỗi ngày qua một cung trạm. Cứ tối đến, quân y của trạm dùng xi lanh hút mủ từ trong lồng ngực tôi qua ống dẫn lưu ra ngoài. Rồi thay băng, tiếp tục tiêm thuốc kháng sinh.

Cáng bộ được hơn 10 hôm, tức là qua được 10 trạm giao liên. Đến một ngày các anh chuyển tôi từ trạm giao liên ra đường cái để đưa lên  xe ô tô vận tải. Tôi được đưa lên ô tô cùng với mấy thương binh nữa. Khi nhìn thấy tôi, các anh phụ trách vận chuyển bằng ô tô ái ngai, lo lắng. Họ cho rằng, đường chiến lược trong rừng rất xấu, xe xóc rất mạnh, mà vết thương của tôi thì quá nặng. Đắn đo hồi lâu, các anh quyết định để tôi ở lại để cáng bộ. Nhưng lúc gọi mấy chiến sĩ tải thương của trạm giao liên để trả tôi lại, thì họ đã quay về trước đó, không còn ai nữa. Tải thương trên ô tô chỉ có hai người phải lo cho mấy thương binh. Vì vậy, sau một hồi suy xét, không còn cách nào  khác, các anh đành để tôi lại và cho rằng trên đường giao liên với nhiều người qua lại, chắc chắn sẽ có người gặp và chuyển tôi về trạm. Chứ nếu chuyển bằng ô tô, tôi không chịu nổi mà sẽ hy sinh trên đường.

Vậy là, một mình tôi bơ vơ nằm trên cánh võng, giữa rừng, cạnh chỗ giao nhau của đường giao liên bộ với đường ô tô. Ban đầu, với vết thương đau nhức, khó thở, sức đuối lắm, tôi  hoang mang, lo lắng vô cùng. Nằm trên võng, tôi chăm chú nghe ngóng và khát khao có ai đi trên đường giao liên không. Tôi mong manh chờ mãi… chờ mãi…chẳng thấy gì. Thời gian dần trôi, bốn bề vắng lặng, tôi khắc khoải vô vọng. Nghĩ rằng, với vết thương nặng thế này, mình sẽ bị chết ở đây. Nhưng ngay sau đó, giữa lúc vô vọng nhất, tôi trấn tĩnh lại, trong cuộc chiến đấu  quyết liệt với quân thù, cùng trang lứa đã có bao người  hy sinh, nay đến lượt mình vì vết thương quá nặng, âu cũng là tất yếu. Nắng chiều nhạt dần, trời sắp tối. Tôi đưa tay lấy tập giấy tờ để trên võng, ra đọc. Trong đó có ba loại giấy: Giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng, Giấy chứng nhận bị thương, Giấy chuyển thương. Ở Giấy chuyển thương, tôi thấy trong mục khi cần báo tin cho ai, ai đó đã viết nhầm tên cha tôi là Nguyễn Văn Hòa. Sợ nếu mình hy sinh, báo tử nhầm địa chỉ, tôi lấy bút bi đang cài ở túi ngực chữa lại chữ Hòa thành chữ Hòe bằng chữ in hoa hẳn hòi, cho đúng. Tiếp theo, ở ô trống còn lại, tôi viết thêm lời nhắn nhủ: “Các đồng chí ơi, tôi đã hy sinh ở đây!”. Viết xong, vuốt lại tờ giấy cho thẳng hơn, tôi cho vào túi. Rồi mệt quá đến kiệt sức, hình như vết thương không còn đau nhức nữa,  tôi lịm đi, thiếp dần, mơ màng, bồng bềnh như vào giấc ngủ…

  Vậy rồi, đến khi từ từ khi mở mắt ra, tôi lạ lùng thấy mình đang nằm trên một cái lán nứa dưới mái nhà tranh. Nghĩ là, mình đang nằm mơ, đưa tay cấu vào chân thấy đau, tôi mới cho là thật. Tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Phía trên thấy có một chai thanh huyết đang truyền vào người tôi. Ghé nhìn sang cạnh đó, một chị chắc là y tá đang ngồi chăm chú nhìn tôi. Ngoài kia ánh sáng ban mai chói lòa. Thấy tôi động đậy, ú ớ, chị y tá nói như reo lên:

- Ồ! tỉnh lại rồi hả. May quá!

Khi đã tỉnh hẳn, hỏi chị y tá, tôi mới biết, tối qua có Đoàn cán bộ Dân Chính từ phía Nam ra. Trên đường bất chợt nhìn thấy tôi đang mê man bất động trên chiếc võng ở gốc cây bên vệ đường. Họ thay nhau cáng tôi đi và hỏi thăm tìm đường đến Đội Điều trị. Họ tìm được Đội Điều trị lúc khoảng 2 giờ sáng. Cáng tôi vào đây bàn giao cho quân y rồi họ đi tiếp.

Khi tiếp nhận tôi trong tình trạng đang hôn mê, các bác sĩ đã kịp thời tiến hành hồi sức cấp cứu. Sau đó, họ căn cứ vào những giấy tờ hiện có của tôi, kết hợp với khám xét vết thương thực thể để lập bệnh án bổ sung.  Mấy hôm sau tỉnh hơn, tôi được biết, đây là Đội Điều trị 59 của Đoàn 559. Bác sĩ Lợi là Đội trưởng Đội Điều trị. Trong Đội Điều trị còn có anh Thơm quân y sĩ quê ở xã Nghi Hải, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, cũng thường xuyên chăm sóc tôi. Chị y tá trực bên tôi ngày mới đưa vào cấp cứu tên là Nguyễn Thị Huệ, quê ở Chương Mỹ -Hà Tây. Sau này, năm 1977, khi tôi tái phát vết thương vào điều trị ở Viện 108, có gặp lại chị  Huệ lúc đó là y tá trung cấp của Khoa B5 – phẫu thuật lồng ngực.

Thời gian điều trị ở Đội Điều trị 59, do vết thương ngày càng nặng hơn, có lúc nguy kịch, tôi phải cấp cứu mấy lần. Tôi nhớ một lần tôi không thở được, có bác sĩ đề nghị mổ nới nội khí quản đưa ra ngoài để thở. Với ánh nhìn đăm chiêu suy nghĩ lung lắm, sau một lúc xem xét kỹ vết thương và đọc lại bệnh án của tôi, bác sĩ Lợi đội trưởng quyết định không mở nội khí quản. Ông vừa chăm chú nhìn tôi một cách thương cảm, vừa từ tốn rành rọt nói với mọi người:

- Cậu này còn trẻ quá. Mổ ra, mở nội khí quản để thở là giải pháp tình thế bất đắc dĩ. Có thể giải quyết qua cơn cấp cứu. Nhưng khi lắp lại khí quản, ngộ nhỡ chạm đến giây thanh quản mà gây ra câm, thì tội vô cùng. Thôi! Cứ cấp cứu bằng nội khoa. Tiêm Lu-ba-lin trợ hô hấp và tiêm u-a-ba-in trợ tim, cần thiết thì tiêm moc-phin giảm đau đi đã.

 Thế rồi, dưới sự chỉ đạo và trực tiếp điều trị của bác sĩ Lợi, tôi qua được và khỏe dần lên. Lúc đó, vì rất lo lắng đến tính mạng, nên mặc dù trong trường hợp nguy kịch, tôi vẫn còn tỉnh, chăm chú nghe. Trọn đời, tôi chịu ơn của của bác sĩ Lợi. Ngày đó, nếu không có kinh nghiệm và sự quyết đoán của ông, không biết tôi sẽ là thế nào. Tiếc là, sau ngần ấy năm trời, tôi chưa có dịp nào gặp lại bác sĩ Lợi.

 Điều trị ở Đội Điều trị 59 khoảng hơn 10 ngày, tôi lại được tiếp tục đưa ra Bắc theo tuyến chuyển thương. Lại nằm trên cáng lênh đênh dọc tuyến giao liên. Tôi nằm trên đôi vai của các chiến sĩ tải thương khi lên núi, lúc băng đèo, lội suối với biết bao vất vả, gian truân và có khi còn bị máy bay oanh kích nữa. Tôi cảm kích và mãi mãi chịu ơn của những đồng đội mà tôi không hề biết tên đó.

 

  Ngày 9 tháng 5 năm 1971, khi đến đất Quảng Bình, tôi được chuyển  bằng  ô tô cứu thương đưa đến Viện 559 ở phía tây huyện Bố Trạch. Dừng lại hai hôm rồi đi tiếp ra Bắc. Tối ngày 12 tháng 5 năm 1971, xe  dừng lại ở một thị trấn để bác sĩ, nhân viên và lái xe xuống ăn cơm. Tôi nằm nguyên trên cáng, hỏi mọi người đây là đâu. Mọi người trả lời là Thị trấn Quán Hành. Tôi bồi hồi khôn tả. Ôi! đây là huyện lỵ huyện Nghi Lộc. Dưới kia về phía đông khoảng 7 cây số là  làng Đại Xá quê tôi. Chính từ nơi đây, 7 năm về trước, tôi, một chàng trai 16 tuổi lên đường nhập ngũ. 7 năm rồi, trong điều kiện chiến tranh, biết bao nhiêu điều xẩy ra, tôi chưa một lần trở lại. Chính trong khoảng thời gian đó, mẹ tôi đã vĩnh viễn đi xa. Từ khi mẹ tôi mất đến lúc đó, tôi chưa hề được thắp một thẻ hương lên phần mộ, cũng như bàn thờ của bà. Tôi ngậm ngùi hồi tưởng về mẹ. Tôi nhớ nhà, nhớ quê kinh khủng mà chẳng biết làm sao. Ngoài kia, khách bộ hành kẻ ngược người xuôi, biết có ai quen để nhắn nhủ đôi điều!

Sau khi dừng lại mấy ngày điều trị ở Viện 111 ở huyện Triệu Sơn – Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 1971, tôi được đưa vào Khoa B5-Viện 108 ở Hà Nội. Ngày đầu tiên nhập viện, qua kiểm tra, tôi chỉ còn cân nặng 36 kg, hồng cầu chỉ còn 1,6 triệu. Da bọc xương, chân tay khăng khiu, teo tóp lại. Tôi nằm bẹp dí và không tự phục vụ được. Mọi việc đều phải có các hộ lý giúp cho. Bác sĩ kết luận là, ở tôi do vết thương để quá lâu, gây mủ phế mạc, tràn dịch màng phổi, dày dính phế mạc, phế quản bị thủng gây rò hơi thở. Phương án mổ được xác định là : cắt mấy cung sườn ở bên phải, phía sau lưng, lấy viên đạn ra,  bóc toàn bộ ổ mủ, trám cơ lỗ rò phế quản. Đây là ca đại phẫu thuật. Sức khỏe hiện tại tôi quá yếu, không đảm bảo cho việc mổ. Vì vậy, phải  vừa tiêm kháng sinh liều cao, vừa bồi dưỡng cho tôi hồi phục sức khỏe.

Hơn 1 tháng sau, ngày 25 tháng 6 năm  1971, cán bộ nhân viên Khoa B5 đưa tôi lên bàn mổ. Kíp mổ cho tôi lúc đó gồm bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, Chủ nhiệm khoa trực tiếp đảm nhiệm, bác sĩ Trần Văn Yến và bác sĩ Phan Thị Ngọc Bích phụ mổ. Ca mổ kéo dài từ 8 giờ sáng đến hơn 10 giờ ngày 25 tháng 6 năm 1971. Mãi tới 3 giờ chiều tôi mới tỉnh lại. Thuốc mê đã tan hết. Miệng đắng ngắt, khô khát.Vết mổ đau nhức lắm. Băng quấn quanh ngực trắng lốp. Có một dây dẫn lưu từ ngực xuống cái lọ đặt ở mép giường. Có một dây truyền thanh huyết. Ba ngày sau mổ, tôi đã có thể đứng dậy được. Tôi hỏi lại thì được biết, kết quả mổ là tốt nhưng vẫn không lấy được viên đạn. Vì nó nằm trong phổi, gần tim. Trên phim X quang thì nhìn rõ nhưng khi mổ ra, máu lênh láng, viên đạn di chuyển sang chỗ khác, không lấy được. Tôi hỏi các bác sĩ, để viên đạn như thế có việc gì không, thì được biết không sao cả. Lâu dần, viên đạn sẽ được mỡ trong cơ thể bọc lại, nằm ổn định trong cơ thể. Vậy là, đến trọn đời, tôi mang một viên đạn trong phổi.

 Sau mổ, tôi hồi phục thể lực rất nhanh. Lợi thế của tuổi trẻ là vậy. Hai tháng sau tôi đã lên được 58 kg. Hàng ngày ngủ dậy tôi đã chạy được mấy vòng quanh viện. Vết thương lành sẹo, thuốc men và ăn uống đầy đủ, sức khỏe hồi phục, tinh thần sảng khoái, tôi mừng vô cùng. Tập thể Khoa B5 Viện 108, đứng đầu là bác sĩ Chủ nhiệm Nguyễn Văn Thọ, bằng tài năng, trách nhiệm và tình cảm của mình đã cứu sống tôi – điều làm cho nhiều người mừng rỡ, ngỡ ngàng. Có thể nói, chính các anh, các chị đã cải tử hoàn sinh cho tôi. Tôi không bao giờ quên.

Ngày đó, tình cảm giữa cán bộ nhân viên quân y với thương, bệnh binh sâu nặng, gắn bó. Không hiểu sao, suốt mấy chục năm, có đến hàng ngàn thương, bệnh binh qua điều trị ở đây, thế mà nhiều  năm sau gặp lại các anh chị vẫn nhận ra tôi. Trong số đó có chị Phan Thị Ngọc Bích, vợ của giáo sư Trần Ngọc Ân. Là người tham gia mổ và trực tiếp điều trị cho tôi, chị thương tôi như em trai vậy.

 Thời gian tôi điều trị ở Viện 108, có cha tôi, chị Hòe, anh Thắng, anh Tần ở quê ra và chị Nam cùng nhiều người bà con ở Hà Nội đến thăm. Tình cảm thân thương quí mến của gia đình, họ hàng lúc đó đã góp phần tiếp thêm nghị lực và sinh khí cho tôi vượt qua sự hiểm nguy của thương tật để từng bước gượng dậy và vươn lên.

 

 

Chương năm

 

                     Về cơ quan Tổng cục Chính trị

 

 

             Cầm tờ giấy ra viện, từ Quân y viện 108, tôi  ra ga Hàng Cỏ đi tầu hỏa về ga Thường Tín, tìm đến Trạm CT 14 đóng ở đình làng Ngọc Hồi. Đây là Trạm thu dung của Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ đón tiếp thu dung thương, bệnh binh ở các chiến trường ra. Căn cứ vào quê quán, cấp bậc, chức vụ, đơn vị chiến trường của từng người, cơ quan cán bộ ở Trạm đề nghị cấp trên phân bổ về an dưỡng tại các Đoàn điều dưỡng thương, bệnh binh ở các tỉnh, quân khu. Tôi được biết, hồi đó thương, bệnh binh ở các chiến trường Miền Nam ra an dưỡng và giải quyết chính sách với số lượng rất đông. Những thương, bệnh binh là hạ sĩ quan thì được đưa về an dưỡng ở các đoàn an dưỡng của các tỉnh, nơi quê quán của họ. Với thương, bệnh binh là sĩ quan thì đưa về các đoàn an dưỡng của các quân khu.

 Đình Ngọc Hồi khá rộng, cách  thị trấn Thường Tín khoảng 2 km, về phía đông nam. Chúng tôi, số thì ngủ trong mấy cái nhà lợp tranh cạnh đình, phần đông trải chiếu ngủ trong đình. Trong khi cấp trên đang xem xét phân tuyến và chờ quân số cho đủ các chuyến xe về các Đoàn điều dưỡng, chúng tôi phải đợi mất mấy ngày. Hàng ngày, chúng tôi,  mấy thương binh mới quen biết, rủ nhau lang thang đi chơi ở ngoài thị trấn Thường Tín và trong các xóm làng lân cận. Với tôi đây là lần đầu tiên ra đất Bắc nên cái gì cũng muốn biết.

 

Ngày 15 thàgs 9 năm 1971, tôi lên xe về Đoàn 251- Quân khu Tả ngạn, được phân về Đội 4 ở trong nhà dân tại xã Toàn Thắng, huyện Kim Động, tỉnh Hải Hưng, cách Trương Xá gần 2 km. Nhân dân ở đây, mặc dù đời sống còn khó khăn, nhà cửa chật hẹp, lại mới qua trận lụt nặng nề, nhưng đón tiếp chúng tôi rất niềm nở, tận tình. Các gia đình đã co lại phần sinh hoạt của mình, dành giường chiếu cho thương binh.  Hồi đó, hình như bất cứ ở đâu trên Miền Bắc, tình cảm nhân dân ở hậu phương đối với thương binh ở chiến trường ra rất chu đáo, mặn nồng. Trong nhiều gia đình cũng có con đi chiến đấu ở chiến trường B. Họ coi chúng tôi như những người thân trở về. Tuy đời sống vật chất còn nghèo nhưng vui, cùng nhau chia sẻ khó khăn, thiếu thốn.

Theo qui định, mọi thương binh ở chiến trường ra được an dưỡng 3 tháng. Trong thời gian an dưỡng, giải quyết đầy đủ mọi quyền lợi như: Cấp giấy sinh hoạt Đảng; phiên quân hàm; giám định thương tật; và sau đó giải quyết chính sách tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng người.

Khi ở chiến trường ra, mọi Đảng viên chỉ có một giấy sinh hoạt Đảng tạm thời do đơn vị cũ cấp, nay đổi lại thành giấy sinh hoạt Đảng chính thức.

Trong chiến đấu ở chiến trường B dài, dưới danh nghĩa là Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, việc phong thăng quân hàm không gọi theo các bậc của cấp úy, cấp tá như ở Miền Bắc mà gọi là: trung đội bậc phó, trung đội bậc trưởng, đại đội bậc phó, đại đội bậc trưởng,…cho tới cấp cao nhất là sư đoàn bậc trưởng. Khi ra Miền Bắc, căn cứ vào đó để phiên sang các bậc quân hàm tương ứng. Thực ra, việc phiên quân hàm này cũng có đôi điều bất hợp lý. Ví dụ: cấp đại đội bậc phó những năm trước ra Miền Bắc được phiên quân hàm trung úy. Nhưng sau đó, cả đại đội bậc phó và đại đội bậc trưởng đều phiên trung úy. Mà ở chiến trường, từ đại đội bậc phó lên đại đội bậc trưởng là cả một sự phấn đấu, rèn luyện trong chiến đấu. Lại có người đã là trung úy ở Miền Bắc rồi vào chiến đấu ở Miền Nam được phiên sang đại đội bậc phó. Sau mấy năm chiến đấu, bị thương ra Miền Bắc an dưỡng lại phiên sang trung úy. Thật buồn! Đã không thăng quân hàm thì chớ, mà lại trồi lên trụt xuống cứ như bị kỷ luật ấy,…Chẳng biết ai sáng tác ra qui định lạ lùng ấy.

Khi bị thương trong chiến đấu ở chiến trường, cán bộ chiến sĩ được đơn vị cơ sở cấp trung đoàn hoặc tương đương trở lên cấp một giấy chứng nhận bị thương. Giấy này là căn cứ pháp lý để sau khi điều trị ổn định vết thương, tiến hành giám định thương tật ở các đoàn an dưỡng. Kết quả giám định những người mất sức lao động từ 21% trở lên thì được xác nhận là thương binh các hạng, hàng tháng được hưởng trợ cấp thương tật và các chính sách đãi ngộ khác. Những người bị thương nhẹ hơn, tỷ lệ mất sức lao động từ 5% đến 20%, thì được trợ cấp một lần bằng một số tháng lương theo cấp bậc quân hàm của mỗi người – nôm na gọi là tiền xương máu.

 Sau khi hết thời gian an dưỡng, việc giải quyết chính sách là căn cứ vào điều kiện cụ thể về sức khỏe, năng lực và điều kiện cụ thể của mỗi người. Một số tuổi còn trẻ, thương tật nhẹ, được điều động trở lại các đơn vị thường trực. Một số khác được cử đi học ở trường quản lý kinh tế hoặc các trường đào tạo nghề. Số vốn là công nhân viên chức Nhà nước được trở về cơ quan xí nghiệp cũ. Một số có trình độ chuyên môn phù hợp, thì được chuyển ngành sang các cơ quan dân chính đảng. Ngày đó, Chính phủ qui định các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước phải tiếp nhận trong biên chế có tỷ lệ 5% là thương binh. Sau khi đã giải quyết cho thương binh thuộc diện đi học nghề, học văn hóa và chuyển ngành sang cơ quan xí nghiệp Nhà nước, số còn lại phần đông là phục viên về địa phương.

Tôi không vui vì là đại đội bậc trưởng mấy năm rồi cũng chỉ được phiên quân hàm trung úy. So với thực tế, tôi bị thiệt thòi hơn. Bởi lẽ, tôi đã được thăng đại đội bậc phó từ tháng 12 năm 1968 - nếu ở thời điểm đó ra Bắc, tôi đã được phiên thượng úy. Tính từ khi thăng đại đội bậc phó đến khi ra Miền Bắc đã có 3 năm ở chiến trường, chiến đấu nhiều trận, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hẳn hòi, rồi đã được thăng đại đội bậc trưởng từ tháng 10/1969. Vậy mà cũng chỉ được phiên quân hàm trung úy bằng những người công tác ở các đơn vị phía sau, vừa được thăng đại đội bậc phó trước khi ra Bắc.

Kết quả giám định thương tật vết thương ở phổi cộng với các vết thương ở chân và tay, tôi mất sức lao động vĩnh viễn 37%, xếp thương binh hạng 2/8. Thực tình, lúc đó vì muốn ở lại tiếp tục phục vụ quân đội lâu dài, tôi không muốn Hội đồng Giám định y khoa xếp tôi ở hạng thương tật cao hơn.

Vậy đấy, giống như nhiều cán bộ trẻ lúc bấy giờ, cũng là quyền lợi, nhưng tôi muốn quân hàm thì được phiên ở bậc cao mà thương tật lại chỉ muốn được xếp ở hạng thấp.

Trong thời gian an dưỡng ở Đoàn 251, điều quan tâm, băn khoăn nhất lớn nhất đối với tôi là công việc. Nhiều đêm tôi trăn trở thao thức, không tài nào ngủ được. Tương lai còn mờ mịt. Sự nghiệp cuộc đời là gì đây, khi tôi mới 23 tuổi. Đời còn phơi phới vậy mà đã phải đặt ra bên lề sự nghiệp, loại ra khỏi con đường danh vọng. Với tình trạng thương tật mất sức 37%, văn hóa mới học dở lớp 9, chắc chả cơ quan nào tiếp nhận. Như nhiều thanh niên hồi đó, ngoài việc cầm súng đánh giặc, tôi chưa được đào tạo một nghề nghiệp chuyên môn gì. Gọi là nông dân thứ thiệt, sinh ra lớn lên ở một vùng nông thôn thuần túy, nhưng lúc đó nhiều việc sơ đẳng của nhà nông như cày, bừa, cấy, gặt,..tôi cũng chưa biết làm. Tôi lo lắng, thậm chí bi quan, cho tiền đồ của mình.

Tự xét thấy, vì sức khỏe, thương tật, tôi nghĩ mình khó có điều kiện trở lại đội ngũ chiến đấu như một số bạn bè lúc đó. Chính vì vậy, khi nhận được thư của Ban Cán bộ Phòng Chính trị của Bộ Tư lệnh Đặc công mời đến để xem xét nghiên cứu có thể xếp một công việc thích hợp, tôi đã từ chối, bằng cách coi như không nhận được thư nên không đến.

Nguyện vọng của tôi lúc bấy giờ là được cấp trên cho đi học văn hóa cho hết  cấp III, sau đó thi vào Đại học. Nghĩ rằng, dẫu đã muộn, nhưng cổng trường Đại học vẫn rộng mở đối với lớp lứa chúng tôi. Ở tôi, chí tiến thủ trong học tập vẫn còn, trí nhớ còn tốt, lại được ưu tiên là thương binh trong thi tuyển theo chính sách hiện hành, tôi tự tin là đỗ. Bất quá, trường hợp không đỗ đại học, thì xin đi học trung cấp chuyên nghiệp để kiếm lấy một nghề cho cuộc sống lâu dài. Tôi đề đạt nguyện vọng với Thủ trưởng đơn vị, nhưng chờ mãi không thấy có quyết định. Trong khi đó, nhiều anh em khác cùng về an dưỡng một đợt, đã lần lượt lên đường đi theo nhiều hướng khác nhau, tôi sốt ruột lắm.

Trong khi chờ quyết định của trên, tôi xin phép đơn vị, mượn một chiếc xe đạp đi sang Thái Bình thăm các gia đình của nhiều đồng đội, hoặc đã hy sinh, hoặc còn chiến đấu ở chiến trường. Vậy là, chỉ bằng một chiếc xe đạp cà tàng, tôi một mình rong ruổi từ Kim Động – Hưng Yên vượt phà Triều Dương theo Đường 39 sang các huyện Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải – Thái Bình. Trong thời gian hơn 10 ngày, cứ sáng lên đường hỏi thăm tìm đến một nhà theo trí nhớ. Tối ngủ lại gia đình của đồng đội cũ, sáng dậy lại đi tiếp. Cứ thế, tôi đã đi hàng mấy chục, thậm chí cả trăm cây số, qua từng ngõ ngách thôn xóm xa lạ ở miền quê Thái Bình, đến hầu hết gia đình của anh em thuộc Đại đội 20 đặc công. Dẫu chưa quen biết, nhưng khi nghe tôi nói là bạn cùng chiến đấu với con em mình, các gia đình đã vồ vập, đón tiếp tôi rất thịnh tình, chu đáo. Tôi có đến một vài gia đình của những anh em đã hy sinh. Khi biết rằng, địa phương chưa báo tử, tôi đến thăm nhìn lại gia cảnh bố mẹ già, nhà cửa dột nát, con thơ, vợ trẻ của đồng đội, lòng ngẹn ngào, ái ngại nhưng không giám nói gì. Nhiều gia đình lâu rồi không nhận được tin con, trong sâu thẳm đáy lòng đã linh cảm thấy điều bất ổn. Mọi gia đình đều coi tôi như con em họ đi chiến đấu trở về. Thật cảm động vô cùng. Khi tôi ra đi, nhiều bà mẹ, ông bố đã ôm lấy tôi mà khóc. Tôi biết, bao năm trường, trong cõi lòng họ ngày đêm nhớ mong con đến da diết.

 

 Tháng Giêng năm 1972, tôi được về nghỉ phép trong dịp Tết Nguyên đán. Đây là lần nghỉ phép đầu tiên trong cuộc đời bộ đội của tôi. Gần 8 năm xa quê hương và gia đình đi chiến đấu, bị thương, nay được trở về, tôi bồi hồi xao xuyến. Chuyến tàu tốc hành chuyển bánh từ Hà Nội lúc 2 giờ chiều ngày hôm trước đến ga Vinh lúc đã gần 3 giờ sáng ngày hôm sau. Tôi xuống tàu rồi mua vé chuyến tàu chợ sáng mai đi ngược ra ga Quán Hành. Giữa đêm đông giá rét, trời mưa phùn lất phất,  tôi choàng tấm áo bạt, ôm chiếc ba lô ngồi thu lu trên chiếc ghế đá lạnh lẽo ở sân ga tàu hỏa thời chiến. Phố xá không ánh đèn. Xung quanh sân ga, những hàng quán bán vặt, lờ mờ ánh đèn dầu hỏa đỏ hoe, vàng quạch, không tỏ mặt người. Tôi cố hình dung quang cảnh ngày mai - ngày trở về nhà. Lòng ngậm ngùi xót thương nhớ đến những người bạn, những đồng đội cùng nhập ngũ, cùng đi chiến đấu mà nay không trở về sum họp gia đình.

Khoảng 9 giờ sáng, tàu dừng lại ga Quán Hành, tôi khoác chiếc ba lô rảo bước về quê, lòng lâng lâng vui buồn khôn tả. Vui vì được về nhà sau 8 năm xa cách. Buồn vì ngày trở về không còn mẹ. Khi tôi đang đi trên con đường qua Đồng Nạy, cách nhà còn khoảng hơn 200 mét, cả đội xã viên đang cấy lúa ở vạt ruộng ven đường. Có người ngẩng lên, phát hiện ra tôi, ai đó có kêu to lên :

- Ôi bà con ơi! Làng nước ơi! Nhìn kìa, đúng không? Thằng Đẩu con ông Hòe đi bộ đội về kia kìa.

Tức thì cả đội xã viên bỏ lại nắm mạ đang cấy giở, nhảy vội lên bờ, chân tay còn lấm lem bùn đất, vây quanh tôi. Mự Nghi vợ chú Lời ôm choàng lấy tôi ghì chặt:

- Trời ơi, may quá, cháu còn sống trở về.

Rồi cứ thế mọi người dẫn tôi về nhà. Khi rẽ vào ngõ, gặp một người phụ nữ trạc ngoài 40 tuổi, mọi người hỏi tôi có biết ai không. Tôi vừa lắc đầu, vừa nhoẻn miệng cười ầm ừ.

Mự Nghi nói:

- Nó không biết là phải, Mự Phượng đấy cháu ạ.

Thì ra đó là bà mẹ kế của tôi mà tôi chưa bao giờ gặp. Tôi chào bà và cùng đi về nhà. Sau khi gặp cha tôi và bà con ở cái sân gạch, tôi lẳng lặng vào gian bếp bé nhỏ và khóc òa lên hồi lâu. Tôi lặng người ở đây. Chính tại chỗ này, mẹ tôi đã ôm tôi vào lòng khóc nức nở trước giờ tôi lên đường nhập ngũ. Nay về đây cảnh vật còn nguyên, mà không còn mẹ nữa. Tám năm qua, dù ở đâu, nhất là trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất, tôi luôn luôn nhớ về hình ảnh thân thương của mẹ, mà ấn tượng đọng lại sau cùng là bóng hình của mẹ ngồi bên bếp lửa lúc chia tay. Thấy tôi khóc, các bác, các cô chú cũng động lòng thương cảm. Nhiều người ngẹn ngào, đưa tay dụi mắt.

Được một lúc thì các em  Đào, Loan, Phượng đi chăn trâu, cắt cỏ mới về. Mọi người dẫn các em vào nhà bảo rằng anh chúng mày đấy. Các em ngơ ngác nhìn, chẳng nhận ra tôi. Và tôi cũng thế. Nhìn các em chân không giày dép, ăn mặc phong phanh rách rưới, nhếch nhác, người xanh xạm, gầy yếu, tôi thương vô cùng, nước mắt cứ thế lại trào ra. Các em tôi phải mồ côi mẹ từ khi còn rất bé.

 Những ngày mới về, bà con nội ngoại và lối xóm đến chơi và hỏi thăm rất nhiều, có lúc chật cả nhà, đến tận khuya.  Hồi đó quê tôi hầu như gia đình nào cũng có người thân đi chiến đấu ở chiến trường Miền Nam. Nhiều gia đình đã nhiều năm bặt tin con. Có trường hợp biết chắc là đã hy sinh nhưng chưa báo tử. Việc tôi đi chiến đấu trở về, dẫu trên mình mang đầy thương tích, nhưng là chuyện may, chuyện hiếm. Mọi người đến thăm như thăm người ruột thịt từ nơi ác liệt trở về. Mấy ngày sau, tôi lần lượt đi thăm bà con nội ngoại. Quê tôi hồi đó phần đông trai tráng đã gia nhập quân đội hoặc đi thanh niên xung phong phục vụ các chiến trường, còn lại chỉ còn các ông bà già, trung niên và trẻ em.

 Là trưởng nam, lại đã 24 tuổi, cha tôi và bà con muốn tôi sớm lập gia đình trong kỳ nghỉ phép. Bạn bè cùng trang lứa đều vậy. Ở quê tôi, những năm trong chiến tranh, việc chọn vợ gả chồng gấp gáp và đơn giản. Có thể có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là các gia đình cố giữ lấy giọt máu của người đi vào nơi khói lửa chiến tranh, sống chết chẳng biết thế nào. Có người trúng tuyển bộ đội hoặc ở bộ đội về tranh thủ, gia đình lo liệu việc cưới hỏi ngay. Cả tìm hiểu và cưới diễn ra trong vòng một tuần lễ, mà trước đó chưa hề quen biết nhau, chứ chưa nói đến chuyện yêu. Ấy vậy mà, những cặp vợ chồng đó vẫn ăn ở với nhau trọn đời chung thủy. Ở đó, cùng với tình yêu đến sau hôn nhân, phần đông họ sống với nhau bằng nghĩa, bằng sự cảm thông chia sẻ và lo lắng cho nhau trong hoàn cảnh ngặt nghèo của chiến tranh.  Nhiều gia đình có đến mấy mặt con, nhưng thời gian vợ chồng gần gũi chỉ tính được bằng số ngày người chồng tranh thủ tạt qua  nhà. Cưới xong, người chồng đi chiến đấu, biền biệt không tin tức, người vợ ở nhà một mình đêm ngày vò võ chờ chồng, lo nuôi dưỡng bố mẹ già, chăm sóc con thơ, qua một thời xuân sắc. Và biết bao người, sau nhiều năm đợi chờ khắc khoải, đến một ngày đớn đau nhận được tờ giấy báo tử lạnh lùng, lờ mờ nhạt nhòa trong nước mắt. Thế là hết một đời làm vợ, đơn chiếc, vô vọng.

 Quả thật, trên mọi miền quê của đất nước chúng ta, suốt mấy chục năm chiến tranh, cùng với sự hy sinh oanh liệt ở trận tiền của lớp lớp trai tráng, thì biết bao thế hệ phụ nữ thầm lặng chịu đựng ở hậu phương, lo việc nước đảm việc nhà, mòn mỏi tuổi xuân trong sự đợi chờ khắc khoải. Đây là sự hy sinh lớn lao, không thể đo đếm được bằng một tiêu chí, một con số cụ thể.

Thời gian nghỉ phép ngắn, tâm trí tôi còn dành sự lo lắng cho tương lai công ăn, việc làm; tự xét thấy mình cũng không việc gì phải vội; vả lại, “cái gu” gấp gáp trong việc trăm năm nghe ra không hợp với tôi. Vì vậy, khi trả phép về đơn vị, tình cảm trong tôi chưa định hình, trái tim tôi chưa neo đậu về một người con gái nào cả.

Sau khi trả phép được mấy hôm, một buổi trưa tôi đang đi tắm ngoài kênh, thì Ban chỉ huy Đội an dưỡng cho người ra gọi về. Anh Lộc chính trị viên Đội, vốn là người cùng đơn vị với tôi ở chiến trường, thông báo với tôi là có một anh cán bộ của Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị đi chọn người về đơn vị. Anh hỏi tôi nguyện vọng có đồng ý về Cục Chính sách không? Dẫu chưa biết về Cục Chính sách thì làm gì, ở đâu, nhưng chờ mãi không thấy trên giải quyết theo nguyện vọng của mình, sốt ruột, tôi nhận lời vì cho rằng đây cũng là một thời cơ hiếm.

Tôi không ngờ đó là quyết định bước ngoặt trong cuộc đời tôi. Cục Chính sách – Bến đậu lâu nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi. Trừ 4 năm ( 1988 - 1992 ) tôi giữ chức Trưởng phòng Tổng hợp của Văn phòng Tổng cục Chính trị. Còn lại, cộng cả hai giai đoạn - từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 3 năm 1988 và từ tháng 3 năm 1992 đến tháng 10 năm 2000; từ một Trợ lý sĩ quan cấp úy, cho tới khi lên cấp Thiếu tướng, giữ chức Cục trưởng - vị chi tôi công tác ở Cục Chính sách đến 25 năm trên tổng số 45 năm tuổi quân đằng đẵng ./.